jeudi 25 février 2021

CÂU CHUYỆN CỦA MỘT GIỜ

   


Truyện ngắn


Kate Chopin

Nhà văn Hoa Kỳ

( 1850 - 1904 )



 



Catherine O' Flaherty sinh năm 1850 tại Saint - Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hoá, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh. Theo học bậc tiểu học và trung học tại một trường công giáo với các nữ tu. Ở nhà, được nuôi dạy bởi mẹ, bà, và bà cố. Sự giao tiếp thường xuyên với những người phụ nữ ở chung quanh giúp cô bé sớm có nhận xét về vai trò của phái nữ trong gia đình và xã hội, định hình cho những ý tưởng và quan niệm cá nhân của nhà văn tương lai.


Kate Chopin ( Kate là Catherine, Chopin là họ chồng ) chịu nhiều đau thương mất mát ngay khi còn nhỏ. Cha chết vì tai nạn đường sắt khi mới lên năm (1855), bà cố, người đã dạy cho cô tiếng Pháp và văn hoá Pháp, qua đời năm 1863. Trong thời Nội chiến Hoa Kỳ ( 1861 - 1865 ), cô lại mất thêm người anh ( tham gia đội quân của Liên minh miền Nam - Confederate - ).

Kate Chopin kết hôn năm 1870 với Oscar Chopin, một thương gia chuyên buôn bán bông vải, và cũng là người gốc Pháp ).Từ năm 1871 đến 1879, Kate Chopin sinh được 5 trai và 1 gái, và số phận rủi ro vẫn không buông tha, Kate lại chịu tang chồng năm 1882, chỉ sau mười hai năm chung sống. Trở thành quả phụ năm 32 tuổi, Kate Chopin vừa nuôi con, vừa tiếp tục công việc của chồng, và không tái giá. 

Đây là chân dung Kate Chopin giai đoạn này, như ghi nhận của nhà phê bình Barbara Ewell: 


" Kate là một người khá nổi bật và quyến rũ. Không cao lắm, có khuynh hướng mập ra, thực sự xinh đẹp, mái tóc nâu dày, dợn sóng, sớm điểm bạc, đôi mắt nâu sáng trong. Bạn bè nhớ nhiều nhất là thói quen im lặng và sự nhanh trí kiểu Ái Nhĩ Lan, thêm điểm nhấn là biệt tài bắt chước. Một bà chủ nhà duyên dáng, dễ tính, thích cười, thích âm nhạc và khiêu vũ, đặc biệt là kiểu nói chuyện thông minh, bà có thể diễn đạt quan điểm cá nhân với sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên."


Sau khi chồng chết không lâu, Kate Chopin trở về sống tại St- Louis để con cái có điều kiện học hành tốt hơn. Năm 1885, đến lượt mẹ Kate Chopin qua đời.


Một bác sĩ sản khoa, cũng là bạn thân của gia đình, khuyến khích Kate viết văn, như là một liệu pháp chống buồn nản và cô đơn sau khi chồng và mẹ lần lượt đi xa.  Nghe theo lời khuyên, Kate bắt đầu cầm bút và truyện ngắn đầu tiên của bà đã được đăng trên tờ St Louis Post Dispatch năm 1889, và một năm sau, bà hoàn thành cuốn tiểu thuyết At Fault.


Hơn mười năm tiếp sau đó, Kate Chopin vừa duy trì hoạt động xã hội, vừa không ngừng sáng tác, hoàn thành được trên dưới một trăm truyện ngắn. Truyện ngắn của Kate Chopin được công bố trên những tạp chí nổi tiếng như Vogue và Atlantic Monthly. Hai tuyển tập lần lượt ra mắt: Bayou Folk, 23 truyện (1894), A Night in Acadie, 21 truyện (1897). Giới phê bình có người cho là truyện chỉ có tính địa phương, chỉ phản ảnh những sinh hoạt tại vùng Louisiana và Missouri.  Đến năm 1899, bà cho xuất bản cuốn The Awakening ( Tỉnh  thức ), thu hút nhiều nhận định đánh giá trái ngược nhau. Một vài nhà phê bình khen ngợi tính nghệ thuật của tác phẩm, nhưng cũng không ít người cho là " nhàm chán ", " tầm thường", " không lành mạnh ",  thậm chí "  độc hại ". Tất cả chỉ vì Kate Chopin là người phụ nữ " đi trước thời đại ", thông qua các nhân vật của mình, bà đã bày tỏ quan niệm ( và phản ứng ) về gia đình, hôn nhân, ly dị, ngoại tình, nữ quyền, chống lại lề thói cổ truyền ( tradition ) và quyền hành ( authority ). ( Mà đâu chỉ trong tác phẩm, ngay trong sinh hoạt đời thường, Kate Chopin cũng tỏ ra " tiên phong " đấy chứ: thời còn sống tại New Orleans hay khi về một thị trấn nhỏ ở St- Louis, bà đã làm mọi người ngạc nhiên khi đi dạo một mình, hút thuốc, ăn mặc kiểu cách và cỡi ngựa hai chân hai bên. ) 


Kate Chopin qua đời đột ngột năm 1904, xuất huyết não. 

Trong một thời gian dài, tác giả và tác phẩm bị lãng quên, ngoại trừ một số rất ít truyện được giới thiệu trong các tuyển tập xuất bản mấy năm sau khi tác giả qua đời.


Sự lãng quên ( bất công và đau đớn ) này kéo dài tới gần ... 70 năm, mãi cho đến năm 1969, khi nhà phê bình người Na Uy, Per Seyersted viết cuốn chuyên luận về tiểu sử của Kate Chopin với nhận định: 

" ( Kate Chopin ) là nhà văn nữ đầu tiên trên đất nước mình nhìn nhận đam mê như là một chủ đề chính thống của tiểu thuyết nghiêm túc, công khai. Chống lại lề thói cổ truyền và quyền hành, với một sự táo bạo mà ngày nay chúng ta khó khăn mới thấu hiểu, với sự thành thực cương quyết, không có chút gì kích động, bà đảm đương việc nói lên sự thật không che đậy về mặt khuất của đời sống người phụ nữ. Bà như là người tiên phong đề cập thẳng thắn những vấn đề dục tính, ly dị, và sự thôi thúc của giới nữ mong muốn tồn tại thực sự. Trong nhiều khía cạnh, bà là một nhà văn hiện đại, nổi bật về nhận thức những phức tạp của  sự thật và tính đa dạng của tự do."


Phong trào nữ quyền ở Mỹ phát triển ngày càng mạnh từ những năm 1960 tạo thuận lợi cho việc đánh giá về tài năng và cống hiến của Kate Chopin. Tác phẩm của bà được tái bản và giới thiệu trở lại.


Truyện ngắn Cơn bão ( the Storm ) được viết năm 1898 nhưng tác giả không thể công bố ngay vì bà biết không nơi nào chịu in một truyện đề cập thẳng thắn và thẳng thừng về tình dục như truyện này. ( lần đầu tiên truyện xuất hiện trong The Complete Works of Kate Chopin, in năm 1969,  tức là gần 70 năm sau khi ra đời! ).


Thông thạo tiếng Pháp, thấm nhuần văn hoá Pháp, lúc sáng tác, Kate Chopin chịu nhiều ảnh hưởng của nhà văn Maupassant. Ở bậc thầy của thể loại truyện ngắn này, Kate Chopin nhận ra văn chương không phải chỉ là hư cấu, mà là chính cuộc sống, với những con người đang sống quanh ta. Nhà văn quan sát và ghi lại, trực tiếp và đơn giản, những gì mình nhìn thấy. Cũng như nhà văn Pháp, Kate Chopin thường viết lại, như kiểu ghi âm, những lời đối đáp của nhân vật với câu chữ, ngữ điệu nguyên thô, để người đọc tưởng mình đang nghe trực tiếp. Hãy thử đọc đoạn này, trích trong truyện Regret ( Nuối tiếc ) để thấy điều đó:


" T ain' ispected sich as you would know airy thing 'bout 'em, Mamzelle Aurlie. I see dat plainly yistiddy w'en I spy dat li'le chile playin' wid yo' baskit o' keys. You don' know dat makes chillun grow up hard-headed, to play wid keys? Des like it make 'em teeth hard to look in a lookin'-glass. Them's the things you got to know in the raisin' an' manigement o' chillun."


Một đặc trưng khác của Maupassant - mà Kate Chopin học tập - là cách kết cấu truyện ngắn, câu chuyện diễn tiến theo tâm lý nhân vật, tình tiết đan xen, và bỗng xoay sang một kết cuộc bất ngờ, tạo ngạc nhiên thú vị cho người đọc. Thủ pháp này biểu lộ rõ với truyện The Story of an hour ( Câu chuyện một giờ ), một trong những truyện ngắn hay nhất của Kate Chopin, được giới thiệu dưới đây. 


Có tin chồng của Louise bị tai nạn chết. Biết nàng bị bệnh tim nên người thân và bạn bè tìm cách báo tin khéo léo, tránh xúc động đột ngột. Ban đầu, nàng cũng đau đớn, vật vã khóc than, rồi rút về ngồi một mình trong phòng riêng. Nơi đây, khi bình tâm nhìn khung cảnh bên ngoài, dường như nỗi đau dần nguôi ngoai. Nàng quan sát những cảnh trí quen thuộc, mây bay, trời trong, cây xanh, mưa nhẹ hạt, nàng lắng nghe những âm thanh quen thuộc, tiếng rao hàng, tiếng nhạc, tiếng chim hót... Thế là một cảm giác lạ lùng, hân hoan, phấn khởi xâm nhập tâm hồn nàng. Nàng buột miệng nói: Tự do, tự do... và thanh thản nghĩ về tháng ngày dài phía trước. Nàng sẽ được tự do sống với sở thích và ước muốn của riêng mình.


Đến đây " câu chuyện một giờ " tưởng chừng kết thúc được rồi. Nhưng...

Ngay lúc này anh chồng bước vào: anh vẫn còn sống, vì trễ tàu! Khi nhìn thấy chồng trở về, Louise lăn ra chết. Bác sĩ kết luận nàng chết vì bệnh tim, vì quá vui mừng. 

 

Câu chuyện kết thúc quá bất ngờ, để cho người đọc tiếp tục suy nghĩ: có phải thực sự Louise quá vui mừng mà chết không. Và từ đó mà bàn thêm những điều tác giả không nói, tình yêu giữa hai vợ chồng chẳng hạn...


Hiện nay, Kate Chopin được xem là một khuôn mặt lớn trong nền văn học Mỹ. Tác phẩm của bà đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng, kể cả tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Trung, tiếng Mã Lai, tiếng Á Rập... và tiếng Việt.




**************

Vốn biết bà Mallard bị đau tim, mọi người hết sức cẩn thận và dè dặt lúc báo cho nàng tin chồng nàng đã chết. Chính em gái Josephine đã ngập ngừng bằng những câu đứt quãng, lờ mờ tiết lộ tin. Người bạn của chồng nàng, Richards, cũng ở đó, gần cô ta. Chính anh ta là người đã có mặt tại toà soạn khi nhận tin tức về thảm hoạ đường sắt, với tên của Brentley Mallard đứng đầu danh sách những người tử vong. Anh ta chỉ có đủ thời gian để tự mình xác minh sự thật bằng một bức điện thứ hai, rồi vội vã ngăn trước bất kỳ người bạn nào ít cẩn trọng, ít tế nhị hơn đến đưa tin buồn.

Nàng không nghe câu chuyện như cách nhiều phụ nữ khác có thể nghe những tin kiểu như thế, bị tê liệt đến độ không hiểu ý nghĩa của nó. Nàng bật khóc, bất giác gục xuống trong vòng tay của em gái. Khi những phút đau buồn dịu đi, nàng bước một mình về phòng riêng. Nàng không muốn có ai đi cùng. Nàng đứng đó, mặt hướng ra cửa sổ mở rộng, cạnh một chiếc ghế bành rộng rãi, thoải mái. Nàng buông mình xuống ghế, chìm đắm trong sự kiệt quệ của thể xác và dường như của cả tâm hồn.

Nàng có thể thấy trong khoảng không gian vuông vắn trước nhà những ngọn cây lay động trong tiết xuân mới. Hơi mưa mát dịu trong không khí. Trên con đường bên dưới một người bán rong đang rao hàng. Các giai điệu của một bài hát xa xôi mơ hồ vọng đến tai nàng, rất nhiều chim sẻ đang hót vang dưới mái hiên.

Nàng ngồi tựa đầu lên đệm ghế, hoàn toàn bất động, ngoại trừ khi tiếng nức nở thoát ra từ cổ họng khiến nàng run lên, như một đứa trẻ đã khóc đến khi thiếp đi mà vẫn nức nở cả trong giấc mơ.

Nàng còn trẻ, với khuôn mặt bình thản, xinh đẹp và những đường nét toát lên vẻ cam chịu, thậm chí sự vững vàng của nghị lực. Nhưng giờ đây, ánh mắt của nàng đờ đẫn, nhìn đăm đăm một điểm cố định nào đó trên mảnh trời xanh. Đó không phải là cái nhìn phản ảnh cuộc sống, mà là một sự ngưng đọng về suy nghĩ thông minh.

Có một cái gì đó đang đến với nàng, và nàng đang đợi nó trong sợ hãi. Là điều gì? 

Nàng không biết, nó quá tinh tế, khó mà gọi tên. Nhưng nàng cảm nhận được nó đang trườn ra từ bầu trời, đến tận bên nàng qua âm thanh, mùi hương, màu sắc ngập tràn không khí. 

Bây giờ lồng ngực của nàng đập mạnh. Nàng bắt đầu nhận ra nó , cái đang tới gần chiếm lĩnh tâm trí nàng và nàng đang cố gắng chống chọi bằng ý chí, bằng đôi tay yếu ớt trắng nhợt.

Khi nàng không kiềm chế được nữa, một tiếng thì thầm bất chợt thoát ra đôi môi hé mở. Nàng  thốt ra nhiều lần trong hơi thở: “ Tự do, tự do, tự do! “. Ánh mắt trống rỗng và cái nhìn sợ hãi từ đôi mắt nàng ra theo âm thanh đó. Tia nhìn vẫn sắc sảo, sáng rực. Tim nàng đập nhanh khiến cơ thể ấm dần lên và dễ chịu hơn.


Nàng vẫn không ngừng lại để tự hỏi phải chăng một niềm vui quá lớn đã khiến nàng choáng ngợp. Một cảm nhận rõ nét và phấn khích khiến nàng không thể xem cảm giác này là bé nhỏ. Nàng biết rằng nàng sẽ khóc lần nữa khi nàng nhìn thấy đôi tay dịu dàng, thân thiết đang nắm lại khi lìa trần, khuôn mặt từng nhìn nàng chan chứa tình yêu, giờ bất động, xám lạnh, chết chóc. Nhưng nàng đã nhìn xa hơn, vượt qua cái khoảnh khắc đau đớn đó, thấy hiện ra một khoảng thời gian dài sắp tới sẽ hoàn toàn thuộc về nàng. Và nàng dang tay đón chào khoảng thời gian đó.

Sẽ không sống cho ai khác trong những năm tới, mà chỉ sống cho chính mình. Sẽ không có quyền lực nào khuất phục được nàng trong sự ngoan cố mù quáng mà với sự chiếm giữ đó đàn ông và phụ nữ ngỡ là họ có quyền áp đặt ý chí riêng của một cá nhân cho một cá nhân khác. Một ý định tốt hoặc xấu khiến hành động này dường như không khác gì một tội ác như nàng đã nhìn thấy trong thời khắc bừng tĩnh đó.


Liệu lâu nay nàng có yêu chồng? Có đôi lúc. Thường thì không phải là tình yêu. Nhưng điều đó nào có hề chi? Tình yêu bí ẩn chưa được giải mã, có gì quan trọng khi nàng chợt nhận ra động lực mạnh nhất của nàng chính là sự tự khẳng định!

Nàng tiếp tục thì thầm: “ Tự do! Thể xác và tâm hồn được tự do!”


Josephine đang quỳ gối trước cánh cửa đóng kín với đôi môi áp vào lỗ khoá, xin được vào phòng. “ Louise, mở cửa đi, em van chị mở cửa ra. Chị sẽ tự làm mình  bệnh mất thôi! Chị đang làm gì vậy? Vì Chúa, xin mở cửa ra! “ 

“ Em đi đi, chị không làm mình bệnh đâu mà sợ. “ Không, nàng đã uống một loại thuốc tiên kỳ diệu của cuộc sống từ cánh cửa mở rộng.

Trí tưởng tượng của nàng đang bềnh bồng với những ngày tháng sắp tới. Mùa xuân, mùa hè, tất cả mọi ngày đều sẽ thuộc về nàng. Nàng thốt nhanh một lời cầu nguyện mong cho cuộc sống kéo dài. Chỉ mới hôm qua nàng đã sợ hãi nghĩ là cuộc sống có thể lâu dài.


Cuối cùng nàng cũng đứng dậy mở cửa trước sự van nài của em gái. Có một vẻ đắc thắng trong ánh mắt của nàng, nàng bước đi tự nhiên như một nữ thần Chiến thắng. Nàng ôm em siết chặt và họ cùng nhau bước xuống cầu thang. Richards đang đợi họ ở phía dưới. 


Có ai đó đang dùng chìa khoá mở cửa. Chính là Brentley Mallard, người vừa bước vào, thân hình còn nhuốm bụi đường, ung dung xách chiếc va li du lịch và chiếc dù. Lúc xảy ra tai nạn anh ở cách xa nơi đó và cũng chẳng hề biết là có tai nạn. Anh đứng ngẩn người ngạc nhiên trước tiếng khóc xé lòng của Josephine, và Richards vội bước nhanh để che anh ta khỏi tầm nhìn của vợ.


Khi các bác sĩ đến, họ nói rằng nàng đã chết vì cơn đau tim - chết vì quá vui.



THÂN TRỌNG SƠN

dịch và giới thiệu 

từ nguyên bản tiếng Anh

( 12/2020)



( https://americanliterature.com/author/kate-chopin/short-story/the-story-of-an-hour)