lundi 4 août 2025

WILFRED OWEN

 


WILFRED OWEN

( 1893 - 1918 ) 



Wilfred Owen là một nhà thơ và người lính Anh, được coi là một trong những nhân vật văn học quan trọng nhất của Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Owen sinh ra tại Oswestry, Anh, và theo học tại Trường Kỹ thuật Shrewsbury trước khi làm trợ lý giáo dân cho mục sư ở Dunsden. Ông gia nhập Quân đội Anh vào năm 1915 và được điều đến Mặt trận phía Tây, nơi ông trực tiếp tham chiến trong các chiến hào. Trong suốt thời gian phục vụ, Owen vẫn tiếp tục sáng tác thơ, và các tác phẩm của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những trải nghiệm chiến tranh và nỗi thống khổ mà ông chứng kiến. Thơ của Owen nổi tiếng với tính hiện thực tàn khốc, cảm xúc mãnh liệt và sự lên án mạnh mẽ đối với những kinh hoàng của chiến tranh. Một số bài thơ nổi tiếng nhất của ông bao gồm “Anthem for Doomed Youth”, “Dulce et Decorum Est” và “Strange Meeting”. Các tác phẩm của ông được xuất bản sau khi ông hy sinh tại Pháp vào tháng 11 năm 1918, chỉ một tuần trước khi Hiệp định đình chiến chấm dứt cuộc chiến được ký kết. Ngày nay, thơ của Owen được nghiên cứu và ngưỡng mộ rộng rãi nhờ sự thể hiện mạnh mẽ và cảm động về hiện thực chiến tranh, và ông được nhớ đến như một tiếng nói đầy ý nghĩa trong nền văn học Thế chiến thứ nhất.

Owen từng theo học tại Học viện Birkenhead, Liverpool và Trường Kỹ thuật Shrewsbury. Ông từng làm giáo sinh tại một giáo xứ nghèo ở nông thôn trước khi buộc phải từ bỏ kế hoạch học tại Đại học London do thiếu kinh phí. Sau đó, ông nhận một vị trí giảng dạy tại Bordeaux (Pháp) vì không có đủ tiền học tiếp.

Wilfred Owen 22 tuổi khi gia nhập Quân đội Anh. Ông sinh ngày 18 tháng 3 năm 1893 và nhập ngũ vào tháng 10 năm 1915. Trong khi chiến đấu tại mặt trận Somme năm 1917, ông bị chấn thương nặng và mắc “sốt chiến hào”, buộc phải điều trị tại Bệnh viện Chiến tranh Craiglockart ở Edinburgh. Tại đây, ông gặp Siegfried Sassoon, người đã đọc thơ ông, góp ý chỉnh sửa và khích lệ tinh thần ông rất nhiều. Năm 1918, Owen được điều trở lại Pháp, nơi ông được trao Huân chương Chữ thập Quân đội (Military Cross – MC) trước khi hy sinh tại kênh Sambre chỉ một tuần trước khi hiệp định đình chiến được ký kết. Thơ của ông mang vẻ đẹp từ lòng trắc ẩn sâu sắc kết hợp với hiện thực khốc liệt. Owen cũng được công nhận là một nhà thơ có kỹ thuật xuất sắc và bậc thầy về sự đa dạng trong nhịp điệu. Những bài thơ như “Dulce et Decorum Est” và “Anthem for Doomed Youth” đã có ảnh hưởng lớn đến cách chúng ta nhìn nhận về chiến tranh.

Wilfred Owen  được xem là một trong những nhà thơ lớn nhất của nước Anh trong Thế chiến thứ nhất, nổi bật với giọng điệu phản chiến dữ dội, đầy bi thương, chân thực và nhân bản. Dưới đây là những điểm chính trong đánh giá về ông: Trong khi nhiều nhà thơ cùng thời vẫn ca ngợi tinh thần anh hùng hay lòng yêu nước, Wilfred Owen phơi bày bộ mặt khốc liệt, phi lý và vô nhân đạo của chiến tranh. Ông không tô hồng cái chết mà mô tả nó với đầy máu, bùn và nỗi đau — như trong bài Dulce et Decorum Est (“Ngọt ngào và cao cả khi chết cho Tổ quốc”) với giọng điệu mỉa mai, phẫn nộ.

Owen được đánh giá cao về:
Ngôn ngữ giàu hình ảnh và ẩn dụ, thường sử dụng kỹ thuật pararhyme (vần không

hoàn toàn), mang âm vang gãy gập, ám ảnh.
Nhịp điệu thi ca bất thường, phản ánh sự hỗn loạn của chiến tranh.
Chất hiện thực tàn khốc đi kèm với chiêm nghiệm triết lý và cảm xúc cá nhân sâu
lắng.

Owen không chỉ nói về cái chết, mà còn nói về nỗi đau của con người, về nỗi cô đơn, thương tổn thể xác và tinh thần, đặc biệt là của những người lính trẻ. Ông mang đến sự xót xa và thấu cảm, chứ không phải chỉ lên án hay tức giận.

Cùng với Siegfried Sassoon, ông là đại diện của dòng thơ phản chiến trong văn học Anh. Tuy nhiên, Owen được đánh giá là sâu sắc và có sức ám ảnh hơn, vì thơ ông vừa hiện thực vừa đầy chất nhạc, chất mộng và chất siêu hình.

Wilfred Owen hy sinh vào tháng 11/1918, chỉ một tuần trước khi chiến tranh kết thúc, khi mới 25 tuổi. Cái chết trẻ ấy càng khiến thơ ông trở nên bi tráng và mang tính di cảo sâu sắc.
Được đưa vào hầu hết các tuyển tập thơ tiếng Anh quan trọng thế kỷ 20.Ảnh hưởng đến nhiều nhà thơ và nghệ sĩ hậu thế (như Benjamin Britten trong War Requiem).
Là biểu tượng cho thế hệ bị mất mát trong chiến tranh.


