mardi 12 août 2025

Một pháp sư tử Gettysburg

 

MỘT PHÁP SƯ TỪ GETTYBURG

 Kate Chopin

( 1850 - 1904 )


 



Catherine O' Flaherty sinh năm 1850 tại Saint - Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hoá, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh. Theo học bậc tiểu học và trung học tại một trường công giáo với các nữ tu. Ở nhà, được nuôi dạy bởi mẹ, bà, và bà cố. Sự giao tiếp thường xuyên với những người phụ nữ ở chung quanh giúp cô bé sớm có nhận xét về vai trò của phái nữ trong gia đình và xã hội, định hình cho những ý tưởng và quan niệm cá nhân của nhà văn tương lai.

Kate Chopin ( Kate là Catherine, Chopin là họ chồng ) chịu nhiều đau thương mất mát ngay khi còn nhỏ. Cha chết vì tai nạn đường sắt khi mới lên năm (1855), bà cố, người đã dạy cho cô tiếng Pháp và văn hoá Pháp, qua đời năm 1863. Trong thời Nội chiến Hoa Kỳ ( 1861 - 1865 ), cô lại mất thêm người anh ( tham gia đội quân của Liên minh miền Nam - Confederate - ).

Kate Chopin kết hôn năm 1870 với Oscar Chopin, một thương gia chuyên buôn bán bông vải, và cũng là người gốc Pháp ).Từ năm 1871 đến 1879, Kate Chopin sinh được 5 trai và 1 gái, và số phận rủi ro vẫn không buông tha, Kate lại chịu tang chồng năm 1882, chỉ sau mười hai năm chung sống. Trở thành quả phụ năm 32 tuổi, Kate Chopin vừa nuôi con, vừa tiếp tục công việc của chồng, và không tái giá. 

Đây là chân dung Kate Chopin giai đoạn này, như ghi nhận của nhà phê bình Barbara Ewell:  " Kate là một người khá nổi bật và quyến rũ. Không cao lắm, có khuynh hướng mập ra, thực sự xinh đẹp, mái tóc nâu dày, dợn sóng, sớm điểm bạc, đôi mắt nâu sáng trong. Bạn bè nhớ nhiều nhất là thói quen im lặng và sự nhanh trí kiểu Ái Nhĩ Lan, thêm điểm nhấn là biệt tài bắt chước. Một bà chủ nhà duyên dáng, dễ tính, thích cười, thích âm nhạc và khiêu vũ, đặc biệt là kiểu nói chuyện thông minh, bà có thể diễn đạt quan điểm cá nhân với sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên."

Sau khi chồng chết không lâu, Kate Chopin trở về sống tại St- Louis để con cái có điều kiện học hành tốt hơn. Năm 1885, đến lượt mẹ Kate Chopin qua đời.

Một bác sĩ sản khoa, cũng là bạn thân của gia đình, khuyến khích Kate viết văn, như là một liệu pháp chống buồn nản và cô đơn sau khi chồng và mẹ lần lượt đi xa.  Nghe theo lời khuyên, Kate bắt đầu cầm bút và truyện ngắn đầu tiên của bà đã được đăng trên tờ St Louis Post Dispatch năm 1889, và một năm sau, bà hoàn thành cuốn tiểu thuyết At Fault.

Hơn mười năm tiếp sau đó, Kate Chopin vừa duy trì hoạt động xã hội, vừa không ngừng sáng tác, hoàn thành được trên dưới một trăm truyện ngắn. Truyện ngắn của Kate Chopin được công bố trên những tạp chí nổi tiếng như Vogue và Atlantic Monthly. Hai tuyển tập lần lượt ra mắt: Bayou Folk, 23 truyện (1894), A Night in Acadie, 21 truyện (1897). Giới phê bình có người cho là truyện chỉ có tính địa phương, chỉ phản ảnh những sinh hoạt tại vùng Louisiana và Missouri.  Đến năm 1899, bà cho xuất bản cuốn The Awakening ( Tỉnh  thức ), thu hút nhiều nhận định đánh giá trái ngược nhau. Một vài nhà phê bình khen ngợi tính nghệ thuật của tác phẩm, nhưng cũng không ít người cho là " nhàm chán ", " tầm thường", " không lành mạnh ",  thậm chí "  độc hại ". Tất cả chỉ vì Kate Chopin là người phụ nữ " đi trước thời đại ", thông qua các nhân vật của mình, bà đã bày tỏ quan niệm ( và phản ứng ) về gia đình, hôn nhân, ly dị, ngoại tình, nữ quyền, chống lại lề thói cổ truyền ( tradition ) và quyền hành ( authority ). ( Mà đâu chỉ trong tác phẩm, ngay trong sinh hoạt đời thường, Kate Chopin cũng tỏ ra " tiên phong " đấy chứ: thời còn sống tại New Orleans hay khi về một thị trấn nhỏ ở St- Louis, bà đã làm mọi người ngạc nhiên khi đi dạo một mình, hút thuốc, ăn mặc kiểu cách và cỡi ngựa hai chân hai bên. ) 

Kate Chopin qua đời đột ngột năm 1904, xuất huyết não. 

Trong một thời gian dài, tác giả và tác phẩm bị lãng quên, ngoại trừ một số rất ít truyện được giới thiệu trong các tuyển tập xuất bản mấy năm sau khi tác giả qua đời.

Sự lãng quên ( bất công và đau đớn ) này kéo dài tới gần ... 70 năm, mãi cho đến năm 1969, khi nhà phê bình người Na Uy, Per Seyersted viết cuốn chuyên luận về tiểu sử của Kate Chopin với nhận định: 

" ( Kate Chopin ) là nhà văn nữ đầu tiên trên đất nước mình nhìn nhận đam mê như là một chủ đề chính thống của tiểu thuyết nghiêm túc, công khai. Chống lại lề thói cổ truyền và quyền hành, với một sự táo bạo mà ngày nay chúng ta khó khăn mới thấu hiểu, với sự thành thực cương quyết, không có chút gì kích động, bà đảm đương việc nói lên sự thật không che đậy về mặt khuất của đời sống người phụ nữ. Bà như là người tiên phong đề cập thẳng thắn những vấn đề dục tính, ly dị, và sự thôi thúc của giới nữ mong muốn tồn tại thực sự. Trong nhiều khía cạnh, bà là một nhà văn hiện đại, nổi bật về nhận thức những phức tạp của  sự thật và tính đa dạng của tự do."

Phong trào nữ quyền ở Mỹ phát triển ngày càng mạnh từ những năm 1960 tạo thuận lợi cho việc đánh giá về tài năng và cống hiến của Kate Chopin. Tác phẩm của bà được tái bản và giới thiệu trở lại.


“A Wizard from Gettysburg” là một truyện ngắn mang đậm chất kỳ bí và bi kịch, nơi Kate Chopin kết hợp yếu tố hiện thực lịch sử (trận Gettysburg trong Nội chiến Hoa Kỳ) với không khí huyền hoặc của miền Nam nước Mỹ hậu chiến. Tác phẩm không chỉ kể câu chuyện về một người đàn ông lang thang xuất hiện bất ngờ và đào lên một kho vàng, mà còn mở ra một tầng nghĩa sâu về hậu quả tâm lý của chiến tranh, sự đổ vỡ của gia đình, và ký ức như một vùng đất vừa thiêng liêng vừa nguy hiểm.

Bối cảnh chính là một đồn điền miền Nam nước Mỹ, nhiều năm sau khi Nội chiến kết thúc. Bertrand – cậu bé của gia đình Delmandé – đang sống trong một môi trường yên bình, cho đến khi một người lang thang già xuất hiện. Từ những lời nói rời rạc, ông kéo Bertrand vào một hành trình kỳ lạ: tìm kiếm một vật chôn giấu dưới gốc cây hồ đào. Vật ấy hóa ra là một hộp vàng.

Kịch tính đạt đỉnh khi người phụ nữ trong nhà – Madame Delmandé – nhận ra kẻ lang thang là chồng mình, tưởng đã chết từ trận Gettysburg. Nhưng thay vì tái ngộ ấm áp, cuộc gặp gỡ lại bị bao phủ bởi sự hoang mang: ông dường như không nhận ra vợ con, mà tự giới thiệu mình như một “người lính cũ cần chỗ trú”.

