mercredi 11 mars 2020

BÀI CA



SONGS

I sat there singing her      
 Songs in the dark.           

She said;                          
'I do not understand.         
The words'.

I said;                               
'There are                         
 No words'.

LANGSTON HUGUES.


BÀI HÁT


1. Tôi ngồi hát
Cho nàng nghe
Trong bóng tối.

Em không sao
Hiểu được lời
Nàng nói.

Bài ca này
Chẳng có lời 
Em ơi.

2. Tôi ngồi hát 
Cho em nghe
Trong bóng tối
Tiếng thầm thì.

Ôi anh ơi
Em không hiểu
Lời bài ca
Muốn nói gì.

Không, bài hát
Chẳng có lời
Anh hát tiếp
Em nghe đi.

3. Ngồi trong bóng tối
Tôi hát nàng nghe.

Anh ơi - nàng nói
Em không hiểu lời.

Em ơi - đừng hỏi : 
Bài ca không lời!

4. Lặng lẽ em ơi ngồi nghe anh hát
Bóng tối mịt mùng, bóng tối vây quanh.

Lặng lẽ em nghe những lời anh hát
Mà sao không hiểu là sao hở anh?

Lặng lẽ em ơi bài ca anh hát
Không lời, không tiếng, không ảnh, không hình!

5. Ngồi đây em, ngồi đây nghe anh hát
Trong bóng đêm mờ mịt ở xung quanh.
- Em nghe đây, mà sao em chẳng hiểu
Từng ca từ, từng câu chữ của anh.

- Em có hiểu ý tình anh gửi gắm
Qua âm thanh, qua giai điệu không lời?
Em có biết bao nhiêu tình nồng thắm
Không cần chi lời chót lưỡi đầu môi?

Khúc hát đó tựa như tình đôi ta
Em yêu anh và anh cũng yêu em
Em và anh, ta chung sống chan hòa,
Anh và em, ta yêu nhau thắm thiết.

C'est une chanson, qui nous ressemble
Toi qui m'aimais et je t'aimais
Et nous vivions, tous deux ensemble.
Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.

Đời làm cho bao lứa đôi xa cách
Lặng lẽ, âm thầm, chẳng để ai hay.
Và sóng biển xoá dần trên bãi cát
Dấu chân người tình cũ đã chia tay

Mais la vie sėpare ceux qui s'aiment
Tout doucement sans faire de bruit
Et la mer efface sur le sable
Les pas des amants dėsunis.


Bản tiếng Việt
Thân Trọng Sơn 


dimanche 1 mars 2020

CƠN BÃO





Truyện ngắn

Kate Chopin
Nhà văn Hoa Kỳ
( 1850 - 1904 ) 
.


Catherine O' Flaherty sinh năm 1850 tại Saint - Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hoá, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh. Theo học bậc tiểu học và trung học tại một trường công giáo với các nữ tu. Ở nhà, được nuôi dạy bởi mẹ, bà, và bà cố. Sự giao tiếp thường xuyên với những người phụ nữ ở chung quanh giúp cô bé sớm có nhận xét về vai trò của phái nữ trong gia đình và xã hội, định hình cho những ý tưởng và quan niệm cá nhân của nhà văn tương lai.

Kate Chopin ( Kate là Catherine, Chopin là họ chồng ) chịu nhiều đau thương mất mát ngay khi còn nhỏ. Cha chết vì tai nạn đường sắt khi mới lên năm (1855), bà cố, người đã dạy cho cô tiếng Pháp và văn hoá Pháp, qua đời năm 1863. Trong thời Nội chiến Hoa Kỳ ( 1861 - 1865 ), cô lại mất thêm người anh ( tham gia đội quân của Liên minh miền Nam - Confederate - ).
Kate Chopin kết hôn năm 1870 với Oscar Chopin, một thương gia chuyên buôn bán bông vải, và cũng là người gốc Pháp ).Từ năm 1871 đến 1879, Kate Chopin sinh được 5 trai và 1 gái, và số phận rủi ro vẫn không buông tha, Kate lại chịu tang chồng năm 1882, chỉ sau mười hai năm chung sống. Trở thành quả phụ năm 32 tuổi, Kate Chopin vừa nuôi con, vừa tiếp tục công việc của chồng, và không tái giá. 
Đây là chân dung Kate Chopin giai đoạn này, như ghi nhận của nhà phê bình Barbara Ewell: 

" Kate là một người khá nổi bật và quyến rũ. Không cao lắm, có khuynh hướng mập ra, thực sự xinh đẹp, mái tóc nâu dày, dợn sóng, sớm điểm bạc, đôi mắt nâu sáng trong. Bạn bè nhớ nhiều nhất là thói quen im lặng và sự nhanh trí kiểu Ái Nhĩ Lan, thêm điểm nhấn là biệt tài bắt chước. Một bà chủ nhà duyên dáng, dễ tính, thích cười, thích âm nhạc và khiêu vũ, đặc biệt là kiểu nói chuyện thông minh, bà có thể diễn đạt quan điểm cá nhân với sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên."

Sau khi chồng chết không lâu, Kate Chopin trở về sống tại St- Louis để con cái có điều kiện học hành tốt hơn. Năm 1885, đến lượt mẹ Kate Chopin qua đời.

Một bác sĩ sản khoa, cũng là bạn thân của gia đình, khuyến khích Kate viết văn, như là một liệu pháp chống buồn nản và cô đơn sau khi chồng và mẹ lần lượt đi xa.  Nghe theo lời khuyên, Kate bắt đầu cầm bút và truyện ngắn đầu tiên của bà đã được đăng trên tờ St Louis Post Dispatch năm 1889, và một năm sau, bà hoàn thành cuốn tiểu thuyết At Fault.

Hơn mười năm tiếp sau đó, Kate Chopin vừa duy trì hoạt động xã hội, vừa không ngừng sáng tác, hoàn thành được trên dưới một trăm truyện ngắn. Truyện ngắn của Kate Chopin được công bố trên những tạp chí nổi tiếng như Vogue và Atlantic Monthly. Hai tuyển tập lần lượt ra mắt: Bayou Folk, 23 truyện (1894), A Night in Acadie, 21 truyện (1897). Giới phê bình có người cho là truyện chỉ có tính địa phương, chỉ phản ảnh những sinh hoạt tại vùng Louisiana và Missouri.  Đến năm 1899, bà cho xuất bản cuốn The Awakening ( Tỉnh  thức ), thu hút nhiều nhận định đánh giá trái ngược nhau. Một vài nhà phê bình khen ngợi tính nghệ thuật của tác phẩm, nhưng cũng không ít người cho là " nhàm chán ", " tầm thường", " không lành mạnh ",  thậm chí "  độc hại ". Tất cả chỉ vì Kate Chopin là người phụ nữ " đi trước thời đại ", thông qua các nhân vật của mình, bà đã bày tỏ quan niệm ( và phản ứng ) về gia đình, hôn nhân, ly dị, ngoại tình, nữ quyền, chống lại lề thói cổ truyền ( tradition ) và quyền hành ( authority ). ( Mà đâu chỉ trong tác phẩm, ngay trong sinh hoạt đời thường, Kate Chopin cũng tỏ ra " tiên phong " đấy chứ: thời còn sống tại New Orleans hay khi về một thị trấn nhỏ ở St- Louis, bà đã làm mọi người ngạc nhiên khi đi dạo một mình, hút thuốc, ăn mặc kiểu cách và cỡi ngựa hai chân hai bên. ) 

Kate Chopin qua đời đột ngột năm 1904, xuất huyết não. 
Trong một thời gian dài, tác giả và tác phẩm bị lãng quên, ngoại trừ một số rất ít truyện được giới thiệu trong các tuyển tập xuất bản mấy năm sau khi tác giả qua đời.

Sự lãng quên ( bất công và đau đớn ) này kéo dài tới gần ... 70 năm, mãi cho đến năm 1969, khi nhà phê bình người Na Uy, Per Seyersted viết cuốn chuyên luận về tiểu sử của Kate Chopin với nhận định: 
" ( Kate Chopin ) là nhà văn nữ đầu tiên trên đất nước mình nhìn nhận đam mê như là một chủ đề chính thống của tiểu thuyết nghiêm túc, công khai. Chống lại lề thói cổ truyền và quyền hành, với một sự táo bạo mà ngày nay chúng ta khó khăn mới thấu hiểu, với sự thành thực cương quyết, không có chút gì kích động, bà đảm đương việc nói lên sự thật không che đậy về mặt khuất của đời sống người phụ nữ. Bà như là người tiên phong đề cập thẳng thắn những vấn đề dục tính, ly dị, và sự thôi thúc của giới nữ mong muốn tồn tại thực sự. Trong nhiều khía cạnh, bà là một nhà văn hiện đại, nổi bật về nhận thức những phức tạp của  sự thật và tính đa dạng của tự do."

Phong trào nữ quyền ở Mỹ phát triển ngày càng mạnh từ những năm 1960 tạo thuận lợi cho việc đánh giá về tài năng và cống hiến của Kate Chopin. Tác phẩm của bà được tái bản và giới thiệu trở lại.

Truyện ngắn Cơn bão ( the Storm ) giới thiệu dưới đây được viết năm 1898 nhưng tác giả không thể công bố ngay vì bà biết không nơi nào chịu in một truyện đề cập thẳng thắn và thẳng thừng về tình dục như truyện này. ( lần đầu tiên truyện xuất hiện trong The Complete Works of Kate Chopin, in năm 1969,  tức là gần 70 năm sau khi ra đời! ).
Ba nhân vật trong truyện, Calixta, Bobinôt và Alcée Laballière, cũng là nhân vật của truyện At the Cadian Ball, viết trước đó 6 năm, tuy nhiên hai truyện vẫn có thể được đọc độc lập. Những tên riêng nghe có vẻ rất Pháp, cũng như các nhân vật trong tiểu thuyết The Awakening: Edna Pontellier, Léonce Pontellier, Robert Lebrun, Adèle Batignole, Alcée Arobin... Những tên này nên đọc theo âm Pháp, đặc biệt là những tên có các âm tiết on, un, in, đọc với âm mũi ( nasal sound ), khác với tiếng Anh. Đọc tên tác giả Chopin cũng vậy.

Không những chỉ đặt tên Pháp, Kate Chopin còn chèn tiếng Pháp vào trong câu văn rất nhiều chỗ ( Ma foi, Dieu sait, Je vous réponds, Bonté...). Biện pháp này, ở những đoạn hội thoại, phù hợp với hoàn cảnh câu chuyện, không ảnh hưởng mấy đến việc đọc hiểu. 
Thông thạo tiếng Pháp, thấm nhuần văn hoá Pháp, lúc sáng tác, Kate Chopin chịu nhiều ảnh hưởng của nhà văn Maupassant. Ở bậc thầy của thể loại truyện ngắn này, Kate Chopin nhận ra văn chương không phải chỉ là hư cấu, mà là chính cuộc sống, với những con người đang sống quanh ta. Nhà văn quan sát và ghi lại, trực tiếp và đơn giản, những gì mình nhìn thấy. Cũng như nhà văn Pháp, Kate Chopin thường viết lại, như kiểu ghi âm, những lời đối đáp của nhân vật với câu chữ, ngữ điệu nguyên thô, để người đọc tưởng mình đang nghe trực tiếp. Hãy thử đọc đoạn này, trích trong truyện Regret ( Nuối tiếc ) để thấy điều đó:

" T ain' ispected sich as you would know airy thing 'bout 'em, Mamzelle Aurlie. I see dat plainly yistiddy w'en I spy dat li'le chile playin' wid yo' baskit o' keys. You don' know dat makes chillun grow up hard-headed, to play wid keys? Des like it make 'em teeth hard to look in a lookin'-glass. Them's the things you got to know in the raisin' an' manigement o' chillun."

Một đặc trưng khác của Maupassant - mà Kate Chopin học tập - là cách kết cấu truyện ngắn, câu chuyện diễn tiến theo tâm lý nhân vật, tình tiết đan xen, và bỗng xoay sang một kết cuộc bất ngờ, tạo ngạc nhiên thú vị cho người đọc. Thủ pháp này biểu lộ rõ với truyện The Story of an hour ( Câu chuyện một giờ ), một trong những truyện ngắn hay nhất của Kate Chopin. 

Có tin chồng của Louise bị tai nạn chết. Biết nàng bị bệnh tim nên người thân và bạn bè tìm cách báo tin khéo léo, tránh xúc động đột ngột. Ban đầu, nàng cũng đau đớn, vật vã khóc than, rồi rút về ngồi một mình trong phòng riêng. Nơi đây, khi bình tâm nhìn khung cảnh bên ngoài, dường như nỗi đau dần nguôi ngoai. Nàng quan sát những cảnh trí quen thuộc, mây bay, trời trong, cây xanh, mưa nhẹ hạt, nàng lắng nghe những âm thanh quen thuộc, tiếng rao hàng, tiếng nhạc, tiếng chim hót... Thế là một cảm giác lạ lùng, hân hoan, phấn khởi xâm nhập tâm hồn nàng. Nàng buột miệng nói: Tự do, tự do... và thanh thản nghĩ về tháng ngày dài phía trước. Nàng sẽ được tự do sống với sở thích và ước muốn của riêng mình.

Đến đây " câu chuyện một giờ " tưởng chừng kết thúc được rồi. Nhưng...
Ngay lúc này anh chồng bước vào: anh vẫn còn sống, vì trễ tàu! Khi nhìn thấy chồng trở về, Louise lăn ra chết. Bác sĩ kết luận nàng chết vì bệnh tim, vì quá vui mừng. 

Câu chuyện kết thúc quá bất ngờ, để cho người đọc tiếp tục suy nghĩ: có phải thực sự Louise quá vui mừng mà chết không. Và từ đó mà bàn thêm những điều tác giả không nói, tình yêu giữa hai vợ chồng chẳng hạn...

Hiện nay, Kate Chopin được xem là một khuôn mặt lớn trong nền văn học Mỹ. Tác phẩm của bà đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng, kể cả tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Trung, tiếng Mã Lai, tiếng Á Rập... và tiếng Việt.







 1. Lá cây phẳng lặng như tờ cho dù Bibi nghĩ là trời sắp mưa. Bobinôt, vốn đã quen trò chuyện với con trai nhỏ bé của mình bằng ngôn ngữ hoàn toàn bình đẳng, nhắc con chú ý nhìn những đám mây đen sẫm cuộn tới từ phía tây báo hiệu thời tiết xấu, kèm theo tiếng ầm ầm dữ dội đe doạ. 
Hai cha con đang ở tiệm tạp hoá Friedheimer và định sẽ nán lại đó cho đến khi cơn bão qua đi. Họ ngồi phía bên trong cửa, trên hai cái thùng rỗng. Bibi bốn tuổi và trông có vẻ lanh lợi.
" Mẹ sẽ lo sợ lắm đấy", nó vừa nói vừa chớp mắt.
" Mẹ sẽ đóng cửa. Có thể mẹ sẽ nhờ cô Sylvie sang giúp chiều nay",  Bobinôt đáp, giọng trấn an.
" Không, mẹ sẽ không nhờ Sylvie. Sylvie đã giúp mẹ chiều hôm qua rồi", Bibi nói lớn.
 Bobinôt đứng dậy, đi tới quầy mua một lon tôm đóng hộp, thứ mà Calixta rất thích. Rồi anh quay lại chỗ ngồi của mình trên cái thùng và ngồi vô hồn, tay nắm hộp tôm, trong khi cơn bão bắt đầu bùng phát làm lay động chiếc rèm cửa bằng gỗ và hình như rạch những đường rãnh lớn nơi cánh đồng phía xa. Bibi đặt bàn tay bé nhỏ của mình trên đầu gối cha và không thấy sợ.

 2. Ở nhà, Calixta không thấy lo ngại cho sự an toàn của hai cha con. Cô ngồi nơi cửa sổ phía một bên và mải miết đạp máy may. Cô quá bận rộn và không để ý cơn bão đang đến gần. Cô cảm thấy rất nóng nực và thỉnh thoảng phải ngừng tay để lau những giọt mồ hôi trên mặt. Cô nới lỏng chiếc khăn quàng màu trắng nơi cổ. Trời bắt đầu tối sẫm, cô chợt nhận ra tình hình nên vội đứng dậy đóng hết cửa sổ, cửa lớn.
Bên hiên ngoài, cô đã phơi quần áo mặc ngày chủ nhật của  Bobinôt, cô chạy vội ra gom vào trước khi trời mưa xuống. Khi cô bước ra bên ngoài, Alcée Laballière  cỡi ngựa đến trước cổng. Từ khi lấy chồng, cô ít khi gặp lại anh ta và không bao giờ gặp khi ở một mình. Cô đứng đấy, tay cầm cái áo khoác của Bobinôt; mưa bắt đầu rơi nặng hạt. Alcée cỡi ngựa đến chỗ trú ở mái hiên phía bên, nơi đàn gà con đang xúm xít và những cái cày, cái bừa chất đống bên góc.
  • " Tôi có thể vào hiên ngoài đợi cho đến lúc bão qua được không, cô Calixta? "
  • " Mời ông vào, M'sieur Alcée."   
Giọng nói của ông và giọng nói của chính cô làm cô hoảng hốt như vừa ra khỏi cơn hôn mê. Cô nắm chặt cái áo của Bobinôt. Alcée bước lên hiên nhà, túm cái quần và chộp lấy cái áo vét có dải viền vàng của Bibi suýt bị cơn gió mạnh đột ngột cuốn bay đi. Ông tỏ ý muốn đứng ở trước hiên, nhưng hiển nhiên như thế thì xem như ông đang ở ngoài trời: nước mưa dội mạnh vào các tấm ván lót sàn, ông bước vào bên trong, khép cửa lại sau lưng. Thậm chí phải chặn cái gì đó dưới cánh cửa để nước khỏi tràn vào.
" Chà! Mưa to quá! Dễ chừng hai năm nay mới có một trận mưa như thế này! ", Calixta thốt lên, tay cuộn tấm vải đang may, Alcée giúp cô nhét chúng vào một góc.
Cô trông có vẻ mập hơn so với lúc lấy chồng năm năm trước đây, nhưng vẻ rạng rỡ thì không kém chút nào. Đôi mắt xanh vẫn còn gợi cảm, và mái tóc vàng, mưa gió làm rối bù lên, bướng bỉnh bám chặt vào hai bên tai và thái dương.
Mưa dập vào mái lợp ván thấp ào ào dữ dội, đe doạ phá vỡ cánh cổng và ngập vào chỗ hai người. Họ đang ở trong phòng ăn, phòng khách, nhà bếp. Cạnh đấy là phòng ngủ của cô, chiếc giường nhỏ của Bibi đặt sát giường của cô. Cửa để mở, căn phòng với chiếc giường rộng màu trắng, các cánh cửa chớp khép kín, trông có vẻ mờ tối và đầy bí ẩn.
Alcée thả mình xuống chiếc ghế gỗ. Calixta bối rối nhặt dưới sàn nhà những mảnh vải bông cô đang may dở. 
" Nếu cứ tiếp tục thế này, không biết mấy cái bờ đê có đứng vững được không?" Cô thốt lên.
  " Cái gì khiến cô quan tâm đến những bờ đê đó?"
" Tôi phải quan tâm chứ! Bobinôt và Bibi sẽ gặp bão nếu họ chưa rời tiệm nhà Friedheimer."
" Cứ hy vọng đi, Calixta, Bobinôt đủ khôn ngoan để đối phó với cơn lốc ".
Cô đến đứng ở cửa sổ với vẻ mặt lo lắng. Cô lau khung của kính bị hơi nước làm mờ. Trời vẫn nóng ngột ngạt. Alcée đứng dậy, tới cửa sổ đứng gần và nhìn qua vai cô. Mưa vẫn như trút nước che mờ những căn nhà gỗ phía xa và phủ lên những cánh rừng một lớp sương mù xám. Những tia chớp vẫn loé lên không ngừng.
Một tiếng sét đánh vào một cây xoan cao bên rìa cánh đồng. Cả khoảng không gian trước mặt đều tràn ngập luồng ánh sáng chói loà và tiếng sấm nổ dường như phủ lên tấm ván chỗ họ đứng.
Calixta lấy tay che mắt, rồi khóc và loạng choạng lùi lại. Alcée quàng tay ôm lấy cô và kéo cô sát vào người mình trong chốc lát.
" Đừng!" cô khóc, vùng thoát khỏi vòng tay của ông và rời khỏi cửa sổ. 
" Căn nhà đó không biết sẽ ra sao. Giá như tôi biết được Bibi đang ở đâu! " Nàng không thể tự trấn tỉnh, và không thể ngồi yên được. Alcée siết chặt bờ vai cô, và nhìn vào mặt cô. Sự cảm nhận cơ thể ấm áp, phập phồng của cô khi ông vô tình kéo sát cô vào vòng tay đã đánh thức trong ông niềm say mê và nỗi khao khát da thịt cô từ lâu.
" Calixta, ông nói, em đừng sợ. Sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu. Căn nhà ấy thấp lắm, lại có nhiều cây cao bao quanh, nó sẽ không bị gió lốc cuốn đi đâu. Thôi nào, bình tĩnh đi em!" Ông vuốt mớ tóc che khuôn mặt ấm áp của cô. Môi cô đỏ mọng và ướt như hạt lựu. Cái cổ trắng ngần và bầu ngực đầy đặn rắn chắc của cô làm ông rung động mãnh liệt. Khi cô ngước mắt nhìn lên, nỗi sợ hãi trong đôi mắt xanh trong của cô chuyển thành một tia sáng mơ màng vô tình tiết lộ sự khao khát nhục cảm. Ông cúi nhìn vào đôi mắt ấy và không thể làm gì khác là hôn lên môi cô. Nụ hôn nhắc ông nhớ đến kỷ niệm hôm lễ Thăng thiên.
" Em còn nhớ ngày lễ Thăng thiên không, Calixta?", ông hỏi, giọng thì thầm, xúc động. Ồ, cô nhớ chứ, hôm lễ Thăng thiên ông đã hôn cô, hôn và hôn mãi đến mất cảm giác, và để giữ gìn cho cô, ông đã tự đấu tranh mãnh liệt. Nếu ngày đó, cô không phải là con chim bồ câu trong trắng, cô vẫn không bị xâm phạm. Một sinh vật nồng nàn lấy chính sự yếu đuối làm phương thức bảo vệ đã ngăn cản không cho ông tìm cách chế ngự. Còn bây giờ đây, đôi môi, cái cổ tròn và trắng và bộ ngực còn trắng hơn của cô có vẻ như đang mời gọi.
Hai người không để ý đến cơn mưa như thác đổ và tiếng ầm ầm của sấm chớp khiến cô cười to khi cô đang nằm trong vòng tay ông. Cô là một hình ảnh phát  lộ ra trong căn phòng mờ ảo, đầy bí ẩn kia, mình trắng muốt như chiếc ghế dài  cô đang nằm lên trên. Da thịt rắn chắc, dẻo dai của cô lần đầu biết được quyền lực của mình, cũng giống như một cành hoa huệ trắng sữa mà ánh nắng mời gọi đem góp hơi thở thơm tho cho nhân sinh bất diệt.  
Niềm đam mê của cô, không chút mưu mô, lọc lừa, giống như một ngọn lửa sáng xâm nhập và tìm được sự tương hoà ở nơi sâu kín của bản năng nhục cảm của ông, điều mà ông chưa từng đạt tới.
Khi tay ông chạm vào, bộ ngực cô run rẩy đê mê, mời gọi đôi môi ông. Miệng của cô là cả nguồn khoái cảm. Và khi ông chiếm hữu cô, họ như ngây ngất nơi ranh giới tận cùng của bí mật cõi sống.
Ông vẫn nằm bên trên cô, nín thở, ngẩn ngơ, kiệt sức, tim đập thình thịch. Cô đưa một tay ôm lấy đầu ông, môi hôn nhẹ lên trán ông. Tay kia vuốt nhẹ lên đôi vai rắn chắc của ông. Tiếng sấm rền ở xa rồi ngừng lại. Tiếng mưa rơi gõ nhẹ trên mái nhà lợp ván, đưa họ chìm vào giấc ngủ mơ màng. Nhưng họ không dám buông xuôi.

 3. Cơn mưa đã tạnh, cả không gian xanh tươi mượt mà dưới ánh nắng trông như một lâu đài dát ngọc. Đứng ở hiên nhà, Calixta nhìn Alcée cỡi ngựa rời xa. Ông quay lui, cười với cô với vẻ mặt rạng rỡ, cô ngẩng cao chiếc cằm xinh xắn và cười lớn.
Bobinôt và Bibi mệt mỏi lê bước về nhà, dừng lại nơi bể nước, sửa soạn sao cho vẻ bên ngoài trông được một tí.
" Này, Bibi, mẹ sẽ nói sao đây? Con phải biết xấu hổ chứ! Con phải mặc cái quần tốt kia chứ!  Nhìn xem kìa! Và còn vết bùn trên cổ áo nữa.  Sao con lại để vấy bùn trên cổ áo? Bibi! Ba chưa thấy đứa trẻ nào như thế này. " 
Bibi trông thật tội nghiệp. Bobinôt tỏ ra rất lo lắng khi cố sức xoá đi trên người mình và trên người con trai những dấu vết của chặng đường khó khăn vượt qua trên những cánh đồng ẩm ướt. Ông lấy cái que gạt bớt bùn trên hai chân trần của Bibi và cẩn thận xoá hết các vết bùn trên đôi giày của mình. Sau đó, chuẩn bị điều tồi tệ nhất - đối mặt với bà nội trợ kỹ tính - họ thận trọng đi vào cửa sau.
Calixta đang chuẩn bị bữa tối. Cô sắp đặt bàn ăn và cho cà phê nhỏ giọt trong chiếc phin để trên lò sưởi. Cô vui sướng nhảy lên khi hai cha con bước vào.
" Ồ! Bobinôt! Anh trở về! Ôi! Em lo lắm! Anh ở đâu khi trời mưa? Và Bibi, con có bị ướt không? Con có hề gì không? "
Cô ôm lấy Bibi và hôn con tới tấp. Những lời giải thích và xin lỗi mà Bobinôt đã chuẩn bị trên đường về tan biến hết vì Calixta đang sờ xem người anh có khô ráo không, cô chẳng nói gì được mà tỏ ra sung sướng thấy chồng con trở về an toàn.
" Anh có mang một ít tôm về cho em đấy, Calixta!" Bobinôt nói và lôi hộp tôm từ chiếc túi rộng ra và đặt lên bàn.
" Tôm à, ôi Bobinôt, anh lúc nào cũng chu đáo! Cô hôn thật kêu vào má ông. " Em sẽ đền bù cho anh, tối nay chúng ta sẽ vui vẻ, hưm..hưm "
Bobinôt và Bibi bắt đầu nghỉ ngơi và thư giãn. Khi cả ba người ngồi vào bàn ăn, họ liên tục cười to đến nỗi ai cũng có thể nghe thấy, kể cả ở nơi xa như nhà của Laballière.

 4.  Tối hôm đó, Alcée Laballière viết thư cho Clarisse, vợ ông. Đó là một lá thư chan chứa tình cảm. Ông dặn bà không cần vội trở về, bà và các con nếu thích   Biloxi thì cứ ở lại thêm một tháng nữa. Ông ngày càng khá hơn rồi, và tuy rất nhớ vợ con, ông sẵn sàng chịu đựng sự xa cách này thêm một thời gian nữa, ông cho rằng sức khoẻ và sự vui thích của họ là đáng quan tâm hơn cả. 

 5. Về phía Clarisse, cô rất vui mừng nhận được thư chồng. Cô và các con vẫn khoẻ.  Các mối giao thiệp đều dễ chịu, nhiều bạn bè cũ và người quen của cô đang sống ở vùng vịnh. Và chuyến đi nghỉ mát đầu tiên của cô từ ngày lấy chồng có vẻ như đang  phục hồi sự thảnh thơi thú vị của tháng ngày độc thân. Cô vốn là người hết lòng hy sinh cho chồng, cuộc sống thân mật vợ chồng là chút gì cô mong muốn lãng tránh đi trong một thời gian.     

Vậy là cơn bão đã đi qua và mọi người đều cảm thấy hạnh phúc.


THÂN TRỌNG SƠN
dịch từ nguyên bản tiếng Anh






ĐỨA BÉ




Truyện ngắn
ALBERTO MORAVIA
pastedGraphic.png
LỜI NGƯỜI DỊCH :
Alberto Moravia ( 1907-1990 ), nhà văn Ý. Căn bệnh lao xương mắc phải từ lúc mới lên 9  khiến Ông không thể tiếp tục đến trường học và chỉ trau dồi kiến thức bằng con đường tự học. Ông còn học tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, làm thơ bằng các ngôn ngữ này. Mười chín tuổi, Ông bắt đầu viết tiểu thuyết và ba năm sau,  tự bỏ tiền để xuất bản và nổi tiếng ngay với  tác phẩm  đầu  tay   này ( Những kẻ thờ ơ – Les Indifférents ). Những tiểu thuyết tiếp theo cũng được người đọc tán thưởng, trong số đó có cuốn đã được các đạo diễn lừng danh ( Vittorio De Sica, Jean-Luc Godard, Francesco Maselli ) chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh với các minh tinh tài tử hàng đầu : Gina Lollobrigida, Sophia Loren, Jean-Paul Belmondo, Brigitte Bardot . Alberto Moravia cũng thành công với các truyện ngắn, theo Ông, nghệ thuật của truyện ngắn “ tinh khiết hơn, cơ bản hơn, trữ tình hơn, cô đọng hơn và tuyệt đối hơn, so với tiểu thuyết”. 

Khi người phụ nữ ở Sở Cứu tế Thành phố Rome mang tiền cứu trợ đến cho chúng tôi, cả bà nữa cũng hỏi tại sao chúng tôi lại đẻ nhiều đến thế, và vợ tôi, hôm đó đang cáu gắt, nói huỵch toẹt : “ Nếu chúng tôi có tiền, tối tối chúng tôi sẽ đi xem phim…vì không có nên chúng tôi chỉ việc đi ngủ và cứ thế những đứa con ra đời.” Nghe vậy bà ta tỏ vẻ bất bình và bỏ đi không nói một lời.  Tôi trách vợ tôi bởi sự thật không phải bao giờ cũng nên nói ra, và cũng phải biết mình đang nói với ai nữa chứ.
Hồi còn trẻ, chưa lập gia đình, tôi thường giải trí bằng cách đọc tin tức trong báo chí Rome, thường đầy rẫy chuyện kể về những bất hạnh  xảy đến cho nhiều người: trộm cắp, giết người, tự tử, tai nạn giao thông, vân vân. Trong số những chuyện đó, duy nhất môt điều tôi nghĩ là sẽ không xảy đến cho mình, đấy là trở thành cái mà báo chí gọi là “một trường hợp thương tâm”, tức là hoàn cảnh một người gợi lên lòng thương hại không vì một sự bất hạnh nào đặc biệt, mà chỉ vì lý do là đang hiện hữu. Như  vừa nói, tôi còn trẻ, và tôi không hình dung ra việc nuôi nấng một gia đình đông đúc ra làm sao cả. Nhưng giờ này đây, tôi kinh hoàng nhận ra rằng dần dần mình đang trở thành một trong những “ trường hợp thương tâm” đó. Dạo đó, tôi đọc thấy, chẳng hạn : “ Họ sống trong cùng cực đói khổ…” Vậy mà, bây giờ đây, tôi cũng đang sống trong cùng cực đói khổ. Hoặc là : “ Họ ở trong cái nhà thực ra chỉ có tên gọi là nhà.”  Và, bây giờ tôi đang sống ở Tormarancio, cùng vợ và sáu đứa con, trong một căn phòng chỉ bằng diện tích một tấm nệm, và, mỗi khi trời mưa, nước đổ xuống như trên bến sông Ripetto.Tôi còn đọc thấy :  “Khi người phụ nữ khốn khổ biết mình đã có thai, bà ta đã quyết định một việc tội lỗi là hủy diệt kết quả của tình yêu của mình.” Vậy mà cái quyết định đó, vợ chồng tôi cũng đồng lòng khi khám phá ra rằng vợ tôi đang mang thai đứa con thứ bảy. Tóm lại, vợ chồng tôi quyết định là, ngay khi thời tiết thuận lợi, chúng tôi sẽ mang bỏ đứa bé trong một nhà thờ, trông chờ lòng từ thiện của người nào đầu tiên bắt gặp nó.
Cũng nhờ sự giúp đỡ của những phụ nữ tốt bụng ở Sở Cứu tế, vợ tôi đi sinh ở bệnh viện, và ngay khi mới khỏe trở lại, bà mang con về Tormarancio. Vừa mới tới căn phòng của chúng tôi, bà nói ngay: “Tuy bệnh viện vẫn chỉ là bệnh viện, tui vẫn thích ở lại đó hơn là về lại chỗ này.” Sau câu nói đó, đứa bé chừng như nghe hiểu khóc ré lên nhức nhối đến thủng màng nhĩ. Thằng nhóc sáng sủa, khỏe mạnh và tốt giọng đến nỗi đêm đêm thức giấc khóc thét lên là không ai ngủ được. 
Đến tháng năm, thời tiết bắt đầu ấm, có thể ra ngoài không cần áo khoác, chúng tôi rời Tormarancio để đi Rome. Vợ tôi ôm chặt đứa bé vào lòng, quấn đầy quần áo nhàu nát như thể sẽ đem bỏ nó giữa cánh đồng tuyết; khi ra đến thành phố, để khỏi để lộ sự đau lòng, bà nói luôn miệng, hổn hển, đứt hơi, tóc bay rối, mắt trợn ngược. Khi thì bà nói đến những ngôi nhà thờ, nơi chúng tôi có thể đến bỏ đứa bé, giải thích rằng đấy phải là nhà thờ nào mà những người giàu có thường hay lui tới, bởi nếu những người nghèo nhặt đứa bé thì thà cứ giữ nó còn hơn; khi thì bà bảo tôi phải tìm được nhà thờ cống hiến cho nữ thánh Madone, bởi Thánh Madone cũng có đứa con trai và như thế có thể thông cảm mọi chuyện mà chấp thuận ý nguyện của bà. Sự liến thoắng này khiến tôi mỏi mệt và bị kích động, hơn nữa tôi cũng chẳng hãnh diện gì, chẳng thích việc mình đang làm; nhưng tôi cứ tự nhủ là phải giữ cái đầu lạnh, phải tỏ ra bình tĩnh và giúp vợ can đảm.
Tôi đưa ra vài ý kiến bác bẻ, chủ yếu là để ngắt bớt những lời lẽ huyên thiên kia: “ Tui có ý này… hay là mình đem bỏ nó ở nhà thờ Thánh Pierre?” Bà hơi do dự một lát rồi nói: “Cái nhà thờ đó như là một trụ sở quân sự… có thể chẳng ai trông thấy nó… không, tui phải thử đến nhà thờ nhỏ ở đường Condotti, chỗ đó có nhiều cửa tiệm đẹp đẽ…nhiều người giàu có thường đến đó… đấy mới là địa điểm tốt…”
Chúng tôi lên xe buýt và, ngồi giữa đám hành khách, vợ tôi lặng thinh. Thỉnh thoảng bà lại quấn đứa bé trong chăn chặt hơn, hoặc cẩn thận hé mặt nó ra nhìn. Thằng bé đang ngủ, khuôn mặt trắng hồng vùi trong đám tã lót. Quần áo nó cũng tồi tàn như chúng tôi vậy, chỉ có vẻ tươm tất với đôi găng tay màu xanh nhạt, hai bàn tay xinh xắn thò ra ngoài như thể muốn khoe. Chúng tôi xuống xe ở đại lộ Goldoni, vợ tôi lại tiếp tục dài dòng nhiều chuyện. Bà dừng chân trước một tiệm kim hoàn và chỉ tôi xem những món nữ trang bày trong tủ, trên tấm nhung đỏ và nói : “Ông nhìn mấy món  đẹp quá đây này…người ta đến khu này chỉ để mua nữ trang và các thứ đẹp đẽ… người nghèo như chúng ta không ai mạo hiểm tới đây…, họ thì giữa cửa tiệm này và cửa tiệm khác lại đi vào nhà thờ cầu nguyện một lát…họ đầy thiện tâm…có người sẽ nhìn thấy đứa bé và ẵm nó đi.” Bà nói như thế trong khi vẫn ngắm nghía mấy món nữ trang, ôm đứa bé vào lòng, mày nhíu lại, như thể đang nói với chính mình, còn tôi không dám nói gì ngược lại. Chúng tôi vào bên trong nhà thờ: nó nhỏ xíu, tường lát đá hoa giả màu vàng, ngoài bàn thờ lớn còn có nhiều nhà nguyện. Vợ tôi tuyên bố ngay là hình ảnh bà nhớ về nó khác hẳn, giờ nhìn lại bà chẳng hài lòng chút nào. Tuy thế bà cũng nhúng tay vào nước phép và làm dấu thánh giá. Sau đó, tay ôm con, vợ tôi chậm rãi đi vòng quanh nhà thờ, săm soi với vẻ bất bình và nghi ngờ. Từ vòm nóc, xuyên qua những lớp kính màu, một luồng ánh sáng lạnh lẽo mà sống động đổ xuống; vợ tôi đi từ nhà nguyện này đến nhà nguyện khác, kiểm tra mọi thứ, ghế ngồi, bàn thờ, tranh ảnh, xem thử có thể bỏ đứa bé lại không; còn tôi thì nhìn theo bà từ xa và không hề rời mắt khỏi cánh cửa ra vào. Chúng tôi nhìn thấy có một cô gái cao lớn  đi vào, cô ăn mặc toàn màu đỏ, tóc vàng óng. Lúng túng trong chiếc áo chật bó, cô quỳ xuống và sau vài giây cầu nguyện, cô làm dấu và bỏ đi ra, không thèm nhìn chúng tôi.Vợ tôi theo dõi cảnh này và nói ngay: “Không, không thể được… những người vào đây cũng như cô gái hồi nãy thôi, cứ vội vàng để bỏ đi vui vẻ, rong chơi nơi mấy cửa tiệm…, chúng ta đi thôi.” Miệng nói, chân bà bước ra khỏi nhà thờ ngay.
Chúng tôi đi ngược một đoạn khu Corso, chân rảo bước, vợ tôi đi trước, tôi theo sau, và gần đến quảng trường Venise, chúng tôi đi vào một nhà thờ khác. Nó lớn hơn nhà thờ kia nhiều, một phần chìm trong bóng râm, đầy màn trướng, đồ mạ vàng và hòm thánh tích đựng những quả tim bằng bạc lấp lánh trong bóng tối. Có rất đông người và chỉ nhìn thoáng qua tôi nhận thấy rằng những người này thuộc tầng lớp khá giả, phụ nữ đội nón, đàn ông ăn mặc chỉnh tề. Một vị linh mục đang giảng đạo, hai tay vung lên trên bục giảng; mọi người đứng chăm chú nhìn ông và tôi cho rằng điều này rất tốt vì không ai để ý đến chúng tôi… “ Mình thử bỏ đứa bé lại đây ?” tôi nói nhỏ vào tai vợ; bà ra dấu đồng ý. Chúng tôi tiến tới nhà nguyện bên cạnh, chỗ tối; không có ai cả và có thể nói là không thấy gì ở đây.  Vợ tôi kéo một góc chăn bọc đứa bé che kín mặt nó lại và đặt nó trên một chiếc ghế làm như đặt một gói đồ cồng kềnh cho rảnh tay. Rồi bà quỳ xuống và cầu nguyện khá lâu, tay ôm lấy mặt, trong khi đó, chẳng biết làm gì, tôi đưa mắt nhìn hàng trăm quả tim bạc lớn nhỏ đủ cỡ đính trên tường. Cuối cùng, vợ tôi đứng dậy, vẻ căng thẳng, làm dấu và từ từ rời khỏi nhà nguyện, tôi theo sau cách một quãng. Ngay lúc này vị linh mục la lớn : “ Và Chúa Giê-su nói: Pierre, con đi đâu? ” tôi rùng mình, có cảm giác như ông đang nói với tôi. Nhưng khi vợ tôi sắp vén bức màn cửa thì một giọng nói làm cả hai chúng tôi giật mình: “ Này bà, bà bỏ quên gói gì trên ghế kìa.” Đấy là một phụ nữ ăn mặc toàn đen, một trong những người sùng đạo suốt cả ngày chỉ việc tới lui nơi nhà thờ và kho đồ lễ. “ À! Đúng rồi, cám ơn… tôi quên mất.” vợ tôi nói. Thế là chúng tôi đến lấy lại của nợ và ra khỏi điện thờ, sống dở chết dở.
Ra ngoài, bằng cái giọng của một người bán hàng muốn bán đổ bán tháo món hàng của mình mà không có ai mua, vợ tôi nói: “ Không ai muốn nó cả, thằng bé tội nghiệp của tôi!” Nhưng rồi bà cũng bắt đầu chạy lon ton, những bước chân giật giật như không hề chạm đất.
Chúng tôi đổ ra quảng trường Saints- Apôtres; nhà thờ mở cửa và khi bước vào, thấy nó to lớn, rộng và tối, vợ tôi khẽ nói: “ Chỗ này tốt đây.” Bước chân dứt khoát, bà đi vào nhà nguyện phía bên, đặt đứa bé trên ghế băng và, chừng như mặt đất nóng đến bỏng chân, bà không làm dấu, không cầu nguyện, cũng không hôn lên trán đứa bé mà vội vàng tiến ra phía cửa. Nhưng bà chỉ mới chạy được vài bước thì cả nhà thờ vang dội những tiếng khóc tuyệt vọng: lúc này đúng là giờ đứa bé đòi bú, nó đói. Nghe tiếng ré chát chúa đó, vợ tôi đâm ra luống cuống: mới đầu bà chạy ra cửa, rồi chạy trở lui, và không hề suy nghĩ mình đang ở đâu, bà ngồi xuống ghế, ôm con vào lòng và mở cúc áo cho nó bú. Bà chỉ mới vạch ngực ra là thằng bé đưa tay bám riết vào, ngấu nghiến như sói con, nó mới đỡ thèm thì một giọng nói giận dữ thét lên: “ Những chuyện đó không được làm trong nhà của Chúa… đi ra… đi ra ngay… ra ngoài đường mà làm !” Đó là ông giữ nhà thờ, một lão thấp bé, râu bạc, có giọng nói to hơn người. Vợ tôi đứng dậy, vội vàng che ngực áo và đầu đứa bé rồi nói với ông lão: “ Vậy mà trong tranh lúc nào cũng thấy bà Madone cho con bú.” “ Chị muốn so sánh mình với bà Madone à, đồ tự phụ.” Quá chán, chúng tôi bước ra khỏi nhà thờ, đến ngồi trong vườn chỗ quảng trường Venise; vợ tôi tiếp tục cho con bú cho đến khi thằng bé no nê ngủ lại.
Giờ này, màn đêm đã xuống, các nhà thờ đều đóng cửa, chúng tôi mỏi mệt, đờ đẫn, đầu óc không nảy ra ý tưởng nào. Nghĩ là mình đã nhọc lòng để làm một việc mà lẽ ra không nên làm, tôi cảm thấy tuyệt vọng. Tôi bảo vợ: “ Bà nghe đây, muộn rồi, tui không chịu được nữa… phải quyết định đi chứ.” Vợ tôi trả lời chua chát: “ Nhưng nó là giọt máu của ông!... ông muốn rứt bỏ nó như thế, trong xó xỉnh, như người ta vứt bỏ gói giấy đựng bộ lòng con mèo!” – “ Không, không phải thế, nhưng có những việc ta có thể làm ngay không đắn đo hoặc là không làm được nữa” “ Sự thực là ông sợ tui đổi ý mà mang nó về nhà lại… đàn ông các ông toàn là một lũ hèn!” Tôi nghĩ giờ không phải lúc nói trái ý bà nên thong thả trả lời: “ Tui hiểu bà, nhưng bà phải biết rằng dù mọi việc xoay chuyển theo chiều hướng xấu cho nó thì tốt hơn vẫn là cho nó lớn lên ở Tormarancio, trong căn phòng không cầu tiêu, không bếp núc, giữa đám vi trùng mùa đông và bầy ruồi nhặng mùa hè.” Lần này thì bà không trả lời. 
Chẳng ý thức mình đang đi đâu, chúng tôi theo đường quốc lộ ngược về hướng Tháp Néron. Xuống dưới một chút, tôi để ý thấy một con đường dốc, hoàn toàn vắng vẻ, chỉ có một chiếc xe hơi màu xám, cửa đóng, đỗ trước cổng nhà. Tôi chợt có một ý, đến gần chiếc xe, thử mở tay nắm, cửa xe bật ra. Tôi nói với vợ: “ Mau lên, thời cơ đây rồi… bỏ thằng nhỏ ở băng ghế sau.” Bà nghe lời, mang đặt đứa bé lên ghế và đóng cửa lại. Mọi chuyện xảy ra trong vài giây, không ai nhìn thấy chúng tôi. Tôi nắm cánh tay vợ, chạy tránh xa về phía quảng trường Quirinal.
Quảng trường vắng vẻ, tối om, lác đác vài ngọn đèn rọi xuống các cung điện, vượt lên trên các lan can, ánh sáng thành phố Rome lấp lánh trong đêm. Vợ tôi đến gần bể nước, dưới chân tháp, ngồi xuống ghế và bật khóc, quay lưng về phía tôi như thể đang ngồi một mình. “ Bà làm sao vậy? ” tôi hỏi. “ Bây giờ đã bỏ con rồi, tui thấy nhớ nó… tui thấy thiêu thiếu cái gì ở đây, ở chỗ ngực, chỗ nó hay bám víu vào.” Tôi nói không chủ định: “ Dễ hiểu thôi mà… nhưng rồi mọi việc sẽ qua.” Bà nhún vai và tiếp tục khóc. Rồi đột ngột nước mắt bà ráo hoảnh, như làn gió làm tạnh cơn mưa. Bà đứng dậy, giận dữ, chỉ tôi thấy một trong những cung điện và nói:   “Bây giờ tui biết mình sẽ đi đâu rồi,  tui đi gặp ông vua và sẽ kể hết mọi chuyện.” – “ Bình tĩnh đi, tôi đưa tay giữ bà lại và nói lớn… bà điên rồi, bà biết thời này còn vua chúa nào nữa đâu !” – “ Tui không cần, tui sẽ nói chuyện với người nào thay thế vua… phải có ai đó chứ.” Bà sắp chạy về phía cổng vào, có Trời mới biết bà sẽ gây ra chuyện tai tiếng gì nữa nếu tôi không đột ngột lên tiếng ngoài cả dự định: “ Bà nghe tui đây, tui nghĩ lại rồi… mình trở lại xe và lấy lại đứa nhỏ… bà còn muốn gì nữa, ta sẽ giữ nó… thôi thì, thêm một đứa hay bớt một đứa…” Ý kiến này, hẳn cũng là điều bà đang nghĩ, xóa tan đi cái ý đi nói chuyện với ông vua. “ Nhưng liệu nó còn đó không?” bà vừa nói vừa chạy nhanh đến con đường nơi chiếc xe màu xám đang đỗ.  “Chắc chắn là còn, tôi trả lời, mới năm phút thôi chứ mấy…”
Quả thật chiếc xe vẫn còn ở đó. Nhưng, đúng lúc vợ tôi sắp mở cửa xe thì một người đàn ông trung niên, béo lùn, vẻ mặt hách dịch, xuất hiện trước cổng và la lớn: “ Dừng lại… dừng lại… bà định lấy gì trong xe tôi đó?” Vợ tôi nhoài người vào trong để  ẵm lấy đứa bé trên ghế, trả lời mà không quay lại : –  “Tui muốn lấy cái gì thuộc về tui.” Người đàn ông vẫn khăng khăng :  “Mà bà lấy cái gì?... xe này của tôi… bà hiểu chưa, nó là của tôi…” Phải nhìn thấy vợ tôi lúc đó. Bà đứng thẳng lên và tấn công kiểu thế này : “ Không, ai thèm lấy gì của ông ?... Đừng sợ, không ai lấy gì của ông hết… còn chiếc xe, coi này, tui nhổ vào nó đấy, biết chưa?...” Và thực sự bà nhổ ngay vào cửa xe. Ông kia ngơ ngác hỏi: “ Nhưng mà này, cái gói gì kia ? ” “ Không phải cái gói, mà là con trai tui, nhìn đây này…”
Bà để lộ khuôn mặt đứa bé chìa ra cho ông kia xem và nói tiếp : “ Một thằng con trai xinh xắn thế này, bộ ông tưởng có thể tạo ra được một đứa như thế với vợ ông à… và đừng tìm cách đụng vào tui, nếu không tui sẽ la lên, gọi lính gác và báo là ông muốn bắt cóc con trai tui…” Tóm lại là vợ tôi cứ nói, nói mãi, đến nỗi người đàn ông tội nghiệp kia, mặt đỏ bừng, mồm há hốc, chừng như sắp bị sung huyết.
Cuối cùng, vợ tôi thong thả bỏ đi, tay ôm con, trở lại chỗ tôi đứng ở cuối đường.


THÂN TRỌNG SƠN
( Dịch từ tiếng Pháp – Le bébé – Claude PONCET )




HOA THEO MÙA




Truyện ngắn

André Maurois
Nhà văn Pháp
( 1885-1967 )




   Ông sinh năm 1885 tại Elbeuf, một thành phố nhỏ thuộc vùng Normandie, Tây Bắc nước Pháp. Sớm có năng khiếu văn chương từ nhỏ, cậu bé Émile Herzog lúc theo học trường trung học Corneille tại Rouen có may mắn được học với giáo sư Émile-Auguste Chartier, tức là triết gia Alain nổi tiếng. Chính vị giáo sư này đã phát hiện tài năng của học trò và hướng dẫn, khuyến khích cậu phát triển ngay từ phương pháp học tập ở lớp. Điều bất ngờ là thầy khuyên trò sau khi rời trường nên trở về làm việc trong xưởng dệt thảm của gia đình. Ông nghe lời thầy và trở về Elbeuf, tuy nhiên ông vẫn say mê chữ nghĩa nên trong phòng làm việc ông để sẵn nhiều tiểu thuyết của Balzac, ông chép lại nhiều trang của Stendhal để luyện viết văn, đồng thời tích cực học tiếng Anh.
Thế chiến lần thứ nhất xảy ra, ông nhập ngũ và được cử làm thông dịch viên và sĩ quan liên lạc tại một trung đoàn của quân đội hoàng gia Anh. Sự nghiệp văn chương bắt đầu từ thời gian này. Ông lấy bút danh André Maurois khi viết tác phẩm đầu tiên: " Sự im lặng của đại tá Bramble "( Les Silences du colonel Bramble ) năm 1918,  tác giả sớm nổi tiếng để ba năm sau viết tiếp cuốn " Những bài diễn văn của bác sĩ O' Grady " ( Les discours du Docteur O' Grady ). Ông sẽ ký bút danh này trên tất cả tác phẩm của mình, và điều thú vị là bút danh này trở thành tên chính thức của ông kể từ năm 1947 bằng một nghị định của Tổng thống Pháp. Ông được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp ( Académie française ) năm 1938.  

André Maurois để lại hơn 100 tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại: Nhiều tiểu thuyết tâm lý ( Bernard Quesnay, Climats –  Mặc Đỗ dịch là Tâm cảnh -, Terre promise – Đất hứa – Les Roses de septembre – Những đóa hồng tháng chín -) có cuốn gần với truyện vừa và truyện ngắn, có khi có hơi hướng truyện giả tưởng ( Le peseur d’âmes – Người cân linh hồn -, La machine à lire les pensées – Máy đọc tư tưởng - . Có những tác phẩm nghiên cứu, khảo luận ( Un art de vivre – Một nghệ thuật sống -, Sept visages de l’amour – Bảy khuôn mặt tình yêu – Au commencement était l’action – Khởi đầu là hành động…) Ông còn là nhà viết sử với các cuốn Histoire de l’Angleterre ( Lịch sử nước Anh ), Histoire des Etats-Unis ( Lịch sử Hoa Kỳ ), Histoire de France ( Lịch sử nước Pháp ). Ông nổi tiếng nhất với một loạt tác phẩm viết tiểu sử các văn nghệ sĩ ( Shelley, Byron, Victor Hugo, George Sand, Balzac, Tourgueniev, Voltaire, Chateaubriand, Marcel Proust ), các chính trị gia ( Disraeli, Lyautey ), và cả nhà khoa học ( Alexandre Flemming )… 

Độc giả Việt Nam đã biết đến Ông với bản dịch ( của Nguyễn Hiến Lê ) các tác phẩm “Thư gởi người đàn bà không quen biết” ( Lettre à une inconnue ) và nhất là “Thư ngỏ gửi tuổi đôi mươi” ( Lettre ouverte à un jeune homme sur la conduite de la vie ), là tác phẩm Ông viết ở tuổi 80, trong đó ông giải đáp mọi thắc mắc của thanh niên về nhiều vấn đề: quan niệm sống, tu dưỡng, hôn nhân, việc làm, viết văn, tiêu khiển, tình yêu, tín ngưỡng…
Ông cũng chính là người đã dịch bài thơ IF nổi tiếng của Rudyard Kipling ra tiếng Pháp với nhan đề Tu seras un homme, mon fils.




Étienne Carlut xuống xe taxi trước cửa chính của nghĩa trang Montparnasse. Anh ôm một bó hoa cúc rực cháy sắc nồng mùa thu, từ đỏ sẫm đến vàng nhạt. Khi anh đi ngang qua chỗ hai người gác cổng, một trong hai người chào anh. Vướng bó hoa, anh chỉ gật đầu đáp lại.
  • Sếp quen ông ta à?
  • À, quen sơ thôi. Ông ấy là giáo sư. Bà vợ vừa mất cuối tháng chín, an táng ở khu số bảy. Thứ năm nào ông cũng đến, ngày đó ông không có giờ dạy... Ông ta giải thích với tôi vậy... ngay ban đầu.
  • Goá vợ mà còn trẻ quá... Ông ấy sẽ không đến đây lâu đâu...
  • Ai mà biết... Không, không biết được. Điều đó cũng tuỳ người thôi.

Nếu họ đem chuyện đó hỏi người đàn ông có râu ngắn, mặc toàn đồ đen, vụng về với  bó hoa cúc, khi thì ôm trong tay như ôm đứa bé, khi thì cầm ngoặt ra sau lưng, anh ta sẽ trả lời là anh sẽ đến đấy mỗi thứ năm cho đến lúc chết, cái chết mà anh mong sẽ đến sớm.
Lucile mất đi đột ngột như một tai hoạ khủng khiếp mà tâm trí anh không sao chấp nhận được. Hai người lấy nhau được năm năm và nàng đã làm thay đổi cuộc đời anh. Trước khi có nàng, anh là một người nghiêm nghị ( hơi buồn tẻ, như nhận xét của nhiều phụ nữ ), chỉ quan tâm đến công việc. Anh thích giảng dạy, chấm bài, chuẩn bị luận án tiến sĩ. Cuộc sống bên ngoài hầu như không tồn tại trong mắt anh.

 Đột nhiên, tại một khách sạn miền núi, nơi anh đi nghỉ hè, anh đã gặp Lucile, mái tóc vàng óng, đôi mắt tím biếc, chiếc cổ thon, đôi vai tròn lẳng, một vẻ đẹp hiếm có đến nỗi trong suốt năm năm chung sống đó, anh vẫn khó tin là có thật. Ngay cả những lúc ôm vợ trong lòng, gần gũi nhau, khi nàng ngước nhìn anh khép nép ngoan chiều, anh vẫn tưởng như nàng là nhân vật huyền thoại hay cổ tích. Nàng gợi cho anh nhớ đến những nhân vật của Shakespeare hay Musset. Những khi liên tưởng như thế, anh lại tự trách mình là ngay cả trong tình yêu cũng tỏ ra là ông giáo cố chấp, một người thông thái rởm. Không, Lucile không phải là bản sao của những nhân vật tưởng tượng, mà là một người phụ nữ có nụ cười dịu dàng, nét mặt lanh lợi, thân hình mềm mại, tươi mát. Vốn đỏm dáng, nhiều lúc nàng trêu chọc anh và làm anh lo lắng. Anh chỉ còn nhớ đến vẻ quyến rũ không gì sánh được của nàng. 

  • Mình đã mất đi nhiều hơn cái mình có, anh tự nhủ khi đi về phía ngôi mộ của nàng, nơi linh thiêng đối với anh.

Khu thứ ba phía nam, khu thứ hai phía tây. Những tuần đầu tiên anh cần tới những chỉ dẫn đó để tìm đường. Bây giờ, anh đi thẳng đến tấm đá cẩm thạch màu xám tro, trên có ghi đơn giản: Lucile Carlut, nhũ danh Auban (1901-1928). Có lúc anh muốn ghi dòng chữ la tinh: Conjugi, amicae (1) nhưng anh nghĩ là nàng sẽ không tán thành. Để tới nơi nàng yên nghỉ, anh đi ngang qua những huyệt mộ các gia đình quyền thế, những công trình xấu xí, cái thì xây kiểu gô tích, cái thì theo kiểu Ai cập, phô bày sự giàu có của tay trùm đồ sắt thép hay hàng tạp hoá. Anh yêu thích biết bao tấm bia đá trơn, không trang trí, là món quà cuối cùng anh tặng vợ. Cuối cùng ư? Không hẳn vậy, vì anh vẫn còn những đoá cúc kia, nàng vẫn thường chuộng màu sắc rực rỡ của loài hoa này. Lẽ nào nàng lại nằm dưới mộ này? Anh tưởng như đang nghe giọng nàng nói:
  • Anh lại mang hoa đến cho em đấy à? Thật đáng yêu quá!

Anh vẫn còn nhớ là anh đã không tin, đã phủ nhận dứt khoát khi bác sĩ nghe nhịp tim đập của Lucile và nói: "Xong rồi!" Lẽ nào nàng lại bỏ anh một mình? Lucile vẫn luôn ân cần, chu đáo và không bao giờ nản chí mà!

Anh đặt nghiêng bó hoa dưới dòng chữ trên tấm bia, và đứng đó, mặc niệm. Cứ mỗi tuần anh vẫn cố ôn lại những giai đoạn của quãng đời hạnh phúc: đính hôn, tuần trăng mật, những đêm dài ân ái, phút thân mật ngọt ngào mỗi lần anh ngồi vào bàn làm việc, ngước mắt nhìn lên và bắt gặp nụ cười kín đáo, chia sẻ của nàng, rồi những ngày xao xuyến chờ đợi đứa con ra đời. Hai người hoàn toàn hợp ý nhau, từ việc trang trí căn nhà đến những vở kịch mà họ muốn cùng xem chung. Nàng còn hiểu rõ anh đến mức có thể trả lời đúng cái câu mà anh chưa kịp nói ra. Vậy mà giờ đây anh chẳng còn vợ, chẳng có con.

  • Lucile tội nghiệp! Lời nói cuối cùng của em là để anh yên tâm. Rồi, giữa chừng...

Suốt mùa đông, anh trở lại vào các ngày thứ năm. Mỗi lần, anh mang đến một loại hoa khác nhau, bày tỏ trí tưởng tượng muốn làm vui lòng người đã khuất như trước đây đã từng làm đẹp lòng người sống. Dịp lễ Noel, anh nhớ lại niềm vui như trẻ nhỏ của Lucile khi nhìn thấy cây thông sáng rực với những món quà treo dưới cành cây, anh trang trí mộ vợ bằng những cành lá xanh, bằng cây ô rô (2), cây thạch thảo (3). Rồi, tuần qua tuần, ngày tháng cứ nối dài ra. Anh thấy trên những chiếc xe bán hoa những loại hoa mới. Một ngày tháng ba, anh mang đến những bông hoa violet và hoa báo xuân (4). Bầu trời trong xanh, khí trời ấm áp, ánh nắng đùa giỡn trên những tấm đá. Anh cảm thấy thoải mái, và ngay lúc đó lại tự trách mình.
Vẫn như mọi lần, anh bước vào nghĩa trang như đang mơ. " Em thích mùa xuân. Ngày đầu tiên có thể đi ra ngoài không mặc áo khoác, với vài bông hoa cài lên ve áo, em tỏ vẻ hân hoan. Anh sẽ không bao giờ được ngắm dáng đi thiên thần của em nữa rồi..." Bất chợt anh quay đầu lại. Một thiếu phụ bận đồ đen vừa bước vào và dừng lại trước một ngôi mộ, cách chỗ anh chừng mười mét. Chị ôm bó hoa và đặt lên mộ một cách duyên dáng. Sau đó, chị quỳ xuống trên nền mộ.
Cái mũ của chị che khuất một phần khuôn mặt. Étienne chờ đợi khoảnh khắc chị quay đầu lại. Khi chị đứng lên, anh thấy chị đang khóc. Nét mặt chị nghiêm trang, tinh khôi. Mái tóc đen che trùm vầng trán rộng. Chiếc áo khoác, kiểu dài bó sát người, làm nổi bật thân hình mảnh mai. Trước khi ra đi, chị không hề nhìn ra xung quanh. Chị đi xen giữa những ngôi mộ và những nhà mồ để ra lối cổng. Khi nghe tiếng bước chân chị trên đường sỏi, anh đến nhìn tấm bia mà hồi nãy chị quỳ phía trước. Antoine Constant - 1891-1928. Vậy là chị vừa mất chồng, chứ không phải cha, cũng không phải con trai. Rồi anh lại nghĩ: "Có thể là người tình". Nhưng anh cũng không tin chắc.
Thứ năm sau, anh đến đúng vào giờ đó, mà không nghĩ là mình mong gặp lại người ấy. Chị không đến. Anh chờ lâu và buổi mặc niệm lần này buồn bã hơn thường lệ. Anh thấy xót xa. Cuộc sống của anh hoàn toàn trống trải. Anh không có bạn thân. Lucile và anh cố tình giữ cách biệt nghiêm ngặt với gia đình để họ không thể can thiệp vào cuộc sống của hai vợ chồng, bởi cả hai đã đủ cho nhau.

"Thật khác nhau xa, anh nghĩ, giữa những tối ấm cúng ngày trước và cuộc sống cô đơn hiện nay! Buồn biết mấy khi phải ăn tối vội vàng, chẳng thấy ngon miệng, rồi đến ngồi trên chiếc ghế bành, đọc mấy tờ báo ban chiều, cố tìm hứng thú trong trang sách mà không được, rồi chờ đợi hàng giờ giấc ngủ chẳng chịu đến cho."

Anh say mê công việc khi có thể chia sẻ với vợ. Anh đọc cho chị nghe một câu, chờ đợi phản ứng của chị mà anh biết lúc nào cũng nhạy bén, thông minh. Rồi đến giờ hai người cùng về phòng ngủ. Mặc áo ngủ, tóc tai buông xoả, chị trông đáng yêu biết bao. Chẳng lẽ anh sẽ không bao giờ còn được hưởng niềm vui nồng nàn ấy nữa?

Không bao giờ nữa! Phải nói là "không bao giờ nữa" anh được vuốt ve âu yếm, bởi chỉ ý nghĩ tái hôn, thậm chí chỉ ve vãn một phụ nữ nào khác với anh đã là tội lỗi rồi. Làm sao anh có thể nhắc lại với người khác những lời mà anh chỉ dành cho chị? Làm sao anh có thể đưa một người nào khác vào trong căn nhà anh đã hoàn toàn dành để tưởng nhớ Lucile? Đồ đạc trong nhà chỗ nào cũng có ảnh chị. Trong tủ, quần áo của chị vẫn ở đúng vị trí chị đã treo. Bà Auban, mẹ vợ anh, từ dưới tỉnh lên, sau đám tang đã gợi ý anh mang đi cho hội từ thiện.
  • Đúng thế đấy... Con cũng chẳng dùng chúng làm gì, con ạ... Chúng chỉ làm con thêm buồn thôi.
Anh cảm thấy ý nghĩ đó tội lỗi và tệ hại.

Một bà già đi ngang qua gần anh, tay mang một bình sắt đầy nước, chắc là để tưới hoa. Một đám mây che khuất mặt trời. Étienne rùng mình, đưa mắt nhìn lần cuối tấm biển gắn trên đá cẩm thạch xám, rồi bước ra. Nhưng rồi, dù không cố ý, thay vì đi thẳng đến lối cổng chính, anh lại ngoặt vào phía trước ngôi mộ của Antoine Constant. Trên mộ có bó hoa diên vỹ (5) còn tươi. Người phụ nữ chưa quen biết ấy đã đến đây hôm trước, có thể là sáng nay.

Thêm hai ngày thứ năm nữa anh vẫn không gặp chị. Lần thứ ba, khi anh đến thì chị đã có đấy rồi. Étienne có cảm giác như chị liếc nhìn trộm bó hoa anh đang cầm. Hoa tu lip, màu đỏ và vàng. " Không, chẳng có vẻ gì tang tóc", anh nghĩ thầm. Có sao đâu... Em vẫn thích loại hoa này. Em vẫn thường nói: Phải đánh thức căn phòng khắc khổ này... Than ôi! Em mới chính là người anh muốn đánh thức, đôi má thơm tho của em, vầng trán ấm áp của em". Rồi, đến lượt anh liếc nhìn người phụ nữ áo đen và chú ý xem chị mang hoa gì đến. Cũng như anh, chị chọn hoa màu sáng, nhưng là hoa cẩm chướng chứ không phải tu lip.

Sau hôm đó, thứ năm nào anh cũng gặp chị. Có hôm chị đến trước anh, có hôm đến sau, nhưng bao giờ cũng là thứ năm. " Có thể là vì mình" anh tự nhủ. Tuy thế, anh vẫn chờ chị đến với một sự xúc động mơ hồ. Cả hai người đều chăm chút chọn loại hoa và bây giờ quan sát mạnh dạn hơn, xem người kia mang đến cho người đã khuất loại hoa gì. Hầu như giữa hai người có sự ganh đua và người dưới mộ cũng thụ hưởng vì các bó hoa ngày càng đẹp hơn. Cả hai cùng mang hoa hồng  đầu mùa đến, nhưng hoa của chị màu đỏ, còn của anh là hồng nhung. Rồi hai người đều mang đến những cành lay-ơn đủ sắc màu rực rỡ như pháo hoa.

Anh chờ cho chị đi khá xa rồi mới ra về, sợ làm chị bối rối khi thấy anh có vẻ như muốn đi theo hay muốn nói chuyện. Chị thì rõ ràng không muốn vì lần nào chị cũng bước vội và không ngoái nhìn lui.

Một ngày tháng năm, khi anh đang băng qua khu mộ cổ sang trọng để đi về phần mộ của Lucile, anh nghe tiếng ồn ào và thấy người gác cổng - mà anh đã quen - đang nắm cánh tay bà lão mà anh đã từng thấy mang bình nước. Bà lão cố rút tay ra. Người gác cổng muốn nhờ thiếu phụ áo đen làm chứng, và lên tiếng khi thấy anh:
  • Thưa ông, việc này cũng liên quan đến ông đấy!
Étienne tiến gần lại, tay vẫn đang ôm bó hoa:
  • Có chuyện gì thế?
  • Tôi bắt quả tang ả này lấy trộm hoa. Đúng vậy, thưa bà. Ả đã lấy hoa trên mộ chồng bà, và trên mộ bà nhà nữa, thưa ông... Tôi đã rình mấy tuần nay rồi, và lần này mới bắt tận tay, day tận mặt.
Thiếu phụ có vẻ bối rối.
  • Thôi, ông thả bà ta ra đi. Việc ấy có quan trọng gì với tôi đâu. Hoa cũng đã héo rồi, tôi đến thay hoa mới đây mà.
  • Héo ư? người gác cổng nói, - Không phải héo hết cả đâu. Ả đã khéo chọn, trong mỗi bó chỉ chọn lấy những hoa còn tươi. Đây này, bà thử đến ngôi mộ số 107, khu thứ tám mà xem... Ả đã cắm trong bình cả một bó hoa linh lan (6) mà chắc là không tốn bao lăm tiền mua. Hoa đó lấy từ khắp các mộ. 
  • Thế thì có gì xấu? Thiếu phụ nói. Bà ta có lấy hoa đem bán đâu.
  • Tại sao bà làm như thế? Étienne nói với bà lão.
Anh nhìn bà lão kỹ hơn, mặt bà không có vẻ tầm thường. Bà lão cúi đầu.
  • Tại sao bà lại làm như vậy? Anh nhắc lại. Bà không có tiền mua hoa phải không? Phải vậy không?
Bà lão ngẩng đầu lên:
  • Đúng vậy, tôi không có tiền. Chuyện ấy thì đã làm sao? Thưa bà, bà sẽ làm gì nếu bà có đứa con trai nằm dưới mộ kia và ông chồng keo kiệt không đưa tiền để mua một nhánh linh lan hay một bó violet? Hả? Bà sẽ làm thế nào?
  • Tôi sẽ làm như bà thôi, thiếu phụ áo đen mạnh dạn trả lời.
  • Thôi được, người gác cổng nói, nhưng tôi còn nhiệm vụ của tôi chứ.
Ông bỏ mũ ra, buông tay thả bà lão, và phân bua với Étienne:
  • Thưa ông, ông thấy thế nào? Hẳn là ông đã từng ở trong quân đội?... Mệnh lệnh là mệnh lệnh... Tôi đâu có cứng rắn hơn người khác, nhưng công vụ, công vụ...
  • Cũng không ai kêu ca gì, Étienne nói. Bà đây và tôi, thứ năm nào chúng tôi cũng đến đây để thay hoa. Nếu như trong số hoa của tuần cũ có ai thấy có những cánh hoa còn tươi thì cũng tốt thôi.
  • Vâng, vâng..., người gác cổng nói. Nếu ông bà vui lòng, mọi người cũng đều vui lòng cả.
Rồi ông ta quay sang bà lão bị bắt tội:
  • Bà có thể đi được rồi đấy.
Étienne cho bà lão một ít tiền, và thiếu phụ áo đen cũng cho thêm chút ít. Rồi Étienne đến mặc niệm trước mộ Lucile như mọi lần. Nhưng lòng vẫn còn xáo động bởi chuyện vừa rồi, anh không thể tĩnh tâm như những lần trước. Những hình ảnh quen thuộc anh cố gợi lại đều thoát khỏi anh. Khi thiếu phụ áo đen ra về, anh cân nhắc rồi quyết định đi theo.
  • Cám ơn ông, chị nói. May sao hồi nãy ông đến kịp. Đàn ông lúc nào cũng có uy thế hơn.
  • Bà lão tội nghiệp! Bà và tôi có thể hơn ai hết thông cảm lòng mong muốn làm cái gì đó cho người thân yêu dù là nhỏ nhoi thôi.
  • Đúng như vậy... Vì người thân, mà cũng vì chính mình.
  • Để giữ cho họ sống mãi trong ta.
Chị ngạc nhiên nhìn anh, tỏ vẻ cám ơn.
  • Ông cũng có những cảm giác y hệt tôi... Hơn nữa, đã từ lâu tôi nhận thấy lòng tha thiết của ông khi ông chọn hoa... Ông yêu vợ lắm phải không, ông Carlut?
  • Bà biết tên tôi?
  • Một hôm, không có ông ở đây, tôi đã đọc... Tôi biết là bà nhà mất khi mới 27 tuổi... Thật kinh khủng.
  • Kinh khủng lắm! Cô ấy thật hoàn hảo. Xinh đẹp, dịu dàng, đầy trí tuệ.
  • Thế thì ông cũng giống tôi, tôi đã mất người chồng tốt nhất trên đời. Thật vậy, tôi chưa thấy có người phụ nữ nào được yêu thương nồng nàn như thế, được bảo bọc ân cần như thế... Hầu như là hơi quá... Antoine đã làm tất cả vì tôi và anh ấy mất đi khiến tôi thấy hoàn toàn hụt hẫng.
  • Ông nhà mất còn trẻ quá! Vâng, thú thật là vì chút tò mò... và thiện cảm nữa... tôi đã đọc dòng chữ trên bia... 1891-1928... Ông ấy vì sao mà mất vậy?
  • Tai nạn xe hơi... Người ta mang anh ấy về bất tỉnh nhân sự. Sáng hôm đó khi từ biệt tôi anh ấy vẫn tràn trề hạnh phúc... Anh ấy mới được thăng chức trưởng phòng.
  • Ông nhà là công chức?
  • Không... Một nhà máy hoá chất lớn. Mới 37 tuổi anh ấy đã là nhân vật thứ ba của xí nghiệp. Chẳng mấy chốc nữa mà thành người đứng đầu.
  • Ông bà có cháu nào chưa?
  • Ngay cả niềm an ủi đó tôi cũng không có được.
Họ đi đến cổng chính. Người gác cổng chào họ, vẻ hóm hỉnh.
  • Này, ông ta nói với người cộng sự khi hai người đi qua xa... Trông cũng được nhỉ... Biết đâu đấy!
Thứ năm sau, như một thoả ước đã định, hai người cùng đi chung đoạn đường sau khi viếng mộ. Étienne kể về cuộc đời của mình. Anh là giáo sư toán ở một trường trung học lớn tại Paris, anh cũng có viết lách. Một tờ tạp chí nhờ anh viết phê bình văn học.

  • Khi nhà tôi mất, tôi đã bắt đầu viết một vở kịch. Giờ tôi chẳng có can đảm để tiếp tục.
  • Ông nên viết tiếp, chị nói. Bà nhà cũng mong như vậy đấy.
Anh phấn khởi:
  • Ồ, vậy sao! Hẳn là thế. Cô ấy thường động viên tôi theo con đường này.
Bà Constant nói bà cũng thích kịch. Bà đã theo ngành văn chương khá chuyên sâu: hai bằng tú tài, một bằng cử nhân tiếng Anh.
  • Tốt quá đi chứ! Và sống giữa giới thương gia không làm bà nản sao? 
  • Không đâu, chừng nào Antoine còn sống. Để anh ấy vui lòng, tôi tiếp chuyện bất cứ ai... Theo sở thích thì tôi mong gặp các nhà văn, nghệ sĩ, nhưng cùng với anh ấy...
Anh hỏi chị đã thăm đài kỷ niệm của Sainte- Beuve(7), của Baudelaire(8) trong nghĩa trang này chưa. Chị bảo không biết, anh tình nguyện đưa chị đi xem. Chị cho rằng những ngôi mộ đó xấu xí thôi.
  • Không đâu, anh nói. Chỉ là cách nhìn của từng thời đại.

Vậy là hai người đã cùng nhau đi dạo một đoạn đường dài, trò chuyện sôi nổi đến nỗi không nhìn thấy trời phủ mây đen và cũng không nghe tiếng gầm xa xa báo hiệu cơn dông sắp đến. Khi họ về đến cổng, mưa bắt đầu rơi nặng hạt.
  • Tôi sẽ đi taxi, chị nói. Có bến xe ở đằng kia.
  • Tôi cũng bắt chước bà. Chẳng phải là mưa rào đâu, cả một trận đại hồng thuỷ đấy.
Họ rảo bước, và thấy quần áo đều ướt sũng, nên vụt chạy. Nơi bến chỉ có một chiếc taxi.
  • Bà lên xe nhanh đi, anh nói.
  • Thế còn ông?
  • Tôi sẽ đợi. Chắc sẽ còn xe khác.
  • Đợi trong thời tiết thế này à? Không chắc có xe đâu. Tôi không thể để ông xuống dọc đường sao?
  • Bà về đâu?
  • Nhà tôi, đại lộ Mozart.
  • May quá! Tôi ở ngay gần đó, đường la Pompe. Tôi sẽ để bà xuống trước.

Hai người cứ nhường nhau, cuối cùng chị nhượng bộ và cho địa chỉ. Khi cả hai cùng ngồi trong taxi, họ có vẻ hơi thẹn thùng. Mỗi người cố lui về một góc và không ai nói gì. Anh nhớ lại một tối kia, anh đưa chân cô bạn đồng nghiệp ở trường về và Lucile bắt gặp. Nàng giận.
" Nếu em không nhìn thấy, liệu anh có kể cho em nghe không?
Anh trả lời: Kể chứ. Chị ta bị mệt và cần đến anh, anh không thể bỏ mặc chị ấy được... Vả lại, chị ấy hơn em đến hai mươi tuổi mà.
Điều ấy chứng minh được gì nào? Chị ấy trông vẫn còn được lắm."

" Em sẽ nói gì đây", anh thầm hỏi Lucile khi xe chạy ngang ga Montparnasse, " em sẽ nói gì khi nhìn thấy anh ngồi trong xe với một phụ nữ trẻ đẹp... và còn sống." rồi anh lại nghĩ tiếp," anh tưởng như em đang ngồi với anh trong chiếc xe này, ngực em căng phồng chiếc áo đen... Anh cảm thấy thật xấu hổ khi mọi tình cảm như đang trỗi dậy nơi anh. Anh cần có em biết mấy!" Người thiếu phụ áo đen nhìn anh thông cảm và mơ màng. 

  • Ông thật bất hạnh, chị nói.  Chúng ta đều bất hạnh.
  • Bà sống một mình?
  • Vâng... Đúng hơn là có Amélie, bà giúp việc. Ồ, bà ấy tốt lắm. Trước đây bà nuôi chồng tôi. Bà làm hết mọi việc trong nhà... Còn ông thì sao?
  • Tôi cũng vậy, một mình. Sáng sáng bà giúp việc đến, và năm giờ chiều thì về, để lại cho tôi bữa ăn tối lạnh ngắt.

Anh nói chuyện khó nhọc, không thể bộc bạch những ý nghĩ thực sự cũng như mối xúc cảm đang trỗi dậy nơi anh bởi sự có mặt thật gần gũi của một thân thể phụ nữ. Mặt trời đã hiện ra trở lại, chiếu lấp lánh mái vòm vàng rực của điện Invalides (9).
  • Trời đẹp quá, anh nói. Bà có như tôi cảm thấy buồn tủi bởi vì cuộc sống vẫn đẹp vậy mà...
Chị nói, giọng tha thiết:
  • Tôi không nói nên lời được nhưng tôi cảm thấy điều đó.
Anh hỏi có phải tuần nào chị cũng đi taxi đến nghĩa trang không.
  • Vâng, vì còn bó hoa. Khi chồng tôi còn sống, chúng tôi có xe hơi nhưng chỉ anh ấy cầm lái.
  • Tôi cũng đi taxi, cũng vì lý do ấy... Những bông hoa...
Anh do dự một hồi rồi cất tiếng, giọng rụt rè, nhỏ nhẹ:
  • Có thể nào... Thật ra thì...bà có thấy kỳ quặc không, tôi với bà cùng đi một quãng đường, cùng một ngày, liệu chúng ta có thể đi chung taxi không? Tôi sẽ đến đón bà.
  • Ông tốt quá... Nhưng tôi không muốn để Amélie... Có trời mới biết bà ấy sẽ nghĩ gì khi thấy tôi cùng đi với ông.
  • Vậy thì ta làm ngược lại. Bà sẽ đi taxi và qua đón tôi. Tôi chờ sẵn trước nhà.
  • Có lẽ như vậy tốt hơn. Nhưng còn họ... ông nghĩ là hai người sẽ chấp thuận?
  • Sao lại không? Chúng ta cùng thực hiện nghĩa vụ về trìu mến và yêu thương. 
  • Để tôi suy nghĩ thêm. Dẫu sao tôi cũng không thể để ông trả tiền xe đâu.
  • Chuyện ấy có gì khó đâu. Nếu bà muốn, chúng ta sẽ cùng trả.
  • Cứ để xem đã, chị nói. Đến nhà tôi đây rồi.
Chị cởi găng tay và đưa tay cho anh bắt, bàn tay với ngón dài trắng muốt, có đeo nhẫn.
Ngày thứ năm sau, mỗi người tự đi đến nghĩa trang, nhưng lúc ra về, không hẹn trước nhưng cả hai đều cùng đi đến bến xe và về chung xe taxi. Trên đường về chị nói: " Tôi đã suy nghĩ về lời mời rất tử tế của ông. Tôi thấy có thể chấp thuận được. Đúng là thật vô lý nếu cứ mỗi tuần mình phải trả tiền hai xe. Vả lại có ông tôi thấy yên tâm hơn. Thứ năm tuần sau tôi sẽ đón ông."

Và điều đó trở thành lệ. Chị đến đường la Pompe, bó hoa đặt trên đầu gối, anh đứng đợi trước cổng, bó hoa trên tay. Xe dừng, Étienne bước lên. Hai người đã quyết định không đi thẳng đến cổng nghĩa trang để người gác cổng khỏi thấy họ đi chung. Họ xuống xe ở chỗ rẽ, và từ đấy họ giữ khoảng cách để đi vào sau khi mỉm cười kín đáo trao lời " Hẹn lát nữa gặp lại ".

Từ ngày cùng nhau đi chung đường, họ nói với nhau được nhiều chuyện hơn. Hoa là một trong những chủ đề đầu tiên. Cả hai đều thích hoa mùa hè và những bó hoa đồng nội có hoa thanh cúc (10) cắm xen với bông lúa mạch. Từ nay họ tự chọn và kết những bó hoa, tất nhiên là vì những người xấu số dưới mộ, nhưng cũng vì cả người cùng đi viếng.

Do công việc phê bình, Étienne phải đọc rất nhiều, và anh hướng dẫn chị đọc, cho chị mượn sách. Khi chị trả lại, anh lấy làm ngạc nhiên về những nhận xét chính xác của chị. Có lẽ chị có nhận thức chuẩn mực hơn cả Lucile. Vừa thoáng có ý nghĩ đó anh lại tự trách mình.
Họ thoả thuận với nhau là sẽ không rời Paris suốt mùa hè, trừ phi đi về vài ngày thăm gia đình ở tỉnh. Ngày giỗ của Lucile được tổ chức vào tháng bảy. Anh rất cảm động thấy Gabrielle Constant ngồi ngay hàng ghế đầu trong nhà thờ. Nay anh đã biết tên thiếu phụ áo đen.
  • Tôi không thích lễ lượt kiểu này, chị nói với anh, nhưng đấy là truyền thống gia đình.

Sang tháng tám, trời nóng bức, chị tự cho phép mình mặc đồ tang hai màu trắng và đen.
  • Anh Antoine không thích tôi mặc đồ đen, chị nói như để giải thích và thanh minh.

Một buổi tối, anh mời chị đi ăn ngoài trời, ở vùng ven Paris. Ngồi nơi chiếc bàn nhỏ, trong bóng tối, hai người nói chuyện với nhau, gần gũi, tin cậy.
  • Antoine rất thích ăn tối trong Rừng(11), quả thật là rất thú vị... Paris và rừng cây xen vào nhau... Nhiều lần đi làm về anh ấy bất ngờ nói: " Nào, mình vào rừng đi!" Thật là một người chồng tuyệt vời.
  • Thật ra có một ông chồng như thế không quá khó với một phụ nữ như bà.
  • Tại sao?
  • Vì bà có tất cả, sắc đẹp, tâm hồn, và một tính cách tuyệt hảo...
  • Ông đừng quá khen. Ông đâu đã hiểu hết tôi. Đã có lúc tôi gây cho Antoine nhiều chuyện khủng khiếp.
  • Đúng vậy. Tôi chẳng nghĩ bà có thể như vậy.
Chị cười, rồi nói tiếp, vẻ mặt thoáng chút u buồn.
  • Có đấy. Antoine tội nghiệp. Anh ấy rất cả ghen... Còn tôi, tin ở lòng chung thuỷ của mình, có khi tôi cũng đùa với lửa... Anh ấy giận, tôi cãi lại. Tôi ân hận vì đôi khi đã làm anh ấy bực. Nhưng thường là lỗi tại anh ấy thôi.
Bỗng nhiên, lòng đầy hối tiếc, chị nhìn anh sợ hãi, van lơn, trìu mến.
  • Trời ơi, tôi vừa nói chuyện gì vậy? Ông hãy quên đi! Buổi tối êm đẹp như thế này làm người ta dễ thổ lộ tâm sự, đôi khi cả những điều không nên nói ra... Một buổi tối như thế này, chị nói tiếp, giọng tuyệt vọng, tôi rất cần có anh ấy bên cạnh...
Trong đêm tối, những giọt nước mắt ràn rụa trên mặt. Chị quay đi, lấy khăn lau mắt.
  • Tôi còn trẻ, trẻ quá, nhưng đời tôi thế là hết rồi... Tôi là người phụ nữ bất hạnh nhất trên đời.
Anh đặt bàn tay trên tay chị.
  • Không, anh nói. Đâu phải mọi chuyện đã hết đối với bà... Cuộc đời không hẳn như vậy. Các mùa kế tục nhau mỗi năm, và mang đến những sắc hoa riêng... Buông theo những ám ảnh của quá khứ đâu phải là tốt lành cũng chẳng khôn ngoan... Làm như vậy khiến kỷ niệm mất đi tính nhân ái... Vâng, đúng vậy... Kỷ niệm giúp cho ta sống, đâu phải ngăn trở cuộc sống, cho chúng ta thêm can đảm, đâu phải tước bỏ đi... Bởi vì bà với tôi đều đã trải qua cuộc sống lứa đôi hạnh phúc, chúng ta đều biết là có thể có một cuộc hôn nhân hoà hợp... Bà không tin vậy sao?
Chị để yên tay mình trong tay anh, nhìn anh qua làn nước mắt với vẻ nghi hoặc, rồi lắc đầu.
  • Không, tôi không tin... Điều buồn nhất, không phải là chính nỗi buồn, mà là vì không thể cảm thấy buồn được nữa... Tôi đã thề sẽ thuỷ chung.
  • Tôi cũng thế! anh trả lời, gần như cao giọng.  Còn đau khổ là vẫn còn tình yêu.
Người phục vụ đến mời họ gọi món tráng miệng. Chị chọn dâu tây ngâm đường, và hướng câu chuyện sang những đề tài bớt riêng tư hơn.

Hôm sau, như thường lệ, chị đến đón anh cùng đi ra nghĩa trang. Suốt dọc đường, cả hai đều cảm thấy ngượng ngùng, thiếu tự nhiên. Người tài xế cáu kỉnh không ngớt càu nhàu về khách qua đường, về cảnh sát, về thời tiết. Đứng trước các ngôi mộ, thời gian mặc niệm của mỗi người có vẻ lâu hơn những tuần trước. Khi ra cổng, họ đi ngang qua một đống đá vỡ vụn. Có thể thấy những thân cột, những mảnh bia còn vài chữ: " đời đời nhớ..., tưởng nhớ... ". Chị dừng lại.  - Đây là khuôn viên mộ nhượng lại, nay không còn được chăm sóc, anh nói. Khi một nấm mộ không ai thăm viếng trong vài năm, rồi nó đổ nát, họ phá đi để lấy chỗ.

  • Étienne, chị nói ( lần đầu tiên chị gọi tên anh ), tôi thấy cảnh này buồn lắm.   Những người đã khuất này chẳng còn ai, không ai nhớ đến họ nữa, họ lại chết một lần nữa.
Anh khoác tay chị và chị nép vào người anh.

Trên xe taxi về nhà, họ bàn về cuốn sách anh hứa cho chị mượn, anh ngỏ ý mời chị ghé lại nhà để lấy sách. Lần đầu tiên kể từ khi quen anh, chị bước chân vào nhà anh. Trên các bàn, trên tường, trên bàn làm việc, chỗ nào cũng thấy ảnh của Lucile.
  • Em có thấy cái nhà âm u này đã bừng sống lại từ khi em bước vào không?
Chị nghĩ là anh sẽ ngỏ lời cầu hôn, nhưng chị không muốn điều đó diễn ra ngay trong căn phòng dành riêng cho để tưởng nhớ một người khác.
  • Tối nay anh sẽ làm gì? chị hỏi.
  • Chưa định làm gì. Hay ta đi ăn tối nhé?

Chị gật đầu, đưa tay cho anh hôn rồi ra về.

Chị lang thang một mình ở ngoài đường mãi mới về nhà. Bàng hoàng, nhưng hạnh phúc, chị ngạc nhiên thấy mình lại thấy yêu đời.
Chị nghĩ thầm: Tất nhiên anh Antoine không muốn mình từ bỏ tình yêu ở tuổi này... Hẳn anh cũng mong mình đi bước nữa... Nếu mình chết trước, mình cũng mong như thế...

Tất cả những điều đó đều là thực, nhưng trước đây chị đã chọn một thái độ, đã quyết cứ ở vậy, nên thật khó để báo cho bạn bè và gia đình một quyết định trái ngược hẳn, khi thời gian goá bụa chưa lâu. Và  bà Amélie sẽ nói gì? Chắc chắn bà sẽ trách. Nhưng nên chăng ta chỉ sống vì người khác? Mình sẽ tổ chức đám cưới thật đơn giản, không ầm ĩ, hạn chế ở những nghi thức không thể thiếu được. Chị tưởng tượng ra cái áo sẽ mặc hôm đó, áo màu xám, cổ trắng cao và thêm cái thắt lưng cũng màu trắng thật hài hoà.





_____________________
(1) tưởng nhớ vợ, tưởng nhớ bạn
(2) houx
(3) bruyère
(4) primevère
(5) iris
(6) muguet
(7) Sainte- Beuve, nhà văn, nhà phê bình văn học ( 1804-1896 )
(8) Baudelaire, nhà thơ Pháp ( 1821-1867 )
(9) Invalides, điện Invalides, công trình nổi tiếng ở Paris, xây dựng từ thế kỷ XVII. Mục đích ban đầu của Invaldes là bệnh viện dành cho các thương binh và cựu chiến binh của quân đội hoàng gia. Ngày nay, Invalides tiếp tục duy trì một phần nhỏ cho chức năng dưỡng đường quân y, phần lớn dành cho bảo tàng vũ khí và lăng quân đội. Vào năm 1989, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng Pháp, mái vòm được trang trí lại lần thứ năm. 550 000 lá vàng, tức khoảng 10 kg được sử dụng cho công việc này.
(10) bleuet
(11) au Bois, tức là Bois de Boulogne, rộng đến 846 ha, ở phía Tây thủ đô Paris, địa điểm du ngoạn, vui chơi, giải trí.




THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu

( từ nguyên bản tiếng Pháp, Fleurs de saison