Sau đây là một số bài thơ của Ông.



ANTHEM FOR DOOMED YOUTH


What passing-bells for these who die as cattle?
Only the monstrous anger of the guns.
Only the stuttering rifles' rapid rattle
Can patter out their hasty orisons.
No mockeries now for them; no prayers nor bells;
Nor any voice of mourning save the choirs,
The shrill, demented choirs of wailing shells;
And bugles calling for them from sad shires.
What candles may be held to speed them all?
Not in the hands of boys, but in their eyes
Shall shine the holy glimmers of good-byes.
The pallor of girls' brows shall be their pall;
Their flowers the tenderness of patient minds,
And each slow dusk a drawing-down of blinds.


KHÚC THÁNH CA CHO NHỮNG THANH XUÂN CHẾT TRẬN


Ai kéo chuông tiễn kẻ chết như bò?

Chỉ tiếng súng giận gào như thú dữ.

Chỉ tiếng súng liên thanh run rẩy nổ,

Cầu kinh vội rơi vãi giữa hư vô.


Không chuông nguyện, không lời ai giả bộ,

Chẳng tiếng người đưa tiễn với lời than 

Chỉ đạn pháo gào thét trong điên dại,

Và kèn buồn vang vọng chốn thôn trang.


Ngọn nến nào ai cầm tiễn biệt đây?

Không trong tay, mà trong đôi mắt trẻ,

Ánh từ biệt thánh thiêng như lệ rơi.


Làn trán tái nhợt của em làm tấm phủ,

Hoa đưa tang - lòng kiên nhẫn người đời,

Và mỗi hoàng hôn là rèm kéo khép trời.



DISABLED

He sat in a wheeled chair, waiting for dark,
And shivered in his ghastly suit of grey,
Legless, sewn short at elbow. Through the park
Voices of boys rang saddening like a hymn,
Voices of play and pleasure after day,
Till gathering sleep had mothered them from him.

About this time Town used to swing so gay
When glow-lamps budded in the light blue trees,
And girls glanced lovelier as the air grew dim,-
In the old times, before he threw away his knees.
Now he will never feel again how slim
Girls' waists are, or how warm their subtle hands.
All of them touch him like some queer disease.

There was an artist silly for his face,
For it was younger than his youth, last year.
Now, he is old; his back will never brace;
He's lost his colour very far from here,
Poured it down shell-holes till the veins ran dry,
And half his lifetime lapsed in the hot race
And leap of purple spurted from his thigh.

One time he liked a blood-smear down his leg,
After the matches, carried shoulder-high.
It was after football, when he'd drunk a peg,
He thought he'd better join. - He wonders why.
Someone had said he'd look a god in kilts,
That's why; and maybe, too, to please his Meg,
Aye, that was it, to please the giddy jilts
He asked to join. He didn't have to beg;
Smiling they wrote his lie: aged nineteen years.

Germans he scarcely thought of; all their guilt,
And Austria's, did not move him. And no fears
Of Fear came yet. He thought of jewelled hilts
For daggers in plaid socks; of smart salutes;
And care of arms; and leave; and pay arrears;
Esprit de corps; and hints for young recruits.
And soon, he was drafted out with drums and cheers.

Some cheered him home, but not as crowds cheer Goal.
Only a solemn man who brought him fruits
Thanked him; and then enquired about his soul.

Now, he will spend a few sick years in institutes,
And do what things the rules consider wise,
And take whatever pity they may dole.
Tonight he noticed how the women's eyes
Passed from him to the strong men that were whole.
How cold and late it is! Why don't they come
And put him into bed? Why don't they come?



TÀN PHẾ


Chàng ngồi xe lăn, chờ đêm buông lạnh,

Run lẩy bẩy trong bộ áo tro ghê.

Cụt cả chân, tay may ngắn lối quê,

Công viên vẳng tiếng con trai đùa gọi —

Nghe như thánh ca buồn, vang trong tối,

Cho đến khi giấc ngủ đến ôm về.


Chừng giờ này, phố từng vui biết mấy,

Đèn vừa lên, cây ánh tím mơ màng,

Ánh mắt em mờ, lòng càng xốn xang —

Thời ngày xưa, trước khi chàng mất gối.

Giờ chẳng biết vòng eo ai thon gọn,

Hay tay mềm ai ấm áp ngại ngùng.

Mọi bàn tay giờ chạm như bệnh lạ.


Có họa sĩ từng say mê khuôn mặt,

Vì nó non hơn cả tuổi đôi mươi.

Nay lưng cong, già trước cả cuộc đời,

Sắc máu đổ nơi chiến hào xa lắc,

Chảy cạn theo từng vết nổ thê lương,

Nửa đời chìm trong đua tranh hỏa ngục,

Màu đỏ tím phụt lên từ vết thương.


Ngày trước, chàng yêu vết máu loang chân,

Sau trận đấu, vai nâng cao chiến thắng.

Lúc uống say, bỗng hứng khởi nhập quân —

Chàng cũng chẳng hiểu sao mình từng nhận.

Người ta bảo: mặc váy trông thần thánh!

Và để chiều cô Meg nữa, hẳn rồi.

Chàng chẳng nài — họ cười vui, viết vội:

“Mười chín xuân xanh”, làn bút dối ngây cười.


Chàng đâu nghĩ đến Đức, hay tội lỗi

Áo gây ra — chẳng mảy động lòng đâu.

Chỉ tưởng đến dao găm chuôi nạm ngọc,

Vớ gấm viền, nghi lễ lúc chào nhau,

Lương còn thiếu, ngày phép, tinh thần đội…

Rồi tiếng trống tiễn chàng bước nhiệm mầu.