Truyện chứa nhiều lớp biểu tượng:Người lang thang: Vừa là hình ảnh một cựu binh thất lạc, vừa là hiện thân của ký ức chiến tranh – rách nát, không toàn vẹn, và ám ảnh người sống sót. Ông là “phù thủy” không phải vì có phép màu, mà vì trí nhớ đứt gãy biến hành động thành nghi lễ bí ẩn. Kho vàng: Không chỉ là của cải vật chất, nó tượng trưng cho quá khứ bị chôn vùi – những điều từng quý giá nhưng giờ khi đào lên lại mang theo đau thương và hỗn loạn.
Cây hồ đào cổ thụ: Giống như nhân chứng của lịch sử, nó đứng đó qua chiến tranh và hòa bình, lưu giữ những bí mật của con người. Câu nói “The war’s over; you must go to school”: Sự pha trộn giữa mệnh lệnh của một người cha (hoặc người từng đóng vai cha) và tiếng vọng của một tâm trí mắc kẹt trong ký ức chiến tranh. Nó cho thấy ranh giới mờ giữa hiện tại và quá khứ trong tâm trí người lính.
Nội chiến không chỉ cướp đi sinh mạng, mà còn phá hủy bản sắc và ký ức của những người sống sót. Người lính trở về không còn là chính mình, và gia đình cũng mất đi nền tảng nhận diện lẫn nhau.

Quá khứ được khơi dậy như một nghi thức bí ẩn, nhưng thay vì phép màu cứu rỗi, nó lại mang đến sự rối loạn. “Phù thủy” ở đây chính là sức mạnh của ký ức: nó biết đường trở lại, nhưng không đảm bảo đem theo sự nguyên vẹn.

Bertrand là hiện tại – trẻ trung, tò mò, hăm hở khám phá. Người lính là quá khứ già nua, tàn phế, lặp lại những câu nói của thời chiến. Cuộc gặp gỡ giữa họ giống như giao thoa giữa hai thế giới không thể hòa hợp.

Dù chiến tranh đã “kết thúc” trên giấy, nó vẫn tiếp tục tồn tại trong tâm trí người lính, trong nỗi đau của gia đình, và trong những bí mật chôn vùi trên mảnh đất quê nhà. Kate Chopin khéo léo hòa trộn yếu tố hiện thực (mô tả chính xác bối cảnh miền Nam hậu chiến) và huyền ảo (hành động tìm kho vàng như nghi thức phù thủy). Giọng kể xen lẫn sự tò mò của đứa trẻ và cảm giác bất an của người lớn, tạo ra một bầu không khí nửa cổ tích, nửa ám ảnh.

“A Wizard from Gettysburg” không chỉ là một câu chuyện bất ngờ về kho báu hay sự trở về của một người tưởng đã chết. Nó là một ẩn dụ về việc chiến tranh để lại những khoảng trống không thể lấp đầy. Cái “phép thuật” duy nhất còn lại là khả năng ký ức trồi lên từ lòng đất, nhưng khi nó xuất hiện, nó không ban phước mà chỉ nhắc ta rằng, có những vết thương thời gian không thể chữa lành.

Bằng việc khắc họa sự đan xen giữa ký ức và hiện thực, Chopin đặt ra một câu hỏi day dứt: Liệu chúng ta có thực sự trở về từ chiến tranh, hay chỉ là những bóng ma bước lạc vào hiện tại?



* * *


Đó là một buổi chiều tháng Tư, không lâu trước đây, mới chỉ hôm kia, và những bóng chiều đã bắt đầu trải dài.

Bertrand Delmandé, một cậu bé sáng sủa, tuấn tú, tầm mười bốn – hay mười lăm tuổi, đang cỡi một con ngựa nhỏ giống Creole, loại mà các cậu bé ở Louisiana thường cưỡi khi không có gì tốt hơn. Trước đó, cậu đã đi săn và mang khẩu súng trước ngực.

Thật khó chịu khi phải nói rằng Bertrand chẳng buồn bã như lẽ ra cậu nên thế, xét đến những sự kiện gần đây vừa xảy ra. Trong tuần qua, cậu đã bị gọi về nhà – đồn điền Bon-Accueil – từ trường Grand Coteau.

Cậu thấy cha và bà mình ủ rũ vì chuyện tiền bạc, đang chờ đợi một vài thủ tục pháp lý có thể dẫn đến việc cậu phải nghỉ học vĩnh viễn. Chính ngày hôm đó, ngay sau bữa trưa sớm, hai người đã lái xe ngựa ra thị trấn để lo công chuyện này, và sẽ không về cho đến cuối buổi chiều. Vì vậy, Bertrand đã thắng yên cho Picayune và lên đường rong ruổi một chuyến dài, đúng như niềm vui ưa thích của cậu.

Bây giờ, cậu đang trở về, vừa đến đầu hàng rào dày đặc cây dại Cherokee, nơi đánh dấu ranh giới của Bon-Accueil, rực lấp lánh bởi vô số hoa hồng trắng.

Con ngựa nhỏ bỗng khựng lại dữ dội, chồm lên vì một thứ gì đó ở ngay khúc quanh của con đường, ngay dưới hàng rào. Ban đầu trông như một đống giẻ rách. Nhưng hóa ra đó là một kẻ lang thang, đang ngồi trên một phiến đá phẳng, rộng.

Bertrand vốn chẳng có chút thương hại ủy mị nào đối với hạng người lang thang; sáng nay thôi, cậu vừa đuổi một gã ra khỏi cửa sổ bếp vì gã quấy rầy quá mức.

Nhưng gã lang thang này thì già yếu. Bộ râu dài, trắng như bông vừa tách hạt, và khi Bertrand nhìn thấy, ông ta đang tìm cách cầm máu cho vết thương ở gót chân trần bằng một nắm cỏ khô rối bời.

 “Ông bị sao thế, lão ơi?” cậu bé hỏi, giọng đầy thiện ý.

“Đối với một thằng bé đi học như cậu… trí khôn đâu mất rồi?” bà lớn giọng trách móc với vẻ phẫn nộ rõ rệt; rồi lầm bầm một mình: “Bà Bertrand với cậu chủ St. Ange sẽ không chịu đâu, tôi biết mà. Trời đất ơi! Nếu nó không đặt hắn ngay trên hàng hiên, ngồi chễm chệ trong cái ghế bập bênh của cha nó kia kìa!”

Quả đúng như vậy: cậu bé đã cho ông lão lang thang ngồi vào một góc dễ chịu trên hiên nhà, trong khi mình chạy đi tìm băng để băng bó vết thương.

Đám gia nhân tỏ rõ thái độ phản đối; cô hầu phòng còn lẽo đẽo theo Bertrand vào phòng của bà nội cậu, nơi cậu đang lục lọi tìm kiếm.

“Cậu phá tung tủ áo của bà nội như thế là sao hả?” cô ta cất giọng the thé.

“Tôi đang tìm băng.”

“Thế sao cậu không xin băng đi, mà phải lục tủ áo của bà? Nghe tôi này, tốt nhất là cậu tống cái lão lang thang đó ra khỏi chỗ sát phòng ăn ngay! Đến lúc bạc nhà mất thì người bị đổ tội không phải cậu đâu, mà là tôi đấy.”

“Bạc ư? Vớ vẩn, ’Cindy; ông ấy bị thương, và cô không thấy là ông ấy đầu óc có vấn đề sao?”

“Đầu óc tỉnh như tôi ấy chứ. Và tôi thì chẳng dại gì tin ông ta với chìa khoá phòng chứa đồ, dù đầu óc có vấn đề thật đi nữa,” cô ta kết thúc bằng một cái nhún vai đầy khinh khỉnh.

Nhưng “người được bảo trợ” của Bertrand lại tỏ ra khó gần trong bộ quần áo rách tả tơi đã mặc từ lâu, nên cậu bé quyết định để ông ta yên cho đến khi cha mình về, rồi sẽ xin phép đưa ông vào phòng tắm, thay cho ông bộ quần áo sạch sẽ, tươm tất.

Thế là ông lão lang thang cứ ngồi nguyên ở góc hiên, vẻ thản nhiên hài lòng, khi St. Ange Delmandé và mẹ ông trở về từ thị trấn.

St. Ange là một người đàn ông tầm trung niên, dáng mảnh khảnh, gương mặt nhạy cảm, mái tóc đen dày đã điểm nhiều sợi bạc; còn mẹ ông là một người đàn bà phúc hậu, thân hình đẫy đà, vẫn rất nhanh nhẹn ở tuổi sáu mươi lăm.

Cả hai trông rõ ràng đang trong tâm trạng u sầu. Có lẽ vì muốn tìm chút niềm vui từ sự hiện diện dịu dàng của cháu ngoại, họ đã mang về từ thị trấn một bé gái, con của người con gái duy nhất của Madame Delmandé, hiện đã lập gia đình và sống ở đó.

Madame Delmandé và con trai đều ngạc nhiên khi thấy một kẻ lạ, lại không mấy dễ ưa, đang chiếm một góc hiên nhà. Nhưng chỉ vài lời giải thích chân thành của Bertrand cũng đủ để họ bớt lo lắng và phần nào chấp nhận sự hiện diện của ông ta. Họ chỉ lướt qua ông bằng ánh mắt hoàn toàn dửng dưng, dù không phải là thiếu thiện cảm, rồi bước vào nhà. Ở một đồn điền lớn, luôn có những góc xó mà ngay cả một kẻ lang thang như ông lão này cũng có thể được dung thứ và cho trú lại một vài đêm.

Đêm đó, khi lên giường, Bertrand nằm trằn trọc rất lâu, nghĩ đến người đàn ông và những điều đã nghe từ miệng ông trong ánh sao tĩnh lặng. Cậu bé đã từng nghe nhiều về sự khủng khiếp của trận Gettysburg, đến mức gần như có thể cảm nhận và rùng mình trước nó.

Trên chính chiến trường ấy, người đàn ông này đã trải qua một lần “tái sinh” đầy bi kịch. Toàn bộ cuộc đời trước đó đối với ông chỉ là một khoảng trống mịt mù. Trong sự tàn khốc đen tối của chiến tranh, ông được sinh ra lần nữa, không bạn bè, không thân thích, thậm chí không một cái tên mà ông biết chắc là của mình. Từ đó, ông lang bạt khắp nơi; sống hơn nửa thời gian trong các bệnh viện; làm thuê khi có thể, và chịu đói khi buộc phải thế.

Lạ thay, ông luôn gọi Bertrand là “St. Ange”, không chỉ một, mà là tất cả những lần ông mở miệng nói chuyện. Cậu bé thắc mắc về điều này. Có phải vì ông đã nghe Madame Delmandé gọi con trai mình như thế, nên nghĩ nhầm?

Và thế là, kẻ lang thang vô danh này đã trôi dạt đến tận đồn điền Bon-Accueil, cuối cùng được một bàn tay con người đưa ra để giúp đỡ.

Sáng hôm sau, khi cả gia đình tụ họp ăn sáng, ông lão đã yên vị trên chiếc ghế và ở góc quen thuộc mà Bertrand đã ưu ái dành cho.

Nếu quay người lại một chút, ông có thể nhìn thấy khu vườn hoa với lối sỏi trắng và những khóm hoa gọn gàng, nơi sắc màu và hương thơm như đang hòa vào một bữa tiệc rộn rã giữa sáng tháng Tư; nhưng ông lại thích hơn việc ngắm nhìn khoảng sân sau, nơi luôn nhộn nhịp: đàn ông đàn bà qua lại mang theo dụng cụ làm việc; những đứa trẻ da đen mặc quần áo thưa thớt, chạy nhảy khắp nơi, tung bụi lên vì quá phấn khích.

Từ chỗ ngồi bên cửa sổ cao sát sàn, Madame Delmandé có thể vừa vặn nhìn thấy ông qua khung kính.

Ông Delmandé đã nói chuyện với ông lão bằng giọng thân thiện, nhưng cả ông và mẹ đều hoàn toàn bị cuốn vào nỗi lo của mình, luôn miệng bàn luận, trong khi Bertrand qua lại liên tục để phục vụ nhu cầu của ông khách bất đắc dĩ. Cậu biết rằng nếu giao việc này cho gia nhân, họ sẽ làm với thái độ miễn cưỡng, nên cậu muốn tự mình làm “người rót rượu” cho kẻ bất hạnh mà sự hiện diện của ông hoàn toàn là trách nhiệm của mình.

Có lần, khi Bertrand mang ra cho ông tách cà phê thứ hai, nóng hổi và thơm phức, ông lão thì thầm:

“Trong đó họ nói gì thế?”, ông khẽ chỉ về phía phòng ăn.

“À, chuyện rắc rối tiền bạc, buộc chúng tôi phải tằn tiện một thời gian,” cậu trả lời. “Điều cha và bà nội buồn nhất là cháu sẽ phải nghỉ học bây giờ.”

“Không, không! St. Ange phải đi học chứ. Chiến tranh kết thúc rồi, chiến tranh kết thúc rồi! St. Ange và Florentine phải đi học.”

“Nhưng nếu không có tiền…” cậu bé mỉm cười như thể đang chiều theo câu chuyện viển vông của một đứa trẻ.

“Tiền! tiền!”  ông lão lẩm bẩm. “Chiến tranh kết thúc rồi, tiền! tiền!”

Ánh mắt mệt mỏi của lão lướt qua khoảng sân rồi dừng lại ở giữa vườn cây ăn quả phía bên kia.

Bất chợt, lão đẩy sang bên chiếc bàn nhỏ đặt trước mặt và đứng bật dậy, nắm chặt lấy cánh tay Bertrand.

“St. Ange, cậu phải đi học!” lão thì thầm. “Chiến tranh đã kết thúc rồi,” vừa nói lão vừa liếc quanh một cách thận trọng. “Đi thôi. Đừng để họ nghe thấy. Đừng để bọn da đen trông thấy ta. Lấy một cái xẻng, cái xẻng nhỏ mà Buck Williams đã dùng để đào bể chứa nước ấy.” Vẫn giữ chặt cánh tay cậu bé, lão kéo Bertrand bước xuống bậc thềm, đi qua sân với những bước dài khập khiễng, chính lão dẫn đường.

Từ dưới mái hiên, nơi để những vật dụng như thế, Bertrand chọn một cái xẻng, vì đó là điều mà sở thích kỳ quặc của lão lang thang đòi hỏi, rồi cả hai cùng bước vào vườn cây ăn quả.

Cỏ ở đây mọc dày và thành từng bụi, còn đẫm sương sớm. Thành từng hàng dài, tạo nên những lối đi dễ chịu, là các cây đào, lê, táo và mận đang lớn. Sát hàng rào là hàng rào lựu với những bông hoa dày, cánh sáp đỏ gạch. Ở giữa vườn, nổi bật là một cây hồ đào khổng lồ, to gấp đôi bất kỳ cây nào khác ở đây, như một ông vua xưa thống trị cả khu vườn.

Tới đây, Bertrand và người dẫn đường dừng lại. Từ lúc nắm tay cậu trên hiên nhà, lão lang thang chưa hề ngập ngừng bước nào. Giờ lão tựa lưng vào gốc hồ đào, nơi có một cái u sâu, rồi nhìn thẳng về phía trước, bước mười bước. Quay ngoắt sang phải, lão bước thêm năm bước nữa. Rồi chỉ tay xuống đất và nhìn Bertrand, lão ra lệnh:

“Đào ở đây. Ta tự làm thì được, nhưng chân ta bị thương. Bởi vì từ sau Gettysburg, ta đã lật biết bao lần đất rồi. Đào đi, St. Ange, đào đi! Chiến tranh đã kết thúc; cậu phải đi học.”

Có cậu bé mười lăm tuổi nào trên đời mà lại không chịu đào, ngay cả khi biết mình đang làm theo lời một kẻ mất trí? Bertrand hăm hở nhập cuộc, như một chuyến phiêu lưu kỳ lạ; cậu đào, đào mãi, tung những xẻng đất giàu mùi thơm ra hai bên.

Lão lang thang, khom người, những ngón tay gầy guộc như móng vuốt ôm lấy đầu gối, đứng quan sát với ánh mắt chăm chú, không rời khỏi nhịp đào đều đặn của cậu.

“Đúng rồi!” lão lẩm bẩm từng chốc. “Đào đi, đào đi! Chiến tranh đã kết thúc. Cậu phải đi học, St. Ange.”

Sâu dưới lòng đất, sâu hơn bất kỳ lần xới đất nào bằng xẻng hay cày có thể chạm tới, hiện ra một chiếc hộp. Dường như bằng thiếc, lớn hơn hộp xì gà một chút, quấn quanh nhiều vòng dây gai, giờ đã mục và rách ở vài chỗ.

Lão lang thang không tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy nó; lão chỉ quỳ xuống và nhấc nó lên từ nơi yên nghỉ lâu năm.

Bertrand buông xẻng khỏi tay, run lên vì sững sờ trước cảnh tượng. Người đàn ông này là ai, mà trong lốt một kẻ lang thang lại bước đi như theo thuật bí truyền ngay trên đất của cha mình, rồi chỉ đúng chỗ một chiếc hộp, có thể là kho báu,  đang chôn? Cảnh tượng chẳng khác nào bước ra từ một cuốn sách kỳ diệu.

Đi sau lão già tóc bạc, người lại một lần nữa dẫn đường, Bertrand thấy trong lòng mình dấy lên thứ cảm giác mê tín trẻ thơ. Đó là cảm giác cậu từng có khi còn nhỏ, ngồi bên ánh lửa ma mị trong căn chòi của người da đen, nghe chuyện về những mụ phù thủy đêm đêm hiện ra để thi triển phép thuật.

Bà Delmandé chưa bao giờ bỏ thói quen tự tay rửa bạc và đồ sứ tinh xảo của mình. Khi bữa sáng kết thúc, bà ngồi với một xô nước ấm đầy xà phòng mà ‘Cindy mang đến, kèm nhiều khăn vải mềm. Cô cháu gái nhỏ đứng bên, chơi đùa như trẻ con vẫn thế, với những chiếc thìa, dĩa sáng bóng, xếp chúng thành hàng trên mặt gỗ gụ đánh bóng. St. Ange ngồi bên cửa sổ, ghi chép vào sổ tay và cau mày u ám.

Cả nhóm trong phòng ăn vẫn đang mải làm việc khi lão lang thang loạng choạng bước vào, Bertrand sát ngay sau lưng.

Lão đi đến đứng ở cuối bàn, đối diện với chỗ bà Delmandé ngồi, rồi thả chiếc hộp xuống bàn.

Chiếc hộp vỡ toang khi rơi, và từ những mảnh vỡ, vàng tràn ra – lách cách, quay tít, lăn trượt, có đồng như trôi trên dầu; lăn dọc mặt bàn rồi rơi xuống sàn, nhưng phần lớn chất thành đống trước mặt lão.

“Đây là tiền!” lão kêu lên, bàn tay già nua thọc vào đống vàng. “Ai nói St. Ange sẽ không được đi học? Chiến tranh đã kết thúc, đây là tiền! St. Ange, chàng trai của ta,” lão quay sang Bertrand và nói với giọng nhanh gọn, đầy quyền uy, “bảo Buck Williams thắng con Black Bess vào xe ngựa, và đi mời thẩm phán Parkerson đến đây.” Quả đúng là thẩm phán Parkerson, người đã chết hơn hai mươi năm nay!

“Hãy nói với ông ấy rằng… rằng…” bàn tay không vục trong đống vàng đưa lên cái trán héo hắt, “rằng… Bertrand Delmandé cần gặp ông ấy!”

Bà Delmandé, vừa nhìn thấy người đàn ông với chiếc hộp và số vàng ấy, đã kêu lên một tiếng sắc nhọn, như tiếng thét bật ra khi bị dao đâm. Giờ đây bà đang nằm trong vòng tay con trai, thở hổn hển, khàn đặc.

“Cha con, St. Ange, trở về từ cõi chết, cha con!”

“Bình tĩnh lại, mẹ!” người đàn ông van nài. “Ngày ấy mẹ đã có bằng chứng chắc chắn về cái chết của cha trong trận chiến khủng khiếp kia, rất có thể đây không phải là ông.”

“Ta nhận ra ông ấy! Ta nhận ra cha con, con trai của ta!” bà gỡ mình khỏi vòng tay đang giữ chặt, rồi lê người như một con rắn bị thương về phía lão già.

Bàn tay lão vẫn đang cắm trong đống vàng, và trên gương mặt vẫn còn nguyên sắc đỏ bừng khi lão kêu lên tên Bertrand Delmandé.

“Chồng ơi,” bà thở gấp, “ông có nhận ra tôi, vợ ông không?”

Cô bé con thì vui vẻ chơi với những đồng tiền vàng lấp lánh.

Bertrand đứng đó, gần như không còn mạch đập, như một tượng Actæon trẻ bằng đá cẩm thạch.

Khi lão già đã nhìn thật lâu vào gương mặt van nài của người phụ nữ, lão cúi mình chào một cách nhã nhặn.

“Thưa bà,” lão nói, “một người lính già, bị thương trên chiến trường Gettysburg, xin được hưởng lòng hiếu khách của bà cho bản thân mình và hai đứa con nhỏ.”



THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 8 / 2025


Nguồn: https://americanliterature.com/author/kate-chopin/short-story/a-wizard-from-gettysburg/

Aucun commentaire: