jeudi 7 août 2025

Roald Dahl

 




ROALD DAHL

( 1916 - 1990 )


 



Roald Dahl  là một tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn và tác giả truyện thiếu nhi người Anh. Ông sinh ra ở xứ Wales và lớn lên ở Anh, nơi ông theo học tại một trường nội trú, sau đó làm việc cho công ty dầu khí Shell trước khi gia nhập Không quân Hoàng gia trong Thế chiến II.

Dahl bắt đầu sự nghiệp văn chương với vai trò là một nhà văn chuyên viết truyện cho người lớn, và những tác phẩm đầu tay của ông nổi bật với chủ đề u ám và rùng rợn. Tuy nhiên, ông được biết đến nhiều hơn với các tác phẩm viết cho thiếu nhi, trong đó có những cuốn sách kinh điển như “Charlie và nhà máy sôcôla”, “James và quả đào khổng lồ”, và “Matilda”.

Những cuốn sách thiếu nhi của Dahl nổi bật với lối kể chuyện kỳ ảo và đầy trí tưởng tượng, các nhân vật sống động và sự pha trộn độc đáo giữa hài hước và bóng tối. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành nhiều bộ phim, vở kịch sân khấu và các hình thức truyền thông khác, và vẫn tiếp tục được các thế hệ độc giả trên khắp thế giới yêu mến.

Bên cạnh công việc viết lách, Dahl còn là một nhà biên kịch và nhân vật truyền hình có tiếng. Ông nổi tiếng với lối hài hước châm biếm và tinh nghịch. Suốt đời, ông là người ủng hộ mạnh mẽ cho việc đọc và giáo dục trẻ em. Di sản của ông như một nhà văn và biểu tượng văn hóa vẫn tiếp tục truyền cảm hứng và mang lại niềm vui cho độc giả ở mọi lứa tuổi.

Mặc dù cha mẹ ông là người Na Uy, Roald Dahl được sinh ra ở xứ Wales vào năm 1916. Mỗi dịp hè, gia đình ông lại về nghỉ ở một hòn đảo nhỏ của Na Uy, nơi họ bơi lội, câu cá và chèo thuyền. Khi Roald mới bốn tuổi, cha ông qua đời, để lại mẹ ông một mình nuôi sáu người con và tổ chức những chuyến đi ấy.

Roald thường xuyên nhớ nhà khi ở trường. Tất cả thư gửi về nhà đều bị hiệu trưởng trường St. Peter kiểm soát, và sau đó ông phải mặc một bộ đồng phục trường khủng khiếp ở Repton – bao gồm dây đeo, áo ghi-lê, mũ và vô số cúc, tất cả đều màu đen. Hiệu trưởng và các học sinh lớp lớn – được gọi là “prefect” – thường xuyên đánh đập các học sinh nhỏ hơn. Roald đặc biệt nhấn mạnh đến các hình thức trừng phạt học đường trong sách của mình. Bạn có thể bị đánh chỉ vì để quên một chiếc tất bóng đá trên sàn, làm cháy bánh mì nướng của prefect vào giờ trà chiều, hay quên thay giày trong nhà lúc sáu giờ tối.

Tệ nhất là các trận đòn do chính hiệu trưởng – một giáo sĩ – thực hiện. Ông ta tàn nhẫn đến mức sau mỗi roi đánh, lại dừng lại để hút tẩu và giảng về tội lỗi, trong khi học sinh phải quỳ yên chịu đựng. Sau mười roi, nạn nhân phải đi rửa sạch máu trước khi mặc lại quần. Thật mỉa mai, người hiệu trưởng đó sau này trở thành Tổng Giám mục Canterbury. Roald Dahl đã tự nhủ: nếu đây là người được Chúa chọn, thì chắc hẳn có điều gì đó sai trái nghiêm trọng trong cả hệ thống này. Sau khi học xong, Roald Dahl không vào đại học mà xin làm việc cho công ty Shell vì tin rằng công ty này sẽ cử ông ra nước ngoài. Ông được gửi đến Đông Phi, nơi ông tìm thấy những cuộc phiêu lưu như mình mong muốn: thời tiết nóng nực, cá sấu, rắn và những cuộc săn bắn hoang dã. Ông sống trong rừng, học nói tiếng Swahili và bị sốt rét.

Khi Thế chiến II nổ ra, ông đến Nairobi để gia nhập Không quân Hoàng gia. Ông trở thành phi công chiến đấu, từng bắn hạ máy bay Đức và cũng từng bị bắn rơi. Sau sáu tháng nằm viện, ông tiếp tục bay trở lại.

Năm 1942, ông đến Washington làm Trợ lý Tùy viên Không quân. Tại đây, ông bắt đầu viết truyện ngắn. Năm 1943, ông xuất bản cuốn sách thiếu nhi đầu tiên “The Gremlins” hợp tác với Walt Disney, và năm 1945, tập truyện ngắn đầu tiên của ông được phát hành tại Mỹ. Cuộc hôn nhân của ông với nữ diễn viên Patricia Neal không hạnh phúc. Các con của họ đều không sống sót, vợ ông bị đột quỵ. Khi tỉnh lại, bà hầu như không thể đọc, đếm hay nói. Tuy nhiên, Roald đã tận tâm chăm sóc bà hồi phục, đến mức bà có thể quay trở lại diễn xuất. Dẫu vậy, họ ly dị vào năm 1983 và ông kết hôn với Felicity Crosland.

Roald Dahl nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có Giải thưởng Edgar Allan Poe. Các tuyển tập truyện ngắn của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và là sách bán chạy trên toàn thế giới. Trong số đó có các tuyển tập:
. Someone Like You

Sweet Mystery of Life

Kiss Kiss

Roald Dahl’s Book of Ghost Stories

   Ông cũng viết các loạt phim truyền hình như “Tales of the Unexpected” và tiểu thuyết “My Uncle Oswald”.Các tác phẩm của ông phần lớn mang tính kỳ ảo, đầy trí tưởng tượng. Chúng luôn hơi tàn nhẫn, nhưng không bao giờ thiếu sự hài hước – một sự pha trộn hấp dẫn giữa kỳ quái và hài hước. Một mô-típ lặp lại trong truyện của ông là: con người không phải lúc nào cũng như vẻ bề ngoài của họ. Ví dụ, Mary Maloney trong truyện “Lamb to the Slaughter” không phải là một góa phụ hiền lành, mà là một kẻ giết người thông minh.

   Bối cảnh trong truyện của ông luôn được xây dựng rất chân thực, giàu chi tiết. Roald Dahl không chỉ viết cho người lớn mà còn rất thành công với thiếu nhi, với các tác phẩm như:

James and the Giant Peach
Fantastic Mr. Fox

The Gremlins

    Về truyện thiếu nhi của mình, ông từng nói: “Tôi nêu lên quan điểm của mình bằng cách phóng đại thật mạnh. Đó là cách duy nhất để nói chuyện với trẻ con.” Roald Dahl có lẽ là tác giả sách thiếu nhi nổi tiếng và bán chạy nhất. Tuy nhiên, những câu chuyện của ông châm biếm và hài hước đến mức người lớn cũng thích đọc.


Roald Dahl qua đời vào tháng 11 năm 1990. Tờ The Times gọi ông là:

“Một trong những cây bút được đọc nhiều nhất và có ảnh hưởng nhất của thế hệ chúng ta.”


Roald Dahl  là một trong những nhà văn và nhà thơ người Anh nổi bật nhất thế kỷ 20, đặc biệt nổi tiếng với văn học thiếu nhi và thơ trào phúng. Ông được đánh giá cao nhờ trí tưởng tượng phong phú, lối viết hài hước đen, và khả năng kể chuyện độc đáo. Dahl được xem là một trong những tác giả văn học thiếu nhi vĩ đại nhất, bên cạnh những cái tên như Lewis Carroll hay J.K. Rowling.