Có người đón, nhưng đâu như sân bóng —

Một ông già mang trái cây, lặng thinh,

Tạ ơn rồi hỏi: “Linh hồn anh sao nhỉ?”


Giờ chàng sẽ sống vài năm bệnh viện,

Làm điều gì luật lệ thấy là hay,

Và nhận những mẩu thương xót người ta.

Tối nay chàng thấy ánh nhìn đàn bà

Lướt qua chàng, tìm người không thương tật.

Lạnh lẽo quá! Đêm đã khuya, ai đặt

Chàng lên giường đi chứ? Họ đâu rồi?



ASLEEP



Under his helmet, up against his pack,
After so many days of work and waking,
Sleep took him by the brow and laid him back.

There, in the happy no-time of his sleeping,
Death took him by the heart. There heaved a quaking
Of the aborted life within him leaping,
Then chest and sleepy arms once more fell slack.

And soon the slow, stray blood came creeping
From the intruding lead, like ants on track.

Whether his deeper sleep lie shaded by the shaking
Of great wings, and the thoughts that hung the stars,
High-pillowed on calm pillows of God's making,
Above these clouds, these rains, these sleets of lead,
And these winds' scimitars,
-Or whether yet his thin and sodden head
Confuses more and more with the low mould,
His hair being one with the grey grass
Of finished fields, and wire-scrags rusty-old,
Who knows? Who hopes? Who troubles? Let it pass!
He sleeps. He sleeps less tremulous, less cold,
Than we who wake, and waking say Alas!

ĐANG NGỦ



Dưới mũ sắt, lưng tựa ba lô nặng,

Sau bao ngày thao thức giữa gian lao,

Giấc ngủ đến, vuốt trán chàng, dịu dàng

Đưa chàng ngả vào yên bình sâu lắng.


Trong cõi ngủ – không thời gian mộng mị –

Tử thần đến, nắm lấy tim chàng.

Một cơn rung bật lên trong thân thể,

Một đời sống bị hủy hoại dở dang,

Rồi ngực và tay ngủ yên, rũ rượi.


Và chẳng bao lâu, máu rỉ chậm rãi,

Từ viên chì xâm phạm thân mình,

Như đàn kiến lần theo đường định sẵn,

Trườn lặng lẽ qua thịt da tanh tanh.


Liệu giấc ngủ sâu kia có được chở che

Bởi cánh thiên thần rung trời khiếp đảm,

Nghĩ suy treo trên tinh tú trầm ngâm,

Đầu tựa gối thiêng – tay Thượng Đế đỡ?

Vượt mây đen, bão đạn, gió lưỡi dao,

Ngài ru chàng qua cõi vô ưu đó?


Hay chiếc đầu ướt sũng, mỏng manh kia

Ngày một hòa cùng tầng bùn thấp bé,

Mái tóc tan trong cỏ úa tro tàn,

Giữa cánh đồng chết, rỉ sắt giăng ngang?

Ai hay? Ai mong? Ai còn vương vấn?

Thôi cứ để vậy. Giờ chàng yên ngủ —

Ấm áp hơn, bớt run, bớt lạnh băng

Hơn chúng ta – những kẻ còn thức tỉnh

Và rùng mình thốt mãi tiếng “Than ôi!”




MENTAL CASES



Who are these? Why sit they here in twilight?
Wherefore rock they, purgatorial shadows,
Drooping tongues from jays that slob their relish,
Baring teeth that leer like skulls' teeth wicked?
Stroke on stroke of pain,- but what slow panic,
Gouged these chasms round their fretted sockets?
Ever from their hair and through their hands' palms
Misery swelters. Surely we have perished
Sleeping, and walk hell; but who these hellish?

-These are men whose minds the Dead have ravished.
Memory fingers in their hair of murders,
Multitudinous murders they once witnessed.
Wading sloughs of flesh these helpless wander,
Treading blood from lungs that had loved laughter.
Always they must see these things and hear them,
Batter of guns and shatter of flying muscles,
Carnage incomparable, and human squander
Rucked too thick for these men's extrication.

Therefore still their eyeballs shrink tormented
Back into their brains, because on their sense
Sunlight seems a blood-smear; night comes blood-black;
Dawn breaks open like a wound that bleeds afresh.
-Thus their heads wear this hilarious, hideous,
Awful falseness of set-smiling corpses.
-Thus their hands are plucking at each other;
Picking at the rope-knouts of their scourging;
Snatching after us who smote them, brother,
Pawing us who dealt them war and madness.



KẺ MẤT TRÍ


Họ là ai? Sao ngồi đây trong ánh hoàng hôn?

Sao họ lắc, như bóng ma chốn luyện hình,

Lưỡi rũ rượi, như chim rừng lả lướt,

Răng hở ra, như sọ chết ám tinh?

Từng cơn đau dội về, mà nỗi hoảng hốt

Nào khoét sâu hốc mắt họ hãi kinh?

Từ mái tóc, qua từng kẽ tay nứt nẻ,

Đau khổ rịn ra, ta đã chết khi ngủ quên,

Nay thức dậy giữa địa ngục — còn họ là ai đây,

Những hình hài địa ngục hiện hình ghê rợn?

 Họ là những người, trí óc bị lũ chết lôi đi.

Ký ức cào tóc họ bằng muôn tội ác,
Những vụ thảm sát họ từng chứng kiến.

Họ bước đi, lội qua bùn thịt tanh hôi,

Dẫm lên máu từ buồng phổi từng biết cười.

Luôn luôn, họ phải thấy và phải nghe

Tiếng đại bác gầm, thịt người bay vỡ,

Cuộc tàn sát không ai sánh nổi,

Người vùi người, không lối thoát nào cho họ.


Vì vậy, mắt họ mãi co rút trong tuyệt vọng,

Rúc sâu vào não, vì ánh sáng với họ

Là vệt máu loang; đêm thì đen như máu đặc;

Bình minh mở ra như vết thương rỉ máu lần hai.

Thế nên đầu họ mang nụ cười giả dối,

Giống thi thể cười đông cứng, kinh hoàng, gượng gạo.

 Thế nên tay họ cấu víu nhau,

Gỡ từng nút roi cột nơi xác thịt,

Chộp lấy chúng ta, những kẻ đã đánh họ,

Vuốt ve chúng ta, kẻ đã gieo chiến tranh và điên loạn.




BEAUTY



The beautiful, the fair, the elegant,
Is that which pleases us, says Kant,
Without a thought of interest or advantage.

I used to watch men when they spoke of beauty
And measure their enthusiasm. One
An old man, seeing a setting sun,
Praised it a certain sense of duty
To the calm evening and his time of life.
I know another man that never says a Beauty
But of a horse;

Men seldom speak of beauty, beauty as such,
Not even lovers think about it much.
Women of course consider it for hours
In mirrors;

A shrapnel ball -
Just where the wet skin glistened when he swam -
Like a fully-opened sea-anemone.
We both said 'What a beauty! What a beauty, lad'
I knew that in that flower he saw a hope
Of living on, and seeing again the roses of his home.
Beauty is that which pleases and delights,
Not bringing personal advantage - Kant.
But later on I heard
A canker worked into that crimson flower
And that he sank with it
And laid it with the anemones off Dover.



VẺ ĐẸP



Đẹp đẽ, thanh tao, tao nhã tuyệt vời 

Là những gì khiến lòng ta vui vẻ,

Mà không chút vụ lợi, Kant từng nói thế.


Tôi từng nhìn những người bàn về cái đẹp,

Và lắng nghe lòng nhiệt thành họ dành.

Một ông già, ngắm mặt trời đang lặn,

Khen ngợi nó như một bổn phận

Với buổi chiều tĩnh lặng và tuổi đời xế bóng.

Tôi biết một người khác, chẳng bao giờ nói đến Vẻ đẹp

Trừ khi nhắc đến một con ngựa.


Đàn ông hiếm khi bàn về cái đẹp, đẹp như nó vốn là,

Ngay cả người đang yêu cũng ít khi nghĩ đến.

Phụ nữ thì, họ ngẫm suy hàng giờ

Trước gương soi.


Một viên đạn pháo 

Đúng chỗ làn da anh từng ánh nước khi bơi lội 

Nở bung ra như hải quỳ giữa đại dương sâu.

Cả hai chúng tôi đều thốt lên: “Đẹp quá!

Đẹp quá, chàng trai ơi!”

Tôi biết trong bông hoa ấy, anh thấy một hy vọng

Được sống tiếp, được trở về

Thấy những đóa hồng quê nhà.


Vẻ đẹp là điều làm lòng ta vui sướng,

Không đem lại lợi lộc cá nhân Kant.

Nhưng sau đó tôi nghe tin

Một vết ung mục đã len vào bông hoa đỏ ấy,

Và anh chìm xuống cùng nó,

Nằm lặng yên giữa những hải quỳ ngoài khơi Dover.



A NEW HEAVEN



Seeing we never found gay fairyland
(Though still we crouched by bluebells moon by moon)
And missed the tide of Lethe; yet are soon
For that new bridge that leaves old Styx half-spanned;
Nor ever unto Mecca caravanned;
Nor bugled Asgard, skilled in magic rune;
Nor yearned for far Nirvana, the sweet swoon,
And from high Paradise are cursed and banned;

-Let's die home, ferry across the Channel! Thus
Shall we live gods there. Death shall be no sev'rance.
Weary cathedrals light new shrines for us.
To us, rough knees of boys shall ache with rev'rence.
Are not girls' breasts a clear, strong Acropole?
-There our oun mothers' tears shall heal us whole.



MỘT THIÊN ĐƯỜNG MỚI


Vì ta chẳng bao giờ tìm thấy xứ tiên,

(Dẫu vẫn ngồi bên chuông xanh mỗi kỳ trăng),

Và chẳng lạc trong triều Lethe lặng,

Nay sắp sang cầu mới, bắc dở sông Styx buồn tênh;

Ta chưa từng đến Mecca trên đường hành hương,

Chẳng kèn vang gọi Asgard, vẫy bùa linh,

Chẳng mơ Nirvana, cơn mê ngọt dịu,

Cũng bị đuổi xa khỏi Thiên Đường vĩnh cửu.


 Vậy hãy chết nơi quê hương, băng qua Kênh eo biển!

Ta sẽ sống như thần linh ở đất kia hiền.

Những giáo đường uể oải thắp đền thờ mới,

Bọn trẻ quỳ, gối thô rát vì kính yêu ta.

Ngực thiếu nữ chẳng là Acropolis trong sáng, kiêu sa?

 Nơi ấy, lệ mẹ ta sẽ chữa lành tất cả.



I KNOW THE MUSIC 


All sounds have been as music to my listening:
Pacific lamentations of slow bells,
The crunch of boots on blue snow rosy-glistening,
Shuffle of autumn leaves; and all farewells:

Bugles that sadden all the evening air,
And country bells clamouring their last appeals
Before [the] music of the evening prayer;
Bridges, sonorous under carriage wheels.

Gurgle of sluicing surge through hollow rocks,
The gluttonous lapping of the waves on weeds,
Whisper of grass; the myriad-tinkling flocks,
The warbling drawl of flutes and shepherds' reeds.

The orchestral noises of October nights
Blowing symphonetic storms
Of startled clarions
Drums, rumbling and rolling thunderous and …

Thrilling of throstles in the keen blue dawn,
Bees fumbling and fuming over sainfoin-fields.



TA BIẾT ÂM NHẠC


Mọi âm thanh đều là nhạc với tai tôi:

Tiếng chuông chậm than van nơi Thái Bình,

Tiếng giày nghiến tuyết lam hồng lấp lánh,

Lá thu xào xạc; và những chia ly:


Tiếng kèn buồn làm chiều thêm quạnh quẽ,

Chuông làng vang, lời van cuối vọng xa,

Trước khi khúc kinh chiều dâng lời nhạc,

Cầu kêu vang khi xe ngựa lướt qua.


Tiếng sóng tràn qua đá rỗng réo gào,

Sóng liếm rêu như kẻ đói ngấu ngấu,

Tiếng thì thầm của cỏ, bầy chiên rung chuông nhỏ,

Tiếng sáo mục đồng ngân nga lả lơi.


Âm thanh dàn nhạc đêm thu thổi tới,

Gió hòa tấu cơn bão vang trời,

Kèn kinh ngạc bừng lên dữ dội,
Trống cuộn tròn như sấm động không nguôi…


Tiếng họa mi ngân lúc rạng đông sắc lạnh, 

Ong lượn lờ, giận dỗi giữa đồng cỏ hồng đậu.

 



STRANGE MEETING 



It seemed that out of the battle I escaped
Down some profound dull tunnel, long since scooped
Through granites which Titanic wars had groined.
Yet also there encumbered sleepers groaned,
Too fast in thought or death to be bestirred.
Then, as I probed them, one sprang up, and stared
With piteous recognition in fixed eyes,
Lifting distressful hands as if to bless.
And by his smile, I knew that sullen hall;
By his dead smile I knew we stood in Hell.
With a thousand fears that vision's face was grained;
Yet no blood reached there from the upper ground,
And no guns thumped, or down the flues made moan.
'Strange, friend,' I said, 'Here is no cause to mourn.'
'None,' said the other, 'Save the undone years,
The hopelessness. Whatever hope is yours,
Was my life also; I went hunting wild
After the wildest beauty in the world,
Which lies not calm in eyes, or braided hair,
But mocks the steady running of the hour,
And if it grieves, grieves richlier than here.
For by my glee might many men have laughed,
And of my weeping something has been left,
Which must die now. I mean the truth untold,
The pity of war, the pity war distilled.
Now men will go content with what we spoiled.
Or, discontent, boil bloody, and be spilled.
They will be swift with swiftness of the tigress,
None will break ranks, though nations trek from progress.
Courage was mine, and I had mystery;
Wisdom was mine, and I had mastery;
To miss the march of this retreating world
Into vain citadels that are not walled.
Then, when much blood had clogged their chariot-wheels
I would go up and wash them from sweet wells,
Even with truths that lie too deep for taint.
I would have poured my spirit without stint
But not through wounds; not on the cess of war.
Foreheads of men have bled where no wounds were.
I am the enemy you killed, my friend.
I knew you in this dark; for so you frowned
Yesterday through me as you jabbed and killed.
I parried; but my hands were loath and cold.
Let us sleep now ...



CUỘC GẶP GỠ LẠ KỲ


Tựa như ta thoát trận nơi chiến trường,

Lần xuống hầm sâu, đá xám vô thường,

Nơi đá hoa cương do chiến tranh nứt vỡ,

Vẳng tiếng ai rên, mộng chết không ngừng,

Họ nằm đó, hồn mê man tăm tối,

Tựa không chết, cũng chẳng buồn cựa mình.

Khi ta cúi nhìn, một người bật dậy,

Đôi mắt nhìn ta, đau xót, lặng thinh,

Bàn tay giơ như cầu xin hay chúc,

Và nụ cười kia, ta biết chốn này,

Nơi u sầu như mộ sâu lặng lẽ,

Ta hiểu: đây là địa ngục đọa đày.


Dù chẳng máu nào còn rơi xuống nữa,

Cũng không còn tiếng đại bác rền vang,

Không ai kêu khóc, không lửa, không khói,

“Bạn lạ,” ta nói, “nơi đây chẳng buồn mang?”

“Không,” người kia đáp, “trừ năm tháng lỡ,

Và hy vọng tàn, giấc mộng phai tan.

Hy vọng ngươi có, từng là đời ta đó,

Ta đã đi tìm vẻ đẹp mơ màng 


Vẻ đẹp ấy không nằm trong đôi mắt,

Không bím tóc mềm, chẳng ở môi ngoan,

Nó trêu chọc từng giây giờ kiên nhẫn,

Và nếu buồn, buồn đẹp hơn thế gian.

Niềm vui ta có từng làm người bật cười,

Lệ ta rơi cũng lưu dấu đâu đây,

Nhưng giờ phải chết, chân lý chưa kịp nói,

Lòng xót xa của chiến trận này.

Vì thế nhân gian vui lòng với tàn phá,

Hoặc phẫn nộ, rồi lại máu tràn đầy.


Họ sẽ nhanh như hổ rình con mồi,

Không ai rẽ bước, dẫu lạc đường đời,

Ta từng có dũng cảm và huyền bí,

Từng có minh triết, quyền lực trong tay.

Nhưng ta đã lỡ bước giữa cơn lùi vội,

Về thành quách hư danh dựng giữa mây.

Khi máu đã đặc quanh vành xe chiến,

Ta sẽ lên rửa bằng suối ngọt trong đầy,

Rửa bằng lẽ thật sâu hơn ô uế,

Ta từng muốn dâng tất cả hồn này 

Nhưng không bằng máu, không bằng rác chiến,

Trán người rớm máu chẳng do thương thay.


Ta là kẻ thù ngươi giết, bạn ơi.

Ta đã thấy ngươi, bóng tối mờ trôi 

Hôm qua ngươi cau mày đâm ta lặng lẽ,

Ta gạt đỡ, mà tay lạnh, rã rời…

Giờ thì ngủ nhé, ngủ thôi… người bạn cũ.




THE NEXT WAR



War's a joke for me and you,
Wile we know such dreams are true.
- Siegfried Sassoon

Out there, we've walked quite friendly up to Death,-
Sat down and eaten with him, cool and bland,-
Pardoned his spilling mess-tins in our hand.
We've sniffed the green thick odour of his breath,-
Our eyes wept, but our courage didn't writhe.
He's spat at us with bullets and he's coughed
Shrapnel. We chorussed when he sang aloft,
We whistled while he shaved us with his scythe.

Oh, Death was never enemy of ours!
We laughed at him, we leagued with him, old chum.
No soldier's paid to kick against His powers.
We laughed, -knowing that better men would come,
And greater wars: when each proud fighter brags
He wars on Death, for lives; not men, for flags.



CUỘC CHIẾN KẾ TIẾP


“Chiến tranh – trò cười với tôi cùng anh,

Vì giấc mơ kia là thật hiển danh.”

 Siegfried Sassoon


Ngoài kia, ta bước cùng Thần Chết đó,

Ngồi bên nhau, ăn uống chẳng hoài nghi

Hắn làm đổ cơm, ta cười cho qua,

Ngửi hơi thở hăng xanh đầy tử khí,

Mắt ta rưng, mà lòng chẳng cúi đi.

Hắn phun đạn, ho ra từng mảnh pháo,

Ta hát vang khi hắn cất giọng bi,

Hắn cạo ta bằng lưỡi hái sắc nhọn,

Ta vẫn huýt sáo khinh nhờn tử thi.


Ồ, Thần Chết chưa từng là kẻ thù!

Ta kết bạn, cười vang bên lão già.

Lính đâu được thuê để mà chống đối

Quyền năng hắn, chỉ biết cười, xông pha.

Bởi ta biết, người giỏi hơn sẽ tới,

Và chiến tranh sẽ lớn nữa, thiết tha!

Khi từng chiến sĩ vênh vang tuyên bố:

“Ta không giết người, ta chỉ cứu sinh,

Chống lại Thần Chết, chứ chẳng vì cờ, vì lính!”



GREATER LOVE


Red lips are not so red
As the stained stones kissed by the English dead.
Kindness of wooed and wooer
Seems shame to their love pure.
O Love, your eyes lose lure
When I behold eyes blinded in my stead!

Your slender attitude
Trembles not exquisite like limbs knife-skewed,
Rolling and rolling there
Where God seems not to care;
Till the fierce love they bear
Cramps them in death's extreme decrepitude.

Your voice sings not so soft,-
Though even as wind murmuring through raftered loft,-
Your dear voice is not dear,
Gentle, and evening clear,
As theirs whom none now hear,
Now earth has stopped their piteous mouths that coughed.

Heart, you were never hot
Nor large, nor full like hearts made great with shot;
And though your hand be pale,
Paler are all which trail
Your cross through flame and hail:
Weep, you may weep, for you may touch them not.



TÌNH YÊU CAO CẢ


Môi đỏ nào sánh nổi màu son

Của đá nhuộm máu lính Anh chết mòn.

Tình yêu ve vuốt dịu dàng

Thấy như hổ thẹn trước tình họ trong ngần.

Ôi Tình Yêu, ánh mắt em quyến rũ

Cũng lu mờ khi ta thấy mắt mù!


Thân em thon thả, dịu dàng

Nào run rẩy bằng thân xác bị lưỡi dao xuyên tan,

Lăn lộn nơi chiến hào đẫm máu

Nơi dường như Chúa cũng quay mặt chẳng màng,

Cho đến khi tình yêu họ cháy ngang

Siết họ chết trong hình hài tàn tạ.


Giọng em êm dịu không bằng,

Dù như gió luồn qua mái ngói âm vang 

Không thể sánh giọng người

Dịu dàng, thanh thản như chiều rơi,

Những người chẳng ai còn nghe nữa,

Khi đất ngậm miệng họ ho rã rời.

Trái tim em chưa từng bốc cháy,

Chưa bao giờ rộng lớn như tim nát vì đạn bay.

Dẫu tay em nhợt nhạt tái xanh,

Còn nhợt hơn những tay kéo thập tự qua lửa cháy,

Băng mưa đá, băng ngọn lửa cuồng quay.

Hãy khóc đi, vì em không thể chạm vào họ nữa đấy.




MINERS


There was a whispering in my hearth,
A sigh of the coal.
Grown wistful of a former earth
It might recall.

I listened for a tale of leaves
And smothered ferns,
Frond-forests; and the low, sly lives
Before the fawns.

My fire might show steam-phantoms simmer
From Time's old cauldron,
Before the birds made nests in summer,
Or men had children.

But the coals were murmuring of their mine,
And moans down there
Of boys that slept wry sleep, and men
Writhing for air.

And I saw white bones in the cinder-shard,
Bones without number.
For many hearts with coal are charred,
And few remember.

I thought of all that worked dark pits
Of war, and died
Digging the rock where Death reputes
Peace lies indeed.

Comforted years will sit soft-chaired
In rooms of amber;
The years will stretch their hands, well-cheered
By our lifes' ember.

The centuries will burn rich loads
With which we groaned,
Whose warmth shall lull their dreaming lids,
While songs are crooned.
But they will not dream of us poor lads
Left in the ground.



THỢ MỎ


Trong lò sưởi, tiếng thì thầm khe khẽ,

Một tiếng thở dài vọng tự than đen.

Nó hoài niệm trái đất xưa thân thể,

Một thuở hồn nhiên.


Tôi lắng nghe chuyện rừng xưa rậm rạp,

Dương xỉ vùi sâu,

Những khu rừng dương xỉ rì rào khẽ

Trước cả nai nâu.


Lửa tôi cháy, khói bốc lên chầm chậm

Tựa ma thời gian

Từ chiếc vạc cổ xưa luân vũ

Trước lúc chim làm tổ mùa hè sang,

Trước khi nhân loại gọi nhau là bạn.


Nhưng than đang rì rầm kể chuyện hầm,

Về những tiếng rên xiết,

Những đứa bé ngủ cong người nghẹt thở,

Và những người đàn ông quặn đau tiếc nuối hơi thở.


Tôi thấy những đốt xương trắng tro tàn,

Xương không đếm được!

Nhiều trái tim cháy thành than,

Nhưng người đời đâu còn nhớ.


Tôi nghĩ đến những ai từng đào mỏ

Chiến tranh đẫm máu,

Họ moi đá tìm chốn an nghỉ nhỏ

Cho cái chết tự hào.


Những năm sau sẽ ngồi yên bên lửa

Ghế êm, đèn vàng,

Bàn tay giơ ra, ấm trong ánh lửa

Từ đời ta tan.


Thế kỷ sau sẽ đốt bao chất nặng

Từ máu xương ta,

Ngủ ngon trong ánh hồng yên ấm,

Bên khúc ca ru la đà…

Nhưng họ chẳng mơ gì về ta 

Những chàng trai nghèo nằm sâu trong đất lạ.



SOLDIER ‘ S DREAM 



I dreamed kind Jesus fouled the big-gun gears;
And caused a permanent stoppage in all bolts;
And buckled with a smile Mausers and Colts;
And rusted every bayonet with His tears.

And there were no more bombs, of ours or Theirs,
Not even an old flint-lock, not even a pikel.
But God was vexed, and gave all power to Michael;
And when I woke he'd seen to our repairs.



GIẤC MƠ NGƯỜI LÍNH


Tôi mơ thấy Chúa hiền ôn ngự xuống,

Làm súng câm, lẫy đạn gãy như chơi,

Ngài mỉm cười, bẻ cong cả Mauser, Colt,

Lưỡi lê rỉ bởi lệ Ngài rơi.


Không còn bom, chẳng còn gì nổ nữa 

Cả súng hỏa mai cũ, đến giáo dài.

Nhưng Chúa Trời bỗng sinh lòng tức giận,

Trao quyền cho Michael, thiên binh oai.


Khi tôi tỉnh, mọi vũ khí sáng loáng,

Ngài đã cho người sửa lại như xưa…



INSPECTION 


You! What d'you mean by this?' I rapped.
'You dare come on parade like this?'
'Please, sir, it's-' ''Old yer mouth,' the sergeant snapped.
'I takes 'is name, sir?'-'Please, and then dismiss.'

Some days 'confined to camp' he got,
For being 'dirty on parade'.
He told me, afterwards, the damned spot
Was blood, his own. 'Well, blood is dirt,' I said.

'Blood's dirt,' he laughed, looking away,
Far off to where his wound had bled
And almost merged for ever into clay.
'The world is washing out its stains,' he said.
'It doesn't like our cheeks so red:
Young blood's its great objection.
But when we're duly white-washed, being dead,
The race will bear Field-Marshal God's inspection.'



KIỂM TRA


“Anh kia! Ăn mặc thế là sao?”

Tôi quát lớn. “Ra hàng thế được à?”

“Thưa… em…”  “Câm ngay!” Trung sĩ gào,

“Cho tên nó, thưa ngài?”  “Rồi cho qua.”


Vài hôm sau, cậu bị phạt giam,

Vì “dơ bẩn lúc duyệt binh nghiêm túc.”

Cậu bảo tôi: “Vết nhơ oan nghiệt lắm,

Là máu em thôi.”  “Máu cũng là dơ đục.”


“Máu là vết nhơ.” Cậu cười, ngoảnh mặt,

Nhìn xa xăm nơi máu thấm đất mềm.

“Thế giới này đang rửa trôi vết tặc,

Nó chẳng ưa má hồng máu thanh niên.”


“Nó ghét nhất dòng máu tươi, tuổi trẻ,

Muốn chúng ta trắng toát lúc lìa đời,

Rồi thần Thống chế, Đức Chúa trên trời 

Sẽ hài lòng duyệt hàng quân tẩy rửa.”




THE YOUNG SOLDIER 



It is not death
Without hereafter
To one in dearth
Of life and its laughter,

Nor the sweet murder
Dealt slow and even
Unto the martyr
Smiling at heaven:

It is the smile
Faint as a (waning) myth,
Faint, and exceeding small
On a boy's murdered mouth.



NGƯỜI LÍNH TRẺ


Chết không là hết

Với kẻ thiếu đời,

Thiếu men vui thật,

Tiếng cười buông lơi.


Không phải ngọt ngào

Là cái chết chậm,

Trao cho thánh nhân

Mỉm cười lên ngắm.


Chỉ là nụ cười

Như hư ảnh mờ,

Nhỏ nhoi tơi tả

Trên môi trai thơ 

Một người lính trẻ

Vừa bị giết rồi.



MUSIC



I have been urged by earnest violins
And drunk their mellow sorrows to the slake
Of all my sorrows and my thirsting sins.
My heart has beaten for a brave drum's sake.
Huge chords have wrought me mighty: I have hurled
Thuds of gods' thunder. And with old winds pondered
Over the curse of this chaotic world,-
With low lost winds that maundered as they wandered.

I have been gay with trivial fifes that laugh;
And songs more sweet than possible things are sweet;
And gongs, and oboes. Yet I guessed not half
Life's symphony till I had made hearts beat,
And touched Love's body into trembling cries,
And blown my love's lips into laughs and sighs.



ÂM NHẠC


Tôi từng say khúc vĩ cầm da diết,

Uống cạn sầu, tội lỗi khát khao riêng;

Tim tôi đập vì nhịp trống thiêng liêng,

Tiếng dội lớn đã khiến hồn tôi xiết.


Tôi từng tung chùm sấm thần vang dội,

Ngẫm cùng gió xưa lời nguyền hỗn mang,

Gió u hoài lang thang chẳng lối ngang,

Chỉ rên rỉ lạc trong niềm đơn côi.


Tôi từng vui cùng sáo tiêu vui nhộn,

Với bao bài hát ngọt đến không ngờ,

Tiếng chuông, kèn ngân, vang vọng trong mơ 

Song vẫn thiếu nửa khúc đời hỗn độn…


Cho đến khi tôi làm tim ai đập,

Chạm thân Yêu run rẩy tiếng thở dài,

Thổi môi yêu bật cười pha tiếng nức 

Tôi mới hay: đời là bản nhạc dài.



WINTER SONG


The browns, the olives, and the yellows died,
And were swept up to heaven; where they glowed
Each dawn and set of sun till Christmastide,
And when the land lay pale for them, pale-snowed,
Fell back, and down the snow-drifts flamed and flowed.

From off your face, into the winds of winter,
The sun-brown and the summer-gold are blowing;
But they shall gleam with spiritual glinter,
When paler beauty on your brows falls snowing,
And through those snows my looks shall be soft-going.



KHÚC CA MÙA ĐÔNG


Nâu, vàng, ô-liu, những màu thu tàn,

Bay lên trời, nơi ánh rạng bình an

Hừng đông, hoàng hôn rực lên sáng chói,

Cho đến mùa Giáng Sinh đất úa nhòa,

Tuyết phủ trắng, sắc kia tan trong gió.


Nắng hè, nâu sạm trên da em xưa

Giờ gió đông thổi bay như giấc mơ 

Nhưng ánh ấy sẽ còn hoài lấp lánh

Trong vẻ đẹp băng giá dịu dàng kia,

Khi mắt anh nhẹ bước qua tuyết trắng.



THE SHOW


My soul looked down from a vague height with Death,
As unremembering how I rose or why,
And saw a sad land, weak with sweats of dearth,
Gray, cratered like the moon with hollow woe,
And fitted with great pocks and scabs of plaques.

Across its beard, that horror of harsh wire,
There moved thin caterpillars, slowly uncoiled.
It seemed they pushed themselves to be as plugs
Of ditches, where they writhed and shrivelled, killed.

By them had slimy paths been trailed and scraped
Round myriad warts that might be little hills.

From gloom's last dregs these long-strung creatures crept,
And vanished out of dawn down hidden holes.

(And smell came up from those foul openings
As out of mouths, or deep wounds deepening.)

On dithering feet upgathered, more and more,
Brown strings towards strings of gray, with bristling spines,
All migrants from green fields, intent on mire.

Those that were gray, of more abundant spawns,
Ramped on the rest and ate them and were eaten.

I saw their bitten backs curve, loop, and straighten,
I watched those agonies curl, lift, and flatten.

Whereat, in terror what that sight might mean,
I reeled and shivered earthward like a feather.

And Death fell with me, like a deepening moan.
And He, picking a manner of worm, which half had hid
Its bruises in the earth, but crawled no further,
Showed me its feet, the feet of many men,
And the fresh-severed head of it, my head.




MÀN TRÌNH DIỄN


Hồn tôi cúi xuống từ nơi vời vợi

Cùng Tử Thần, chẳng nhớ đến vì đâu,

Thấy cõi đất buồn, cạn kiệt khổ đau,

Lở loét như trăng, trống hoang, xám xịt,

Lốm đốm đầy ghẻ chai, loang lở thịt.


Trên mặt râu rìa, hàng dây thép gai,

Những sâu bọ bò nhúc nhích miệt mài,

Như những nút lấp hào sâu rã rượi,

Chúng quằn quại, co rút, rồi chết vội.

Dấu nhớp nhơ là vết tích rạch dài,

Vây quanh u nhọt lấm tấm khắp nơi.


Từ cuối bùn đen, chúng cứ lết đi

Chui xuống hố, biến tan trong sớm mai.

(Trồi lên mùi hôi thối khốc liệt,

Tựa miệng sâu hay vết thương mưng mủ.)


Rồi từng lũ chân khập khiễng rối bời

Chui lên, kết dãy nâu xám chen chồi,

Tất cả là dân của miền đồng cỏ,

Giờ lao vào bùn, gào la rữa nát.


Lũ xám kia, từ đẻ trứng sinh sôi

Trèo lên, giết đồng loại để sống còn.

Tôi thấy chúng lưng rách, vặn, uốn cong,

Nỗi đau cuộn, căng lên rồi dập xuống.


Kinh hãi trước điềm chẳng thể gọi tên,

Tôi rùng mình rơi xuống như chiếc lông.

Và Tử Thần cũng rơi theo, rền rĩ,

Ngài đưa tôi xem thứ sâu bò rỉ

Đang giấu thân nửa vùi giữa đất bùn,

Chẳng bò thêm được nữa… Ngài chỉ xuống 

Đó là chân! Rất nhiều chân người lính,

Và chiếc đầu còn mới đứt… là tôi.




THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 8 / 2025


Nguồn :


https://www.poemhunter.com/wilfred-owen/

Aucun commentaire: