mercredi 30 août 2023

NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ CON MÈO

 




Truyện ngắn

MARCEL PRÉVOST

Nhà văn Pháp 

( 1862 - 1941 ).

 



         Marcel Prévost sinh năm 1862 tại Paris, theo học trường dòng tại Bordeaux và đại học Bách  Khoa ở Paris. Sau khi tốt nghiệp được vài năm, ông áp dụng kiến thức khoa học đã thu nhận để mở xí nghiệp thuốc lá.

             Nhưng ông sớm từ bỏ tất cả để chuyên chú việc viết lách. Từ năm 1887, ông cho ra đời một loạt tác phẩm cho đến năm 1893. Và bất ngờ qua năm 1894, ông công bố công trình nghiên cứu về tác dụng của giáo dục và xã hội Paris đối với giới trẻ. Đến 1904, ông lại thử sức mình với vở kịch bốn hồi La plus faible được trình diễn tại Nhà hát kịch Pháp ( Comédie française ).

    Năm 1909, ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp .

    Ông qua đời năm 1941.

    Truyện ngắn giới thiệu dưới đây, phảng phất phong vị liêu trai, chuyện mờ mờ ảo ảo, được xem như một trong những truyện hay nhất của ông.


****


“ Vâng”, lời ông bạn già Tribourdeaux của tôi, một con người văn hoá và một triết gia, sự kết hợp hiếm khi thấy ở những bác sĩ quân y chuyên phẫu thuật, “ vâng, điều siêu nhiên nơi nào cũng có, nó ở quanh chúng ta, vây quanh ta và ngấm vào ta. Nếu khoa học tìm kiếm nó, nó vụt qua, không giữ được. Khả năng hiểu biết của chúng ta cũng  giống như tổ tiên chúng ta khai phá vài mẫu rừng, khi nào họ đến gần giới hạn khai phá hết thì họ lại nghe tiếng gầm gừ và nhìn thấy những đôi mắt lấp loáng ở xung quanh. Chính tôi đã có cái cảm giác đạt tới những giới hạn của điều không biết nhiều lần trong đời, và vào một dịp đặc biệt.”

    Một nàng trẻ tuổi có mặt ở đó ngắt lời ông:

    “ Thưa bác sĩ, ông đang muốn kể cho chúng tôi một câu chuyện. Xin bắt đầu đi!”

    Vị bác sĩ cúi thấp đầu:

    “ Không, tôi xin thưa thật tôi không phải là không lo. Tôi càng ít kể câu chuyện này thì càng tốt. Vì nó sẽ ám ảnh những người nghe nó, và cũng làm tôi bấn loạn luôn. Tuy vậy, nếu cô thích, thì chuyện như thế này:


      “ Năm 1863, khi tôi còn là y sĩ trẻ làm việc ở Orléans. Thành phố thượng lưu ấy đầy những ngôi nhà cổ kiểu quý tộc, thật khó mà tìm được những căn hộ dành cho người độc thân, và, do tôi thích cả không khí lẫn không gian thoáng đãng, tôi chọn chỗ ở của mình ở tầng một của một toà nhà lớn ở ngay rìa thành phố, gần Saint-Euverte. Ban đầu nó được xây dựng vừa làm kho chứa hàng vừa làm chỗ ở cho một nhà sản xuất thảm. Trong giai đoạn đó thì nhà sản xuất này thất bại, và toà nhà lớn ông ấy xây dựng không được sửa chữa vì thiếu người thuê, đã được bán với toàn bộ nội thất với giá rẻ mạt. Người mua hy vọng mua nhà này sẽ sinh lợi về sau vì thành phố đang phát triển ra hướng đó, và thực tế là tôi tin rằng hiện giờ toà nhà đã nằm trong quy hoạch của thành phố. Tuy nhiên, khi tôi thuê một chỗ ở đó, toà nhà còn đơn độc ở ven một miền quê thoáng đãng, cuối một con đường ngoằn nghèo có vài ngôi nhà rải rác vào lúc chạng vạng tạo ra ấn tượng đó là một cái hàm đã rụng hết răng.

    Tôi thuê một nửa tầng một, là một phần toà nhà gồm 4 phòng. Tôi lấy hai phòng mặt tiền làm phòng ngủ và phòng làm việc, phòng thứ ba tôi để mấy cái kệ, tủ quần áo, còn phòng kia tôi để trống. Chỗ này thành nơi cư trú rất thoải mái đối với tôi, và tôi có một bao lơn rộng chạy suốt mặt tiền toà nhà làm chỗ dạo chơi, hay nói đúng hơn, là một nửa bao lơn đó, vì toà nhà được chia làm hai phần ( xin cẩn thận chú ý chi tiết này ) bằng một hàng rào song sắt, nhưng người ta vẫn có thể leo qua dễ dàng,

    Tôi sống ở đó chừng hai tháng thì vào một đêm tháng bảy, khi trở về nhà, tôi ngạc nhiên thấy có ánh sáng nơi những cửa sổ của phần nhà bên kia, cùng một tầng này, nơi mà lâu nay tôi vẫn nghĩ là không có người ở. Tác động của ánh sáng này thật lạ lùng, nó chiếu sáng nhiều phần của bao lơn, con đường bên dưới, và một ít diện tích kế cận.

    Tôi tự nhủ: A ha, mình có hàng xóm rồi.

    Thực sự, ý nghĩ này không phải hoàn toàn được tán thành, vì tôi đã từng tự hào về sự cư ngụ độc nhất của tôi. Trước khi về phòng ngủ tôi lặng lẽ đi ra bao lơn, nhưng nguồn sáng ở ngoài đã tắt mất rồi. Vậy là tôi quay về phòng, ngồi đọc sách, chừng một hay hai tiếng đồng hồ. Thỉnh thoảng, tôi mơ hồ nghe được tiếng chân bước nhẹ, dù tôi đang ngồi trong bốn bức tường, nhưng sau khi đọc sách xong, tôi đi ngủ, và chìm vào giấc ngủ khá nhanh.

   Khoảng nửa đêm, tôi bừng tỉnh giấc, vì có cảm giác lạ lùng là có gì đó đang đứng bên cạnh tôi, tôi ngồi dậy trên giường, thắp cây nến, và đây là những gì tôi thấy. Ở giữa phòng là một con mèo rất to đang nhìn tôi bằng đôi mắt sáng ánh lân tinh, lưng hơi cong lên. Đây là mèo giống Angora lớn, lông dài, đuôi phủ lông tơ, có một màu khác thường - chính xác là giống màu lụa vàng mà người ta thấy trong những cái kén - vì vậy khi ánh sáng toả trên lớp lông của nó, con vật dường như làm bằng vàng.

    Nó chầm chậm bước về phía tôi bằng bốn chân mềm như nhung, dịu dàng cọ tấm thân dợn sóng của nó vào chân tôi. Tôi vói tay xoa xoa nó, nó chấp nhận sự ve vuốt , gừ gừ, và cuối cùng nhảy lên đầu gối của tôi. Lúc này tôi nhận ra nó là một con mèo cái, còn tơ lắm, và dường như nó sẵn lòng để tôi vuốt ve bao lâu tuỳ ý. Nhưng sau rốt tôi đặt nó xuống trên sàn nhà, và cố dỗ nó ra khỏi phòng, nhưng nó phóng đi trốn giữa những đồ đạc trong phòng, tuy nhiên sau khi tôi thổi tắt đèn, nó lại nhảy lên giường tôi. Đang ngái ngủ, tôi chẳng buồn đụng đến nó, mà chập chờn ngủ ngay, và sáng hôm sau khi tôi thức dậy trong ánh sáng ban mai rạng rỡ, tôi chẳng còn thấy chút dấu vết nào của con vật nữa.

    Thật sự, bộ óc con người là một công cụ tinh vi và dễ bị rối loạn. Trước khi tôi kể tiếp, quý vị hãy tóm tắt lại các dữ kiện mà tôi đã đề cập: một nguồn sáng được nhìn thấy, và tắt ngấm ngay trong một phần nhà được cho là không có người ở, và một con mèo với màu lông lạ thường, xuất hiện và biến mất một cách có phần bí ẩn. Cho đến đây thì không có gì lạ lùng cả, phải không ? Hay lắm. Bây giờ hãy tưởng tượng rằng những sự kiện không quan trọng đó được lặp lại ngày này qua ngày khác cũng y như vậy suốt một tuần lễ, và rồi, xin hãy tin tôi, chúng trở nên quan trọng đủ để gây ấn tượng với bộ óc của một người đàn ông đang sống một mình, và tạo ra nơi anh ta một sự băn khoăn lo lắng như tôi nói lúc đầu câu chuyện , cũng như luôn luôn tạo ra sự lo âu khi người ta tiếp cận với điều chưa từng biết. Trí tuệ con người được cấu tạo để luôn ứng dụng một cách vô thức cái nguyên tắc cần và đủ. Với một loạt sự kiện giống nhau, nó đòi hỏi một nguyên nhân , một quy luật, và một nỗi lo ngại mơ hồ chế ngự nó  không thể đoán ra nguyên nhân và lần ra quy luật này.

    Tôi không hèn nhát, nhưng tôi đã từng nghiên cứu về sự biểu lộ nỗi sợ hãi nơi người khác, từ hình thức sợ hãi non nớt nhất ở trẻ con cho đến tình huống bi kịch nhất nơi những người điên. Tôi biết rằng sự sợ hãi được nuôi dưỡng bởi những điều không minh bạch, nhưng khi người ta quyết định tìm hiểu nguyên nhân, nỗi sợ hãi này thường biến thành sự tò mò đơn giản.

    Vì thế tôi quyết định tìm cho ra sự thật.Tôi hỏi người giao hàng cho tôi, và thấy rằng anh ta chẳng biết gì về những người hàng xóm của tôi. Mỗi buổi sáng, một bà già đến dọn dẹp phần nhà bên đó, người giao hàng của tôi cố hỏi bà ta, nhưng hoặc bà điếc hoặc bà không muốn cung cấp cho anh thông tin gì, nên bà ta không hề hé răng nói một lời nào. Tuy nhiên, tôi có thể giải thích thoả đáng điểm đầu tiên mà tôi đã thấy - đó là sự biến mất đột ngột nguồn sáng khi tôi vào nhà. Tôi đã thấy các cửa sổ kế bên cửa sổ nhà tôi chỉ được che màn vải đăng ten dài, và vì hai bao  lơn liền kề, nên người hàng xóm của tôi, không biết là nam hay nữ, rõ ràng là muốn ngăn chặn bất kỳ sự tò mò nào về phía tôi, và vì thế đã luôn luôn tắt đèn khi nghe tiếng tôi về. Để kiểm tra lại giả thiết này, tôi đã làm một thử nghiệm rất đơn giản mà hoàn toàn thành công. Một hôm, tôi cho người đem đến cho tôi một bữa ăn nguội vào buổi trưa, và buổi chiều tôi không ra khỏi nhà. Khi trời tối, tôi chọn một chỗ ngồi gần cửa sổ. Rồi tôi thấy bao lơn sáng lên do ánh sáng chiếu qua các cửa sổ của nhà hàng xóm. Tôi lập tức  lặng lẽ lẻn ra bao lơn, và nhẹ nhàng leo qua hàng rào cửa sắt ngăn hai phần toà nhà. Mặc dù tôi biết là có thể gặp nguy hiểm, hoặc là té gãy cổ, hoặc là giáp mặt với một người đàn ông, tôi vẫn không thấy lo ngại gì. Khi đến chỗ cửa sổ sáng đèn mà không gây ra tiếng động nhỏ nào, tôi thấy cửa mở một phần. Màn cửa, đối với tôi là hoàn toàn trong suốt vì tôi ở phía tối của cửa sổ, lại làm tôi không thể bị bất kỳ ai nhìn thấy khi nhìn về phía cửa sổ từ bên trong gian phòng.

     Tôi thấy một gian phòng lớn được trang bị khá lịch sự, dù rõ ràng là không được sửa sang, và được chiếu sáng bởi một ngọn đèn treo trên trần. Ở cuối phòng là một chiếc ghế xô pha thấp, trên đó có một người phụ nữ đang ngồi, mà tôi cho là vừa trẻ vừa đẹp. Nàng xoã mái tóc vàng óng buông xuống bờ vai. Nàng đang soi mình bằng chiếc gương cầm tay, tự chiêm ngưỡng mình, cánh tay đưa lên trên làn môi, và uốn quanh cơ thể mềm mại với một vẻ duyên dáng lạ lùng của loài mèo. Mỗi cử động của nàng làm cho mái tóc dài lay động như sóng dập dờn loang loáng.

    Khi tôi nhìn nàng tôi thừa nhận rằng tôi hơi chút bối rối, đặc biệt là khi bất ngờ đôi mắt của nàng đăm đắm nhìn tôi - đôi mắt lạ lùng có màu xanh lân tinh ánh lên như lửa đèn. Tôi chắc chắn rằng mình không bị nhìn thấy, vì ở phía tối của khung cửa sổ có treo màn. Đơn giản là vậy, nhưng tôi lại cảm thấy là tôi bị nhìn thấy. Cô gái, thực sự đã phát ra một tiếng kêu, rồi quay đi và vùi mặt vào mấy cái gối của ghế xô pha.

    Tôi băng qua cửa sổ tiến đến ghế xô pha, cúi mình trên khuôn mặt nàng đang che giấu. Khi tôi làm thế, tôi thực sự cảm thấy rất hối hận, tôi bắt đầu xin lỗi và trách cứ mình bằng đủ loại tên, và xin lỗi về sự đường đột của mình. Tôi nói rằng tôi đáng bị đuổi đi không được nhìn nàng, nhưng xin đừng đuổi tôi đi mà không có một lời tha thứ. Trong một hồi lâu tôi van xin như thế mà không thành công, nhưng cuối cùng nàng chầm chậm quay lại, và tôi thấy khuôn mặt khá trẻ của nàng dường như xao động với một nụ cười thoảng qua. Khi nàng nhìn tôi, nàng thì thầm những lời lúc ấy tôi hoàn toàn không hiểu được.

    “ Chính là anh”, nàng kêu lên, “ chính là anh “.

    Trong khi nàng nói và tôi nhìn nàng, tôi không biết phải trả lời thế nào vì tôi cứ suy nghĩ miên man, tôi đã thấy khuôn mặt này, cái nhìn này, phong thái này ở đâu? Nhưng rồi tôi cũng nói thành lời, và sau khi nói thêm vài lời xin lỗi về sự tò mò vô lối của tôi, tôi nhận được sự trả lời ngắn gọn nhưng không phản kháng, tôi rời nàng, rút lui qua lối cửa sổ mà tôi đã vào, để trở về phòng mình. Về đến phòng, tôi ngồi một hồi lâu bên cửa sổ trong bóng tối, bị mê hoặc bởi khuôn mặt mà tôi đã nhìn thấy, lòng lo lắng khác thường.

    Người phụ nữ này quá đẹp, quá dễ thương, sống gần tôi, nói với tôi “ Chính là anh “ , cứ như thể nàng đã quen tôi, nàng nói quá ít, trả lời mọi câu hỏi của tôi với sự lảng tránh, gợi lên trong tôi cảm giác sợ hãi. Nàng đã nói với tôi tên nàng : Linda, và chỉ có thế. Tôi cố gắng trong vô vọng quên đi đôi mắt xanh của nàng, mà trong bóng tối dường như chiếu về tôi, và quên cả ánh lấp lánh, như ánh loé của tia lửa điện, sáng lên nơi mái tóc dài của nàng mỗi khi nàng nâng niu nó trong tay. Tuy nhiên, cuối cùng tôi đi ngủ; nhưng vừa đặt đầu xuống gối thì tôi cảm thấy một cơ thể ở dưới chân tôi. Con mèo lại xuất hiện. Tôi cố xua nó đi, nhưng nó cứ quay lại, cho tới khi tôi bỏ mặc sự hiện diện của nó. Và y như trước, tôi thiếp ngủ với người bạn lạ lùng này bên cạnh tôi. Nhưng lần này giấc ngủ không yên, bị phá vỡ bởi những cơn mơ chập chờn và lạ lùng.

     Quý vị đã bao giờ nghiệm thấy một loại ám ảnh tinh thần dần dần làm cho não bộ bị chế ngự bởi một ý tưởng lạ lùng độc nhất - một ý tưởng gần như điên khùng, cái ý tưởng mà lý trí và ý chí của quý vị, bám chặt vào trí óc của quý vị, và cứ phát triển mãi? Tôi đau đớn chịu đựng theo cách này vào những ngày tiếp theo cuộc phiêu lưu lạ lùng của tôi. Không có gì mới xảy ra, nhưng tối đến, khi ra ngoài bao lơn, tôi thấy Linda đứng bên phần nhà nàng, bên kia hàng rào sắt. Chúng tôi trò chuyện một lúc trong ánh sáng lờ mờ, và như trước đó, tôi trở về phòng mình để chốc lát sau lại thấy con mèo vàng xuất hiện, nhảy lên giường tôi, làm một tổ ấm cho mình ở đó, và ở lại cho đến sáng. Giờ thì tôi biết con mèo đó thuộc về ai, vì Linda đã trả lời ngay tối hôm đó khi tôi nhắc về nó, “ ồ phải, con mèo của em, có phải nó giống như làm bằng vàng không? “ Như tôi nói, không có gì mới xảy ra, tuy vậy một nỗi kinh hoàng mơ hồ từng chút từng chút một chế ngự tôi và tự phát triển trong trí tôi, mới đầu chỉ là một chút tưởng tượng ngớ ngẩn, và rồi trở thành một niềm tin ám ảnh thống lĩnh toàn bộ ý nghĩ của tôi, làm tôi thường xuyên nghĩ mình đã thấy được một chuyện mà trong đời thực hoàn toàn không thể nào thấy được.

      “ Có gì đâu, cũng dễ đoán ra thôi mà “, cô nàng trẻ tuổi người đã lên tiếng ở đầu câu chuyện ngắt lời. “ Linda và con mèo là một”.

       Ông Tribourdeaux mỉm cười. 

     “ Tôi không dám khẳng định như thế. “, ông nói, “ ngay cả hồi đó. Nhưng tôi không thể phủ nhận rằng sự tưởng tượng lố bịch này ám ảnh tôi nhiều giờ khi tôi đang cố chợp mắt giữa cơn mất ngủ vì một não bộ quá hoạt động gây ra. 

   Vâng, có những lúc hai sinh thể có mắt xanh này, cử động uyển chuyển này, tóc và lông vàng, đối với tôi dường như hoà thành một, là hai sự hiển thị của một thực thể. Như tôi đã nói, tôi thường thấy Linda, nhưng bất chấp những nỗ lực của tôi để bất ngờ gặp được nàng, tôi chưa hề thấy cả hai cùng lúc. Tôi cố lý giải, tự thuyết phục mình rằng thực sự không có gì không thể giải thích trong chuyện này, và tôi tự chế nhạo mình vì sợ cả một người phụ nữ lẫn con mèo vô hại. Sự thật là sau khi lý luận, tôi thấy rằng tôi không sợ nhiều lắm về một con vật độc nhất hay một người phụ nữ độc nhất, mà đúng hơn là sợ những gì tồn tại trong tưởng tượng của tôi và làm cho tôi sợ một điều gì đó vô hình - nỗi sợ về một ý tưởng mơ hồ, mà thực sự là điều tệ hại nhất trong mọi nỗi sợ hãi.

    Tôi bắt đầu bị rối loạn thần kinh. Sau nhiều buổi tối dài tâm sự và rất trái với lệ thường cùng Linda, qua đó dần dần cảm xúc của tôi nhuốm màu tình yêu, tôi trải qua những ngày dài dằn vặt, như tâm trạng những người chớm điên phải trải qua. Dần dần một quyết tâm bắt đầu hình thành trong trí tôi, một nỗi ham muốn càng lúc càng thúc bách đòi hỏi một giải pháp cho sự nghi ngờ dằn vặt không dứt này. Và tôi càng quan tâm đến Linda thì càng cảm thấy hoàn toàn cần thiết hoàn thành quyết tâm này. Tôi quyết định giết con mèo.

      Một buổi tối, trước khi gặp Linda ngoài bao lơn, tôi lấy từ tủ thuốc của tôi một lọ 

glycérine và một chai nhỏ axit hydrocyanic cùng một que thuỷ tinh mà các nhà hoá học dùng để trộn những chất ăn mòn. Tối đó, lần đầu tiên Linda cho phép tôi vuốt ve nàng. Tôi ôm nàng trong vòng tay và lướt tay tôi trên mái tóc dài của nàng, mái tóc có tiếng lách tách với nhiều tia lấp lánh dưới bàn tay vuốt ve của tôi. Ngay khi tôi trở lại phòng mình thì con mèo vàng, như lệ thường, xuất hiện trước mặt tôi. Tôi gọi nó đến với tôi, nó cọ mình vào tôi với cái lưng uốn cong và cái đuôi vươn dài, gừ gừ thật dễ thương. Tôi cầm cái que thuỷ tinh trong tay, châm đầu que vào glycérine, rồi chìa nó cho con mèo, con vật liếm que bằng cái lưỡi dài và đỏ. Tôi làm như vậy ba bốn lần, nhưng sau đó thì nhúng que vào axit. Con mèo chẳng chút do dự dùng lưỡi liếm que. Ngay tức khắc, nó trở nên cứng nhắc, và một lúc sau, cơn co giật uốn ván làm nó bật lên không, rồi rơi xuống sàn với tiếng kêu thảm thiết - một tiếng kêu đích thực của con người. Nó đã chết.

    Với mồ hôi bắt đầu toát ra trên trán, và với đôi bàn tay run run, tôi quỳ sụp trên nền nhà bên cạnh xác chết con mèo vẫn còn chưa lạnh. Đôi mắt đăm đăm một cái nhìn làm tôi điếng người vì kinh hoàng. Cái lưỡi đã hoá đen le ra giữa hàm răng, bốn chân co rút hiển lộ cơn đau đớn. Tôi lấy hết can đảm với nỗ lực dữ dội của ý chí, nắm lấy chân con vật và ra khỏi nhà. Vội vã đi xuống con đường vắng, tôi đi về phía bờ kè dọc sông Loire, và khi đến nơi, tôi ném gánh nặng của mình xuống sông. Tôi lang thang trong thành phố cho tới khi trời sáng, đi đâu tôi chẳng biết, và cứ thế cho tới khi trời bắt đầu mờ xanh rồi hồng lên ánh bình minh tôi mới có đủ can đảm trở về nhà. Khi tôi đặt tay lên cửa, tôi rùng mình. Tôi có nỗi sợ, như trong một truyện nổi tiếng của Poe, là thấy trong nhà vẫn còn sống con vật mà tôi mới làm cho chết. Nhưng không, gian phòng của tôi trống vắng. Tôi ngã mình mệt nhoài lên giường, và lần đầu tiên tôi ngủ với cảm giác hoàn toàn một mình, một giấc ngủ như của một con thú hay của một kẻ ám sát, cho tới khi đêm xuống .

     Có người lên tiếng, phá vỡ sự im lặng khi chúng tôi đang nghe.

    “ Tôi có thể đoán ra đoạn kết. Linda biến mất cùng con mèo.”

    “ Cô đoán đúng lắm. Tribourdeaux trả lời, Trong những chi tiết của câu chuyện này có một sự trùng hợp lạ lùng, vì thế cô có thể đoán khá chính xác mối quan hệ giữa họ. Phải, Linda biến mất. Người ta thấy trong căn hộ của cô ấy, trang phục, đồ lạnh, thậm chí cả đồ ngủ mà cô ấy đã mặc đêm đó, nhưng không có gì có thể cung cấp một chi tiết sơ lược nhất về lý lịch của cô ấy. Chủ toà nhà đã cho người thuê căn hộ, “ Cô Linda - ca sĩ thính phòng” , ông ta không biết gì hơn. Tôi được cảnh sát triệu tập. Vào đêm cô ấy biến mất  có người đã thấy tôi lang thang  với vẻ mất trí ở khu vực bờ sông. May thay, viên thẩm phán quen tôi, lại may thay ông là người có trí thông minh không bình thường. Tôi kể riêng với ông ấy toàn bộ câu chuyện, y như tôi đang kể với quý vị. Ông ta huỷ bỏ cuộc thẩm vấn, tuy nhiên tôi có thể nói là có rất ít người tránh được một phiên toà hình sự với một lối thoát hẹp như tôi.

    Sau một hồi lâu, sự im lặng của nhóm người nghe bị phá vỡ. Cuối cùng, một quý ông, để giải toả sự căng thẳng, kêu lên:

    “ Thôi nào, ông bác sĩ, hãy nói thực đây là chuyện tưởng tượng, rằng ông chỉ muốn làm cho quý bà quý cô ở đây mất ngủ.”

    Tribourdeaux  khó nhọc cúi mình, ông không cười, mặt hơi tái.

    “ Ngài có thể nghĩ vậy nếu muốn “, ông nói.



THÂN TRỌNG SƠN 

dịch và giới thiệu

( tháng 8/2023 )


Nguồn:


https://americanliterature.com/author/marcel-prevost/short-story/the-woman-and-the-cat

dimanche 13 août 2023

MỘT BÔNG HỒNG CHO EMILY

 


Truyện ngắn


WILLIAM FAUKNER


Nhà văn Mỹ.

( 1897 - 1962 )



 


William Faulkner chào đời tại tiểu bang Mississippi vào năm 1897, khi ông được vài tuổi, gia đình dọn tới thị trấn Oxford,  nơi  có  trường  đại học  của  tiểu  bang Mississippi. Từ hình mẫu của Oxford ấy, sau này, Faulkner tạo dựng nên thị trấn  Jefferson trong các tác phẩm của mình.


    Là tác giả của 126 truyện ngắn, 19 tiểu thuyết ( trong đó có những truyện, những cuốn được xem là hay nhất của ông ), William Faulkner xứng đáng là một trong những gương mặt sáng chói của văn học hiện đại. Ấy vậy mà, tuổi trẻ của ông chẳng có gì vinh quang: không tốt nghiệp nổi trung học, chỉ học đến lớp Mười. Trong tuổi 20, ông là sinh viên sĩ quan của Không lực Canada nhưng chưa thành tài thì cuối năm 1918 đã có lệnh giải ngũ. Faulkner trở về Oxford, ghi tên vào đại học nhưng chỉ học được một năm vì không học nổi. Toàn bộ nền học vấn của một nhà văn lừng lẫy khắp thế giới chỉ có vậy.


     Sau đó là thời gian kiếm sống, ông làm đủ mọi công việc: thợ mộc, thợ sơn, rửa bát nhà hàng, bán sách, trưởng phòng bưu điện. Ông bắt đầu làm thơ, mà thơ ông cũng dở như công việc đưa thư, chẳng làm hài lòng ai. Rồi ông xoay sang trồng trọt, đánh cá, săn bắn cho đến năm 27 tuổi, muốn đi châu Âu nên ông đến New Orleans, ở đó ông gặp nhà văn Sherwood Andersen. Nhờ vậy sau khi đi Ý, Pháp và Đức về, ông xuất bản được cuốn Soldiers’ Pay, năm 1926, nhưng tác phẩm này không thành công lắm.

    Ba năm sau, ông liên tiếp cho ra đời hai cuốn sách ( Sartoris và Sound and Fury ) mở đầu cho thế giới hư cấu của mình. Cuốn thứ hai là kiệt tác đưa ông vào hàng ngũ những người bất tử của văn chương nhân loại.

       Còn truyện ngắn A Rose for Emily ( được giới thiệu dưới đây ) xuất hiện lần đầu tiên vào ngày 30/4/1929 trên một tạp chí có tầm mức quốc gia, và nhanh chóng tiếng. Truyện này thường được xem là một trong những truyện hay nhất của ông.

       Vinh quang đến sớm với William Faulkner: ông đoạt giải Nobel Văn học năm 1949, và hai giải Pulitzer vào các năm 1955 và 1963.

        Năm 1951, Tổng thống Pháp Vincent Auriol quyết định trao tặng Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh. ( Légion d’ honneur ).



***




I.


Khi cô Emily Grierson chết, cả tỉnh chúng tôi đi dự đám tang cô. Đàn ông đi vì lòng quý mến một tượng đài đã sụp đổ, còn đàn bà hầu hết chỉ vì hiếu kỳ muốn nhìn thấy bên trong nhà cô, nơi ít nhất mười năm rồi không ai đặt chân đến, trừ ông lão bộc, vừa là đầu bếp vừa là người làm vườn. Đó là một toà nhà gỗ, to lớn, vuông vắn, trước đã từng được sơn trắng, có một đường mái cong với những ngọn tháp nhọn hoắt, với những bao lơn cuốn vòng theo đúng lối kiến trúc thanh kỳ của những năm 70, toạ lạc tại một khu phố sang trọng nhất trước kia. Nhưng rồi, những tiệm sửa xe, những nhà máy cán bông lấn dần và xoá mờ ngay cả những danh hiệu cổ kính của khu phố. Chỉ còn nhà của cô Emily vẫn ngạo nghễ vươn lên với dáng suy tàn mà đỏng đảnh giữa đám xe chở bông và những trạm sơn băng, đúng là một cảnh chướng mắt giữa những cảnh chướng mắt khác. Và giờ đây, cô Emily lại nối gót theo đại diện của hai danh hiệu cổ kính vào nằm trong nghĩa trang, dưới bóng tùng vi vu, giữa những dãy mồ vô danh của các Hợp chúng Miền Bắc và Liên quân miền Nam đã gục ngã trên chiến trường Jefferson.

  

     Lúc sinh thời, cô Emily là một truyền thống, một nghĩa vụ, một lo âu, một thứ đảm phụ thế truyền đè nặng lên cả tỉnh, kể từ năm 1894 khi đại tá tỉnh trưởng Sartoris, người đã ban hành điều luật cấm phụ nữ da đen ra đường nếu không quấn tạp dề, đã miễn hẳn các khoản thuế cho cô, điều này có hiệu lực vĩnh viễn từ lúc cha cô qua đời. Không phải là cô Emily chịu mang tiếng là nhận cứu trợ. Đại tá 

Sartoris đã bịa ra một câu chuyện loanh quanh là thân phụ cô Emily trước đây đã cho tỉnh vay tiền, và như thế, theo tính sòng phẳng hợp lý, tỉnh mới tìm cách trả lại. Chỉ có người thuộc cùng thế hệ, và với tầm kiến thức như đại tá Sartoris mới có thể bịa ra câu chuyện như thế, mà cũng chỉ có phụ nữ mới tin nó.

    Khi thế hệ sau, với tư tưởng mới mẻ hơn, lên làm tỉnh trưởng, làm hội viên hàng tỉnh, thì việc thu xếp như vậy đã gây ra ít nhiều điều bất bình. Vào ngày đầu năm, họ gởi cho cô giấy báo thuế. Đến tháng hai rồi không thấy hồi âm. Họ bèn gởi tới cô một công văn yêu cầu cô, lúc nào thuận tiện, hãy tới văn phòng ông quận trưởng.

    Tuần sau, đích thân ông quận trưởng viết cho cô, đề nghị sẽ đến nhà cô hoặc đưa xe đến đón cô. Ông nhận được thư trả lời viết trên một khổ giấy nhỏ cổ lỗ, nét chữ nhỏ xíu, nét mực mờ mờ, đáp rằng cô chẳng bao giờ ra khỏi nhà. Giấy báo thuế được gởi trả lại, không một lời giải thích.

    Họ triệu tập một phiên họp hội đồng hàng tỉnh bất thường. Một toán đại diện được cử đến nhà cô, họ gõ cửa, cánh cửa, kể từ lúc cô thôi dạy vẽ hình trên đồ sứ, đã tám hay mười năm nay, chưa ai bước qua. Người lão bộc da đen ra mở cửa, họ vào một hành lang hơi tối, có một cầu thang hun hút đưa lên một chỗ tối tăm hơn. Thoảng có mùi bụi và mùi mốc, một thứ mùi bưng bít ẩm ướt. Đến lúc họ ngồi xuống thì đám bụi mỏng uể oải bốc lên quanh đùi họ. Trên một cái giá vẽ mạ véc ni đã xạm màu đặt trước lò sưởi có bức chân dung thân phụ cô Emily vẽ bằng bút chì than.

    Họ đứng dậy khi cô Emily bước vào, người cô thấp và mập, cô bận đồ đen, đeo một dây chuyền mảnh bằng vàng, xệ tới bụng, buông lẫn vào trong thắt lưng. Cô chống một cây gậy gỗ mun có tay cầm bịt vàng đã xạm màu. Cốt cách của cô mảnh mai, vì vậy vẻ mập mạp của cô chỉ là béo bệu mà thôi. Trông cô trương phù lên như một xác chết lâu ngày ngâm trong vũng nước tù. Cặp mắt cô nhìn lẫn dưới những nếp nhăn bệu của khuôn mặt trông tựa hai mẩu than nhấn chìm trên miếng báo bột phồng, cặp mắt đưa đẩy lần lượt nhìn vào từng người khách, trong khi họ bày tỏ lý do đến nhà cô. Cô chẳng buồn mời họ ngồi . Cô cứ đứng sững nơi ngưỡng cửa và im lặng nghe khi một ông trong bọn họ dứt lời. Lúc đó họ nghe tiếng tích tắc của đồng hồ khuất kín nơi đầu dây chuyền vàng của cô. Cô cất giong khô khan lạnh lùng: “ Tôi chẳng có thuế má gì phải đóng ở Jefferson cả. Đại tá Sartoris đã giải thích với tôi như vậy. Có thể một người trong các ông tới văn khố toà thị chính mà tự tìm hiểu. Nhưng chúng tôi đã làm việc đó rồi. Chúng tôi là nhân viên toà thị chính thưa cô. Cô không nhận được giấy báo thuế do ông quận trưởng   ký sao? Tôi có nhận được giấy. Cô Emily nói. Có lẽ ông ta tự phong là quận trưởng, tôi chẳng có thuế má gì phải đóng ở Jefferson cả. Nhưng trong sổ sách không chỗ nào ghi như vậy cả, cô hiểu cho, chúng tôi phải… Các ông nên đi mà gặp đại tá Sartoris. Nhưng cô Emily… Hãy đi gặp đại tá Sartoris. ( Đại tá Sartoris đã qua đời gần 10 năm nay rồi. ) Tôi chẳng có thuế má gì phải đóng ở đây cả… Chú Tobel! ( người da đen xuất hiện ). Dẫn đường cho các ông ấy ra.


2.


    Như vậy, cô đã chế ngự được họ hoàn toàn, đúng như cô đã thấy bậc cha chú của họ ba mươi năm về trước đối với cái mùi hôi thối từ nhà cô. Vụ này xảy ra hai năm sau khi thân phụ cô qua đời, ít lâu sau khi người tình của cô bỏ đi nơi khác, người mà chúng tôi ai cũng nghĩ là sẽ cưới cô. Sau khi cha mất, ít khi cô ra ngoài, và khi người tình bỏ cô mà đi, khó ai nhìn thấy mặt cô. Có một vài bà bạo gan liều đến thăm nhưng cô không không tiếp ai, dấu hiệu sinh hoạt duy nhất nơi cô ở là ông lão da đen - thuở đó cô còn trẻ - xách cái giỏ đi chợ cứ đi đi về về. “ Bất kỳ một người đàn ông nào trông nom bếp núc đều như thế cả “. Mấy người phụ nữ bàn tán với nhau như vậy, nên chẳng ai ngạc nhiên khi có mùi hôi thối bốc ra. Thế là có một mối liên kết mới giữa đám người đông đảo, thô kệch với dòng họ Grierson cao cả và hiển hách. Một bà láng giềng của cô tìm đến phàn nàn với ông tỉnh trưởng lúc này là vị thẩm phán 80 tuổi Stevens. Bà bảo tôi làm thế nào bây giờ ? Ông tỉnh trưởng hỏi, Khó gì, ông chỉ việc ra lệnh bắt phải chặn đứng cái đó lại. Không còn biện pháp nữa sao ? Tôi chắc là không cần như thế. Ông thẩm phán nói: Hẳn đây chỉ là con rắn hay con chuột mà anh chàng da đen đập chết trong sân nhà mà thôi. Để tôi bảo hắn. Hôm sau lại hai người khác đến kêu ca nữa. Một người đàn ông tới rụt rè đưa ra lời khẩn cầu. Đã đến lúc bắt buộc phải làm một cái gì, ông thẩm phán ạ. Bất đắc dĩ lắm tôi mới tính đến việc quấy rầy cô Emily nhưng quả thật đã đến lúc chúng ta phải làm một cái gì. Tối hôm đó, hội đồng thành phố họp, ba người đứng tuổi và một thanh niên, đại diện của thế hệ đang lên. Giản dị lắm, chàng thanh niên nói, bảo cô phải tẩy uế nhà cửa. Hãy cho cô ít thời gian và nếu cô không thì … Trời đất, thưa ông bạn, lời ông thẩm phán Stevens, liệu ông có thể sẵn sàng nói thẳng vào mặt một phụ nữ rằng người bà hôi hám sao. Thế rồi đêm hôm sau, vào lúc quá nửa đêm, bốn người đàn ông băng qua sân cỏ nhà cô ta, lẻn vào nhà cô như những tên trộm, họ đánh hơi được cái hầm nhà xây gạch, theo cửa thông hơi gió trên hầm, đồng thời một người thọc tay vào bao tải đeo trên lưng rồi đều đặn vung tay hệt như người gieo mạ. Họ đẩy cửa hầm, đi vào trong, rắc vôi bột, rắc cả những nhà phụ bên ngoài. Khi họ trở ra, cũng lại băng qua sân cỏ, lẻn vào bóng những cây dạ hợp trồng dọc theo hè phố. Một hai tuần sau, mùi hôi không còn.

    Chừng đó mọi người mới thấy thương hại cô. Dân trong tỉnh lại nhớ đến bà cụ Wyatt, bà cô của cô ta, sau cùng đã thực sự phát điên vì nhận ra là dòng họ Grierson đã tự đề cao  quá lố. Không một chàng trai tráng nào khả dĩ xứng hợp với cô Emily. Chúng tôi thường hình dung ra nhân vật trong dòng họ cô như những hình trên một bức ảnh, phía trong cùng là cô Emily mặc đồ trắng, dáng mảnh mai, phía trước là cha cô, xây lưng lại phía cô, hai chân dang ra, tay lăm lăm chiếc roi ngựa, cả hai nổi bật trong khung cửa mặt tiền. Vì vậy khi cô ba mươi tuổi xuân mà vẫn chưa chồng, chúng tôi thực ra có sung sướng gì, nhưng cũng cảm thấy được hả giận. Ngay khi có chứng điên trong gia đình, cô cũng chẳng bỏ lơ tất cả những cơ hội may mắn nếu quả thật những cơ hội đó có đến thật khi thân phụ cô qua đời, người ta đồn rằng tất cả của cải để lại chỉ còn căn nhà đó, đứng về một phương diện nào đó, có vẻ bằng lòng. Bây giờ mọi người có thể rủ lòng thương hại cuộc đời cô được rồi. Bị bỏ lại trong cô độc và nghèo nàn, lúc ấy cô mới thấm thía nhân tình, lúc ấy cô mới hiểu thế nào là niềm vui hoặc nỗi buồn của một đồng xu kiếm được hoặc mất đi. Sau khi thân phụ cô mất, cô mất tất cả, các bà sẵn sàng qua nhà cô để phân ưu và giúp đỡ theo thông lệ. Cô Emily tiếp họ ở cửa, cô ăn bận như ngày thường, tuyệt không có một nét buồn rầu nào thoáng hiện. Cô bảo các bà là thân phụ cô chết. Cô nói như vậy ba ngày liên tiếp với các mục sư đến viếng, với các y sĩ đến thuyết phục cô để lo liệu cho xác chết. Mãi đến lúc họ định dựa vào pháp luật để cưỡng bách thì cô mới nhượng bộ và họ vội vàng chôn cất cha cô. Chúng tôi không cho là cô điên. Chúng tôi nghĩ là có chăng thì nào làm khác được, chúng tôi nhớ đến những trai trẻ mà thân phụ đã xua đuổi đi, và chúng tôi hiểu giờ đây cô thấy chẳng còn gì nên phải bám víu lấy cái đã tước đoạt mọi thứ nơi cô như mọi người vẫn thường làm thế.


3.


   Cô đau khá lâu. Khi chúng tôi gặp lại cô thì tóc cô cắt ngắn khiến cô trông như con gái, phảng phất giống như hình những thiên thần vẽ trên cửa kính màu ở nhà thờ, vừa bi thảm, vừa trong trắng. Thành phố vừa ký những hợp đồng lát đá các lề đường, và mùa hè liền sau năm thân phụ cô qua đời thì người ta khởi công. Hãng thầu tới đem theo bọn da đen ( negros, nguyên tác ghi n…s ), với những con la và máy móc. Có gã đốc công tên là Homer Barron, dân Bắc Mỹ, vạm vỡ da ngăm, tính cương quyết, tiếng nói oang oang, cặp mắt sáng hơn màu da mặt. Lũ trẻ con đi theo nghe gã nhiếc mắng bọn da đen và nghe bọn này cất tiếng hát theo nhịp cuốc. Chẳng bao lâu gã quen mặt mọi người trong thành phố. Cứ mỗi khi nghe tiếng cười ở đâu đó là y như có gã Homer Barron ở đó rồi. Thời gian này, chúng tôi thường thấy gã và cô Emily mỗi buổi chiều chủ nhật, ngồi trên chiếc xe ngựa thuê không mui hai chỗ, bánh màu vàng đóng cặp ngựa hồng.

    Ban đầu chúng tôi lấy làm phấn khích khi thấy cô Emily đã có niềm vui, bởi các bà đều bàn tán: Tất nhiên con gái dòng họ Grierson không thể cặp bồ với một anh chàng miền Bắc, một kẻ làm công. Nhưng cũng có những người lớn tuổi hơn bàn tán rằng ngay cả trong nỗi sầu của cô gái quyền quý cũng không được quên câu phú quý sinh lễ nghĩa. Họ chỉ nói: Tội nghiệp cho cô Emily. Thân quyến cô sẽ phải đến với cô. Cô có một số bà con ở Alabama, nhưng nhiều năm  trước, thân phụ cô đã gây xích mích với họ về việc thừa kế tài sản của bà Wyatt, một bà cụ điên, vì vậy mà hai gia đình cắt đứt liên lạc. Thậm chí có đám tang cũng không ai đến phúng điếu. Rồi chẳng bao lâu, mọi người lại nói: Tội nghiệp cô Emily. Rồi họ thì thào hỏi nhau: Các ông bà có nghĩ vậy không ? Kẻ tán vào thì nói: Dĩ nhiên là thế. Còn gì bằng. Những lời bàn tán đã thoát ra bàn tay che miệng, phía sau những màn lụa và sa tanh, bao trong những tấm màn che nắng, được cuộn lên vào những chiều chủ nhật khi vừa có tiếng xe ngựa lanh lẹ lướt qua. Tội nghiệp cho Emily.. Cô vẫn ngẩng cao đầu - ngay cả khi chúng tôi cho rằng cô đã sụp đổ. Chừng chư hơn bao giờ hết nếu cô đòi hỏi mọi người phải công nhận cái phẩm chất bất khả xâm phạm của cô. Giống như khi cô đi mua thuốc giết chuột, chất thạch tín. Việc đó xảy ra hơn một năm sau lời nói thương hại Tội nghiệp cô Emily của thiên hạ, vào thời gian hai người chị họ đến chơi nhà cô. Tôi muốn mua độc dược, cô nói với người bán thuốc. Lúc này cô ngoài ba mươi, vốn là người phụ nữ mảnh khảnh, hơi ốm hơn thường ngày, mắt đen lạnh lùng trong khuôn mặt với gò má nhô cao. Cô nói lại. Tôi muốn mua độc dược. Vâng được, cô muốn mua loại nào? Loại tốt nhất tiệm ông có. Tôi không quan tâm loại nào. Người bán thuốc kể tên vài loại rồi nói. Chúng có thể giết chết cả con voi, nhưng loại cô muốn dùng là thạch tín. Cô Emily hỏi: Nó tốt không? Thạch tín sao ? Vâng, thưa cô, nhưng thứ cô muốn là… Thạch tín ! Người bán thuốc nhìn cô. Cô chằm chằm nhìn lại ông ta, nhìn thẳng vào mặt, ông ta đứng thẳng người, mặt như lá cờ căng gió. Dĩ nhiên là có. Nhưng nếu đó là thứ cô muốn thì theo luật, xin cô vui lòng cho biết cô sẽ dùng nó vào việc gì.

      Cô Emily chỉ nhìn thẳng vào mặt ông ta, đầu cô ngả ra phía sau, mắt dán vào ông ta đến nỗi ông phải quay đi và vội lấy thạch tín gói lại. Chú bé giao hàng da đen mang gói thuốc đến cho cô, người bán thuốc không ra nữa. Khi về đến nhà, cô mở gói thì thấy trên cái hộp hình sọ người và hai xương ống bắt chéo, hàng chữ: Dùng cho chuột.


4.


    Rồi ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đều bảo: Cô ta sẽ tự sát, và chúng tôi tin rằng như thế có lẽ là tốt nhất. Lần đầu tiên khi thấy cô đi với Homer Barron, chúng tôi đã nói: Cô sẽ lấy gã. Rồi lại còn bàn: Tất nhiên cô sẽ thuyết phục được gã vì chính Homer cũng tự nhận rằng mình thích tụ họp với cánh đàn ông, ai cũng biết gã từng đi uống với những hội viên trẻ của câu lạc bộ Elks, rằng gã không phải hạng người sinh ra để lấy vợ. Sau nữa, chúng tôi lại nói: Tội nghiệp cho Emily phía sau mành cửa khi họ đi qua vào chiều chủ nhật trên chiếc xe mui trần bóng loáng. Cô Emily ngẩng cao đầu, còn Homer Barron mũ lệch bên trái, răng cắn chặt điếu xì gà, dây cương và roi ngựa trong cái bao tay vàng.

    Rồi, có vài bà nghĩ rằng đó là điều sỉ nhục cho cả tỉnh, làm gương xấu cho giới trẻ. Bọn đàn ông thì không muốn dính dáng đến, nhưng sau này các bà ép mục sư giáo phái Bap tist - gia đình cô Emily theo giáo phái Épiscopal - đến tiếp xúc với cô. Mục sư không tiết lộ những gì xảy ra trong cuộc tiếp tục đó, nhưng từ chối không đến thăm lần nữa. Ngày chủ nhật sau đó, họ lại đánh xe đi với nhau ngoài phố, và hôm sau thì bà vợ ông mục sư viết thư cho thân quyến cô ta ở Alabama. Thế là trong nhà cô lại có thân quyến đến ở và chúng tôi ngồi chờ xem diễn biến. Mới đầu chẳng thấy gì hết. Rồi sau đó chúng tôi tin chắc là họ sẽ lấy nhau. Kế đó chúng tôi được tin là cô đã tới tiệm kim hoàn đặt một bộ trang sức cho nam giới bằng bạc có khắc hai chữ đầu HB ở mỗi món đồ. Hai ngày sau, chúng tôi được tin cô sắm một bộ quần áo đàn ông, kể cả áo ngủ, và chúng tôi nói: Họ lấy nhau thật rồi. Chúng tôi mãn nguyện lắm. Là vì hai cô chị họ lại còn điệu bộ Grierson hơn cả cô Emily nữa. Thế nên chúng tôi không ngạc nhiên khi thấy Homer Barron - lề đường lúc này đã lát xong - bỏ đi. Chúng tôi hơi thất vọng là chẳng có cuộc vui chung nào, nhưng chúng tôi còn tin rằng gã ra đi để sửa soạn đón cô Emily. Vào thời gian ấy quả là chúng tôi đã hùa nhau đứng về phe cô Emily, giúp cô mưu kế để đẩy cho được hai cô chị họ kia. Có điều khá chắc chắn là trong vòng một tuần lễ, cả hai người đều ra đi. Và đúng như chúng tôi trông chờ, chưa đầy ba ngày Homer Barron trở lại thành phố, một người láng giềng của cô Emily  đã nhìn thấy anh hầu da đen để gã vào lối cửa bếp vào một đêm lúc trời chạng vạng.

    Và đó là lần chót chúng tôi thấy Homer Barron. Rồi cả cô Emily cũng không thấy mặt một thời gian. Vẫn chỉ thấy anh da đen đi đi về về với cái giỏ đi chợ, còn cửa chính thì đóng im ỉm. Thỉnh thoảng, chúng tôi nhìn thấy cô ở cửa sổ một lúc, như tối hôm nào mấy người tới rắc vôi bột xung quanh nhà cô, nhưng đến sáu tháng trời không thấy cô xuất hiện ngoài thành phố. Lúc đó chúng tôi mới ngã ngửa người ra là cũng phải dự liệu cả điều này nữa, chừng như tính nết của thân phụ cô đã quá nhiều lần mâu thuẫn với nếp sống phụ nữ của cô, nó độc địa, dữ dằn quá đến không thể tiêu tan.

    Khi chúng tôi gặp được cô ta, cô đã mập ra, tóc cô xám. Vào năm sau, mỗi năm nó lại xám hơn cho đến khi nó trở thành tóc muối tiêu, màu xám sắt thì giữ không đổi nữa, tựa như tóc một người đàn ông năng động vậy.

    Từ thời gian đó, cửa nhà cô vẫn đóng chặt, trừ một khoảng thời gian khoảng sáu, bảy năm, lúc cô trạc 40, cô dạy vẽ hình trên đồ sứ. Cô thu dọn một phòng ở tầng một làm xưởng vẽ, nơi đây những con gái, cháu gái của những người đồng thời với đại tá Sartoris được gởi tới học đều đặn, cần mẫn, như đi nhà thờ vào ngày chủ nhật, mang theo đồng hai mươi xu để góp trong dĩa. Trong lúc này, thuế má của cô được xả hết.

    Rồi khi thế hệ trẻ trở thành trụ cột và linh hồn của thành phố, và những học trò lớp vẽ của cô lớn lên, tản mác đi các nơi, họ cũng chẳng gởi con cái đến học cô, mang theo những hộp màu, những cọ sơn buồn nản và những hình vẽ cắt trong các tạp chí phụ nữ. Cửa trên nhà cô đóng chặt sau lưng đứa học trò sau cùng, rồi cứ thế cứ đóng mãi. Khi thành phố được phát thư miễn phí, cô Emily không cho hon treo bảng số nhà, cũng không cho họ gắn hộp thư vào cửa, cô nhất thiết không chịu nghe một lời phân giải nào.

    Ngày, tháng, năm trôi qua, chúng tôi thấy anh người làm da đen tóc thêm xạm màu, lưng thêm còng, vẫn đi đi về về với cái giỏ đi chợ. Cứ mỗi tháng chạp tới, chúng tôi lại gởi giấy báo thuế tới, rồi một tuần sau lại thấy bưu điện phát hoàn: không người nhận. Thỉnh thoảng chúng tôi trông thấy cô xuất hiện sau một khung cửa ở tầng trên, như một pho tượng. Cứ như thế, cô sống trải từ thế hệ này sang thế hệ khác, cao quý, không lẩn trốn, bất khả xâm phạm, trầm tĩnh, ngang bướng.

    Rồi cô chết. Cô lâm bệnh trong nhà đầy bụi bặm, chỉ có người lão bộ da đen lụm  cụm hầu hạ. Chúng tôi cũng không biết là cô đau, đã từ lâu chúng tôi cũng từ bỏ việc dò hỏi người lão bộc về cô.

    Lão chẳng nói với ai lời nào, chắc cả với cô cũng vậy, tiếng lão khàn khàn, bởi từ lâu không dùng. Cô chết ở trong một trong những căn phòng dưới nhà, trên cái giường bằng gỗ hồ đào nặng trịch, có tấm màn che, mái đầu tóc xám đặt lên chiếc gối màu vàng mốc meo vì lâu ngày thiếu ánh mặt trời.



5.


    Lão da đen ra cửa tiếp đón người đi đầu trong đám các bà rồi dẫn tất cả vào nhà, giọng nói các bà tắt nghẹn, thì thầm, với những cái nhìn vội vàng, lén lút, rồi lặng dần đi. Lão đi thẳng qua căn nhà, ra lối cửa hậu rồi không thấy đâu nữa.

      Hai người chị họ cũng vừa đến viếng. Họ cho làm đám tang ngay hôm sau, và tất cả tỉnh đến viếng. Cô Emily nằm trong đám hoa mới mua, chân dung thân phụ cô vẽ bằng bút chì than như trầm tư trên cỗ áo quan, các bà thì thầm ma quái, trên sân cỏ, trong bị luỵ, những cụ già - một vài cụ mặc binh phục Liên quân miền Nam, chải chuốt tán gẫu về cô ta, coi cô như người cùng thế hệ với mình, tin rằng mình đã có lần khiêu vũ với cô, và có lẽ đã tán tỉnh cô nữa, các cụ đã lẫn thời gian với cấp số toán học của nó, như những người già thường lẫn, với họ, dĩ vãng không phải là con đường suy giảm dần, mà là một cánh đồng cỏ mênh mông, mùa đông chẳng bao giờ chậm tới, ngăn cách họ bằng cái cổ chai nhỏ hẹp của mười năm vừa qua.

    Chúng tôi biết trên lầu có một căn phòng dán kín mà đã 40 năm qua không ai biết tới, muốn vào phải phá cửa. Người ta đợi cô Emily mồ yên mả đẹp mới phá cửa. 

     Sức phá cửa mạnh dường như làm căn phòng tung đầy bụi bặm. Có vẻ như một tấm màn đen phủ quan tài mỏng mùi hăng trùm kín khắp căn phòng được trang trí cho cô  dâu chú rể, trên những tấm màn buông có riềm màu hồng bạc thếch, trên những chụp đèn màu hồng, trên bàn phấn, trên loạt đồ pha lê thanh nhã, trên bộ đồ trang sức của nam giới mà mặt trong bằng bạc đã xám xịt, xám đến độ mấy chữ bên trên viết tắt đã ám đen. Giữa những thứ đó, có một chiếc cổ cồn và chiếc cà vạt chừng như mới được tháo ra, khi nhấc lên còn để lại trên mặt bàn một vành trăng lưỡi liềm mờ nhạt trên nền bụi. Trên ghế còn vắt bộ quần áo, xếp gấp cẩn thận, dưới ghế là đôi giày câm nín và những đôi tất chơ vơ.

     Chính gã đàn ông đã nằm trên giường.

     Chúng tôi đứng yên một lúc lâu, cúi nhìn cái miệng rộng hoắc sâu thẳm và không còn da thịt. Người ta thấy hình như thân gã có một lúc nằm với dáng điệu ôm ấp, nhưng rồi giấc ngủ dài, dài vượt tình yêu, giấc ngủ dài đã chinh phục sự đỏng đảnh của tình yêu, đã lừa gạt được gã. Di thể của gã đã rửa nát, dưới những gì còn sót lại của chiếc áo ngủ, không thể gỡ khỏi nơi mặt người gã nằm, và trên xác gã cũng như trên chiếc gối bên cạnh gã, phủ một lớp bụi dẻo dai và bền bỉ. Lúc ấy chúng tôi để ý nhận thấy trên mặt gối thứ hai còn in hằn viết lõm đầu người. Một người trong bọn chúng tôi nhặt lên được một cái gì trên gối, và khi chúng tôi cúi xuống, lớp bụi gờn gợn vô hình khô khan kia xông thẳng lên mũi, chúng tôi nhìn ra thì đó là một sợi tóc dài, một sợi tóc màu xám sắt.



THÂN TRỌNG SƠN

dịch và giới thiệu


( tháng 8/2023 ).


Nguồn: 


A Rose for Emily.

https://americanliterature.com/author/william-faulkner/short-story/a-rose-for-emily