Những tác phẩm nổi bật:

Charlie and the Chocolate Factory

Matilda

James and the Giant Peach

The BFG

Fantastic Mr. Fox

       Các tác phẩm của ông thường có nhân vật chính là những đứa trẻ thông minh, gan dạ, đối đầu với những người lớn độc ác, giả dối.

   Nét đặc trưng trong các bài thơ và truyện ngắn của ông, nhất là trong tuyển tập thơ Revolting Rhymes, là giễu nhại truyện cổ tích một cách hài hước và đôi khi gây sốc. Ông chơi đùa với âm thanh, vần điệu, và những từ ngữ sáng tạo (như trong The BFG), giúp trẻ em yêu thích ngôn ngữ. Không theo lối đạo đức cứng nhắc, ông thường đứng về phía trẻ em, khuyến khích sự nổi loạn, trí tưởng tượng, và tư duy độc lập.

   Dahl cũng viết truyện ngắn cho người lớn, thường có kết thúc bất ngờ, mang màu sắc châm biếm, như trong tuyển tập Tales of the Unexpected. Những truyện này thường xoay quanh các mặt tối của con người: tham lam, ghen tuông, lừa dối…Các tác phẩm của ông được chuyển thể thành phim, kịch, nhạc kịch nổi tiếng khắp thế giới. Nhân vật và lối viết của ông trở thành biểu tượng trong văn học đại chúng. Một số tác phẩm của ông bị đánh giá là mang thành kiến về giới tính, chủng tộc (ví dụ: cách mô tả người Oompa-Loompa trong Charlie and the Chocolate Factory thời kỳ đầu), dẫn đến việc tái biên tập trong các ấn bản gần đây. Roald Dahl được yêu quý rộng rãi tại Anh và trên toàn thế giới. Năm 2008, The Times xếp ông vào danh sách 50 tiểu thuyết gia vĩ đại nhất sau năm 1945.

  Ngày Roald Dahl (Roald Dahl Day) được tổ chức hàng năm vào ngày 13/9 – ngày sinh của ông – như một cách tôn vinh di sản văn học đặc biệt này.

    Roald Dahl là một người kể chuyện bậc thầy, người đã tạo ra cả một thế giới kỳ diệu đầy trí tưởng tượng và những bài học sâu cay ẩn dưới lớp vỏ hài hước. Ông được yêu quý bởi hàng triệu trẻ em, nhưng cũng được người lớn kính nể nhờ sự sâu sắc, châm biếm và cái nhìn sắc sảo về xã hội và con người.


  Sau đây là một số bài thơ của Ông:


HOT AND COLD


A woman who my mother knows
Came in and took off all her clothes.

Said I, not being very old,
'By golly gosh, you must be cold! '

'No, no! ' she cried. 'Indeed I'm not!
I'm feeling devilishly hot! '



NÓNG VÀ LẠNH



Một bà quen với mẹ tôi,

Cởi sạch  quần áo và rồi đứng trơ!

Tôi còn bé, hỏi ngây ngô:

“Trời ơi, bà lạnh bây giờ làm sao?”


Bà cười: “ Có lạnh gì đâu,

Bà đang nóng nực muốn trào tim ra!”



CROCODILE


'No animal is half as vile
As Crocky-Wock, the crocodile.
On Saturdays he likes to crunch
Six juicy children for his lunch
And he especially enjoys
Just three of each, three girls, three boys.
He smears the boys (to make them hot)
With mustard from the mustard pot.
But mustard doesn't go with girls,
It tastes all wrong with plaits and curls.
With them, what goes extremely well
Is butterscotch and caramel.
It's such a super marvelous treat
When boys are hot and girls are sweet.
At least that's Crocky's point of view
He ought to know. He's had a few.
That's all for now. It's time for bed.
Lie down and rest your sleepy head.
Ssh. Listen. What is that I hear,
Galumphing softly up the stair?

Go lock the door and fetch my gun!
Go on child, hurry! Quickly run!
No stop! Stand back! He's coming in!
Oh, look, that greasy greenish skin!
The shining teeth, the greedy smile!
It's Crocky-Wock, the Crocodile!'



CÁ SẤU


Không con thú nào gian tà,

Bằng Cá Sấu – quái vật già!

Mỗi thứ Bảy, hắn thường ăn

Sáu đứa trẻ nhỏ – bữa trưa hằng tuần.

Hắn khoái nhất, chẳng cần bàn,

Ba bé trai, ba bé gái.

Với bọn trai, hắn phết đều

Mù tạt nóng hổi – ăn nhiều mới ngon.

Nhưng mù tạt chẳng hợp con

Gái tóc xoăn, thắt bím tròn dễ thương.

Với các bé gái ngọt ngào,

Kẹo bơ, caramel mới vào thật hay!

Một bữa tiệc tuyệt vời thay –

Con trai thì nóng, con gái thì say…

Ít ra, đó là ý hắn,

Hắn ăn nhiều lắm – chắc chắn không lầm!

Vậy nhé, giờ đã tối rồi,

Ngủ đi con, gối êm trôi mộng vàng.

Suỵt… nghe kìa… tiếng gì vang?

Thình thịch từng bước… cầu thang… đang dần…


Mau khóa cửa! Lấy súng nhanh!

Chạy đi con! Đừng loanh quanh!

Không! Dừng lại! Tránh ra xa!

Nó vào rồi! Da lấm lem – màu xanh!

Răng sáng loáng, nụ cười gian,

Là Cá Sấu đó – ác thần hiện ra!




THE PIG



In England once there lived a big
And wonderfully clever pig.
To everybody it was plain
That Piggy had a massive brain.
He worked out sums inside his head,
There was no book he hadn't read.
He knew what made an airplane fly,
He knew how engines worked and why.
He knew all this, but in the end
One question drove him round the bend:
He simply couldn't puzzle out
What LIFE was really all about.
What was the reason for his birth?
Why was he placed upon this earth?
His giant brain went round and round.
Alas, no answer could be found.
Till suddenly one wondrous night.
All in a flash he saw the light.
He jumped up like a ballet dancer
And yelled, 'By gum, I've got the answer! '
'They want my bacon slice by slice
'To sell at a tremendous price!
'They want my tender juicy chops
'To put in all the butcher's shops!
'They want my pork to make a roast
'And that's the part'll cost the most!
'They want my sausages in strings!
'They even want my chitterlings!
'The butcher's shop! The carving knife!
'That is the reason for my life! '
Such thoughts as these are not designed
To give a pig great peace of mind.
Next morning, in comes Farmer Bland,
A pail of pigswill in his hand,
And piggy with a mighty roar,
Bashes the farmer to the floor…
Now comes the rather grisly bit
So let's not make too much of it,
Except that you must understand
That Piggy did eat Farmer Bland,
He ate him up from head to toe,
Chewing the pieces nice and slow.
It took an hour to reach the feet,
Because there was so much to eat,
And when he finished, Pig, of course,
Felt absolutely no remorse.
Slowly he scratched his brainy head
And with a little smile he said,
'I had a fairly powerful hunch
'That he might have me for his lunch.
'And so, because I feared the worst,
'I thought I'd better eat him first.'



CON HEO



Ngày xưa nước Anh có heo,

Thông minh xuất chúng, ai theo kịp nào!

Tính nhẩm chẳng viết con dao,

Sách gì cũng đọc, biết bao chuyện đời.


Hiểu bay máy móc mọi nơi,

Hiểu vì sao động cơ rời tiến lui.

Nhưng rồi một việc tối thui,

Khiến cho đầu óc rối bời chẳng yên:


“Sống chi giữa cõi nhân duyên?

Sinh ra để được làm nên việc gì?”

Nghĩ hoài, chẳng có đáp chi,

Quẩn quanh trí lớn lâm khi nhọc lòng.


Một đêm rực sáng như bông,

Heo ta bỗng nhảy như trong tuồng chèo:

“Trời ơi! Đáp án rất đều!

Người ta nuôi để giết heo làm hàng!


Họ cần miếng thịt vàng vàng,

Cắt ra từng lát đem sang chợ đời.

Họ cần xương sườn béo ngơi,

Để trong tủ thịt bán thời nên công.


Họ cần thịt quay đỏ hồng,

Món này mắc nhất, thật không sai nào!

Xúc xích họ cũng mang vào,

Lòng heo họ lấy nối nhau từng vòng.


Dao phay, tiệm thịt chất chồng —

Ấy là số phận, cuộc sống heo rồi!”


Nghĩ xong chẳng thể thảnh thơi,

Sáng ra chủ đến, tay xơi xô cầm.

Heo ta nổi giận bần thần,

Húc ông một cú ngã đằm xuống sân.


Và đây là khúc chẳng gần —

Chuyện hơi rùng rợn nên cần nói qua:

Heo ăn chủ nó thật mà!

Từ đầu tới gót chẳng tha miếng nào!


Nhai chầm chậm, chẳng xôn xao,

Một giờ mới xong đến đầu ngón chân.

Ăn xong chẳng thấy bâng khuâng,

Gãi đầu, heo nói mấy vần thật ngay:


“Ta đoán chủ có dạ này:

Muốn ăn ta trước, một ngày chẳng xa.

Nên thôi – ta đỡ lo xa,

Thế là ta… ăn lão ta trước rồi!”



THE ROWING SONG


Round the world and home again
That's the sailor's way
Faster faster, faster faster

There's no earthly way of knowing
Which direction we are going
There's no knowing where we're rowing
Or which way the river's flowing

Is it raining, is it snowing
Is a hurricane a–blowing

Not a speck of light is showing
So the danger must be growing
Are the fires of Hell a–glowing
Is the grisly reaper mowing

Yes, the danger must be growing
For the rowers keep on rowing
And they're certainly not showing
Any signs that they are slowing.



KHÚC HÁT CHÈO THUYỀN



Vòng quanh thế giới khắp nơi,

Rồi về lại bến – thói đời thủy nhân.

Nhanh lên, mái rướn lần lần,

Nhanh hơn nữa nữa – bước chân rập rình…


Không ai biết lối đi quanh,

Không ai biết hướng dòng xanh ngược chiều.

Sông trôi chẳng rõ bao nhiêu,

Chèo đi chẳng biết cuối chiều về đâu.


Trời mưa? Trời tuyết? Gió gào?

Hay cơn bão lớn đang vào cuồng quay?

Không tia sáng lọt tầm tay –

Nên nguy hiểm chắc đang đầy đằng xa.


Hỏa ngục chói rực như ma?

Tử thần lưỡi hái lùa qua bãi mìn?

Vâng, tai họa mỗi lúc gần,

Nhưng người chèo vẫn chẳng ngừng mái tay.


Chẳng hề chậm lại phút giây,

Không ai biểu lộ chút lay chuyển lòng…



St IVES


As I was going to St Ives
I met a man with seven wives
Said he, 'I think it's much more fun
Than getting stuck with only one.'



ST IVES


Trên đường đến xứ St Ives,

Tôi gặp một ông – bảy bà vợ sánh vai.

Ông bảo: “Vui gấp bội phần,

Hơn là kẹt với… chỉ cần một cô!”



PURE IMAGINATION 



Come with me and you'll be
In a world of pure imagination
Take a look and you'll see
Into your imagination

We'll begin with a spin
Trav'ling in the world of my creation
What we'll see will defy
Explanation


If you want to view paradise
Simply look around and view it
Anything you want to, do it
Want to change the world, there's nothing to it

There is no life I know
To compare with pure imagination
Living there, you'll be free
If you truly wish to be



There is no life I know
To compare with pure imagination
Living there, you'll be free
If you truly wish to be.




THẾ GIỚI TƯỞNG TƯỢNG


Hãy theo tôi, bạn sẽ vào

Thế giới mộng đẹp ngọt ngào chiêm bao.

Nhìn quanh bạn sẽ thấy ngay

Chính trí tưởng tượng dựng xây điều này.


Ta bắt đầu xoay vòng nhanh,

Lang thang trong cõi mộng lành của tôi.

Những gì ta thấy, bạn ơi,

Không lời nào tả được nơi tuyệt trần.


Nếu bạn muốn ngắm thiên đường,

Chỉ cần ngước mắt – chẳng đường nào xa.

Muốn làm gì, cứ bước ra,

Muốn thay đổi thế giới – theo ta mà làm !


Không đời sống nào sánh ngang

Với trí tưởng tượng mênh mang tuyệt vời.

Sống nơi ấy, bạn thảnh thơi,

Nếu lòng bạn thật sự mời giấc mơ.


Không đời sống nào sánh ngang

Với trí tưởng tượng mênh mang tuyệt vời.

Sống nơi ấy, bạn thảnh thơi,

Nếu lòng bạn thật sự mời giấc mơ…



MY TEACHER WASN’T HALF AS YOURS SEEMS TO BE



'My teacher wasn't half as nice as yours seems to be.
His name was Mister Unsworth and he taught us history.
And when you didn't know a date he'd get you by the ear
And start to twist while you sat there quite paralysed with fear.
He'd twist and twist and twist your ear and twist it more and more.
Until at last the ear came off and landed on the floor.
Our class was full of one-eared boys. I'm certain there were eight.
Who'd had them twisted off because they didn't know a date.
So let us now praise teachers who today are all so fine
And yours in particular is totally divine.'



THẦY TÔI ĐÂU BẰNG THẦY CỦA BẠN



Thầy tôi chẳng tốt như thầy bạn,

Tên ông Unsworth – dạy sử toàn.

Lỡ quên ngày tháng là ông bấu,

Véo tai xoay mạnh chẳng thương oan.


Véo rồi lại véo, xoay không dứt,

Cho đến khi tai đứt, rơi ngang.

Lớp tôi đầy đủ trai một lỗ,

Tám đứa mất tai chẳng rõ ngày!


Thôi ta hãy ngợi khen thầy giáo,

Thầy nay hiền hậu chẳng ai sánh.

Riêng thầy của bạn – ơ tuyệt diệu!

Thật là thần thánh, tuyệt trần sanh!



MARY, MARY, QUITE CONTRARY



Mary, Mary, quite contrary
How does your garden grow?
'I live with my brat in a high-rise flat,
So how in the world would I know.'




MARY, MARY – KHÁC NGƯỜI THẾ ĐẤY



Mary, Mary, cô trái tính,

Vườn hoa em trồng có xinh?

“Em sống giữa lầu cao ngất,

Làm sao biết vườn mọc hình?”

Biết chi hoa lá cỏ cây?”



LITTLE RED RIDING HOOD AND THE WOLF



As soon as Wolf began to feel
That he would like a decent meal,
He went and knocked on Grandma's door.
When Grandma opened it, she saw
The sharp white teeth, the horrid grin,
And Wolfie said, 'May I come in?'
Poor Grandmamma was terrified,
'He's going to eat me up!' she cried.
And she was absolutely right.
He ate her up in one big bite.
But Grandmamma was small and tough,
And Wolfie wailed, 'That's not enough!
I haven't yet begun to feel
That I have had a decent meal!'
He ran around the kitchen yelping,
'I've got to have a second helping!'

Then added with a frightful leer,
'I'm therefore going to wait right here
Till Little Miss Red Riding Hood
Comes home from walking in the wood.'

He quickly put on Grandma's clothes,
(Of course he hadn't eaten those).
He dressed himself in coat and hat.
He put on shoes, and after that,
He even brushed and curled his hair,
Then sat himself in Grandma's chair.

In came the little girl in red.
She stopped. She stared. And then she said,
'What great big ears you have, Grandma.'
'All the better to hear you with,'
the Wolf replied.
'What great big eyes you have, Grandma.'
said Little Red Riding Hood.
'All the better to see you with,'
the Wolf replied.
He sat there watching her and smiled.
He thought, I'm going to eat this child.
Compared with her old Grandmamma,
She's going to taste like caviar.

Then Little Red Riding Hood said, '
But Grandma, what a lovely great big
furry coat you have on.'

'That's wrong!' cried Wolf.
'Have you forgot
To tell me what BIG TEETH I've got?
Ah well, no matter what you say,
I'm going to eat you anyway.'

The small girl smiles. One eyelid flickers.
She whips a pistol from her knickers.
She aims it at the creature's head,
And bang bang bang, she shoots him dead.

A few weeks later, in the wood,
I came across Miss Riding Hood.
But what a change! No cloak of red,
No silly hood upon her head.
She said, 'Hello, and do please note
My lovely furry wolfskin coat.'



CÔ BÉ QUÀNG KHĂN ĐỎ VÀ SÓI


Vừa khi đói bụng cồn cào,

Sói ta nghĩ đến miếng nào ngon ghê.

Tới nhà bà, hắn gõ khe,

Bà vừa hé cửa, đã tê cả hồn.


Răng thì trắng, cười thì gian,

Sói rên: “Cho hỏi, vào trong được không?”

Bà run rẩy, thét vang phòng:

“Nó ăn thịt ta!” – đúng không chút ngờ.


Một miếng… bà chẳng kịp mơ,

Bị nuốt chửng sạch như giờ ăn trưa.

Nhưng mà bà dẻo dai cơ,

Sói than: “Chưa đủ! Phải mơ bữa sau!”


Hắn chạy quanh bếp gào thâu:

“Cần ăn nữa mới thành bữa đàng hoàng!”

Bèn ngồi đợi – vẻ đoan trang,

Đợi cô bé nhỏ lang thang rừng chiều.


Áo bà còn, Sói chưa tiêu,

Hắn bèn khoác lấy – đóng vai rất tài.

Chải đầu, đội mũ, xỏ giày,

Vào ngồi ghế giữa giả nai ngóng chờ.


Cô bé tới, đỏ như mơ,

Vừa trông thấy “bà”, khẽ thỏ thẻ ngay:

“Tai bà to thế kia này?”

“Để nghe cháu rõ những lời dịu êm.”


“Còn đôi mắt… sáng như đèn?”
“Nhìn cháu cho rõ – dịu hiền dễ thương!”

Sói ngồi cười rất bất thường,

Lẩm bẩm: “Cháu nhỏ thơm hương thịt mềm!”


“Áo bà sao lắm lông êm?”

Sói gầm: “Sao cháu chẳng xem… răng to?

Mặc cho cháu nói gì cho,

Ta ăn cháu đấy – khỏi lo chuyện gì!”


Nhưng cô bé chỉ cười khì,

Rút ngay súng nhỏ dấu đi trong quần.

Nhắm vào đầu Sói thật nhanh,

Bùm! Bùm! Bùm! – hắn tan tành xác tro.


Vài tuần sau, giữa rừng xanh,

Tôi trông thấy bé loanh quanh lối này.

Nhưng ôi! Thay đổi lạ thay,

Không còn áo đỏ, khăn bay trên đầu.


Bé cười: “Chào nhé bác ơi,

Ngắm tấm áo sói, em thời mới may!”





THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 8 / 2025

Nguồn:


https://www.poemhunter.com/roald-dahl/

Aucun commentaire: