CÂU CHUYỆN CỦA MỘT LƯƠNG TÂM
Ambrose Bierce
( 1842 - 1914 )
Được biết đến với lối châm biếm hóm hỉnh và cái nhìn cay độc về bản chất con người, Ambrose Bierce đã được gán cho biệt danh “Bitter Bierce” (Bierce Cay Nghiệt). Tư duy giễu cợt đầy mỉa mai của ông thể hiện rõ rệt trong The Devil’s Dictionary (Từ điển của Quỷ), một tác phẩm từng được xuất bản dưới tựa đề The Cynic’s Word Book (Sách Từ của Kẻ Hoài Nghi). Cuốn sách hài hước và thường xuyên đầy những quan sát sắc sảo này luôn đáng để người đọc ghé thăm một cách tùy hứng, khi Bierce thay phiên tung ra những tuyên bố chấn động về bản chất con người và đời sống thường nhật.
Với tư cách là một nhà văn truyện ngắn, Bierce đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm quý giá. Truyện ngắn nổi tiếng và được đọc nhiều nhất của ông, An Occurrence at Owl Creek Bridge (Một Sự Việc Ở Cầu Owl Creek), được viết một cách xuất sắc. Chúng tôi khuyến khích học sinh và giáo viên sử dụng Hướng dẫn học tập của chúng tôi để hiểu rõ hơn giá trị của truyện này. Không cần đến chuyên gia, người đọc cũng có thể cảm nhận được phẩm chất của nó; nhưng để thêm phần chắc chắn, nhà văn Kurt Vonnegut Jr. từng xem An Occurrence at Owl Creek Bridge là truyện ngắn vĩ đại nhất của Mỹ và là một kiệt tác hoàn hảo của thiên tài văn học Hoa Kỳ. Dù có phần dễ đoán hơn, nhưng chúng tôi cũng đề cử A Horseman in the Sky (Kỵ Sĩ Trên Trời) như một tác phẩm mang dấu ấn thiên tài văn chương. Toàn bộ tác phẩm của Bierce là một mẫu mực cho thể loại Hiện thực (Realism).
Năm 1913, trong thời kỳ diễn ra cuộc Cách mạng Mexico, Bierce đến Mexico để trực tiếp trải nghiệm cuộc xung đột. Ông đã biến mất không để lại dấu vết khi đang đồng hành cùng quân nổi dậy. Có tin đồn rằng ông đã bị thủ lĩnh nổi dậy Pancho Villa sát hại vào đầu năm 1914, nhưng điều này vẫn chỉ là suy đoán. Trước khi mất tích một cách bí ẩn, Bierce từng phục vụ trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ với tư cách là lính thuộc Trung đoàn số 9 của bang Indiana trong phe Liên bang (Union). Ông đã thu hút sự chú ý của báo chí sau trận chiến đầu tiên ở Philippi vì hành động dũng cảm cứu một đồng đội bị thương nặng trong trận Rich Mountain dưới làn đạn. Ông được xem là một trong những nhà văn lớn hiếm hoi viết về Nội chiến Mỹ mà có trải nghiệm thực sự với tư cách là một người lính. Bierce bị thương ở đầu trong trận Kennesaw Mountain năm 1864, phải tạm nghỉ phép và sau đó rời quân đội. Sau này, ông được phong cấp trung úy trong quân đội tại San Francisco, nơi ông sống nhiều năm và trở nên nổi tiếng với vai trò là cộng tác viên và biên tập viên cho một số tờ báo và tạp chí địa phương. Bierce trở thành một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất tại Bờ Tây nước Mỹ, làm việc cho The San Francisco Examiner của William Randolph Hearst, bắt đầu từ năm 1887, khi ông cho ra mắt chuyên mục “The Prattle” (Những lời tán gẫu), một loạt bài chỉ trích sắc bén khiến tờ báo vướng vào không ít tranh cãi mà chính Hearst phải ra mặt giải quyết.
Những truyện ngắn của Bierce thường dựa trên những điều khủng khiếp ông từng chứng kiến trong chiến tranh, đặc biệt là các truyện như The Boarded Window (Khung Cửa Đóng Kín), Killed at Resaca (Chết ở Resaca), và Chickamauga.
Bên cạnh truyện chiến tranh và truyện ma, Bierce còn xuất bản nhiều tập thơ. Ông ưa chuộng phong cách trào phúng pha chất kinh dị, thể hiện rõ trong tập Fantastic Fables (Những Ngụ Ngôn Kỳ Quái), tiếp nối bằng tác phẩm nổi tiếng hơn, The Devil’s Dictionary (Từ điển của Quỷ), được hình thành từ những mẩu tin báo chí ngắn. Cuốn sách châm biếm này ra mắt năm 1906 và chiếm trọn tập thứ bảy trong bộ 12 tập Collected Works (Tuyển Tập Tác Phẩm) xuất bản năm 1909.
Ít nhất ba bộ phim đã được thực hiện dựa trên An Occurrence at Owl Creek Bridge: The Bridge, một bộ phim câm năm 1929, và hai phiên bản thuộc loạt phim The Twilight Zone vào năm 1964, một bằng tiếng Pháp, một bằng tiếng Anh. Gần đây hơn, loạt phim truyền hình Lost của kênh ABC cũng có một tập mang tên “The Long Con” (Vụ Lừa Dài Hơi) lấy cảm hứng từ truyện ngắn của Bierce.
Ambrose Bierce, cây bút châm biếm nổi tiếng với biệt danh “Bitter Bierce,” không chỉ để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học Mỹ với The Devil’s Dictionary, mà còn với hàng loạt truyện ngắn mang màu sắc chiến tranh, tăm tối và đầy ám ảnh. Một trong những tác phẩm nổi bật là câu chuyện về viên đội trưởng Hartroy và người gián điệp Brune, một cuộc chạm trán bất ngờ giữa hai con người từng gắn bó trong một hoàn cảnh đầy nghịch lý của chiến tranh. Qua cuộc gặp gỡ này, Bierce không chỉ kể một câu chuyện về chiến tranh và gián điệp, mà còn đi sâu vào bản chất của lương tâm, công lý, và sự trả ơn không thể trả. Truyện là minh chứng rõ ràng cho cái nhìn đầy hoài nghi và cay đắng của Bierce về con người trong guồng xoáy vô cảm của chiến tranh.
Ngay từ những dòng đầu của truyện, người đọc đã nhận ra sự mâu thuẫn giữa luật lệ của chiến tranh và lương tâm cá nhân. Brune bị bắt khi đang làm gián điệp, mang giấy thông hành giả, và theo quy định quân sự, phải bị “xử bắn ngay lập tức.” Tuy nhiên, viên đội trưởng Hartroy, người ra lệnh hành quyết, sớm nhận ra Brune chính là người từng cứu mạng mình trong quá khứ—bằng cách vi phạm chính mệnh lệnh tương tự: ngủ gật khi đang làm nhiệm vụ gác một tù nhân. Bierce đẩy người đọc vào một tình huống trớ trêu: người lính từng bị xử bắn đã tha chết cho người canh giữ mình, để rồi giờ đây lại bị chính người ấy ra lệnh xử tử.
Trong thế giới của Bierce, chiến tranh là nơi mà lý trí và đạo đức thường bị gạt sang một bên. Hartroy, dù bị giằng xé bởi mặc cảm tội lỗi và sự biết ơn sâu sắc, cuối cùng vẫn làm theo đúng quy định quân sự: xử tử gián điệp. Bi kịch không chỉ nằm ở cái chết của Brune, mà còn ở chính Hartroy, người cuối cùng cũng dùng súng kết liễu đời mình như một cách chuộc tội. Cả hai đều chết—không phải bởi tay quân thù, mà bởi cái gọi là “kỷ luật” và “nghĩa vụ.” Bierce cho thấy chiến tranh không cần kẻ ác để giết người; nó chỉ cần con người thực thi mệnh lệnh.
Brune không bao giờ đòi hỏi hay nhắc đến ân nghĩa xưa. Trái lại, anh im lặng chấp nhận cái chết như một kết quả tất yếu, không van xin, không trách móc. Điều này càng khiến Hartroy cảm thấy tội lỗi sâu sắc. Người đọc nhận thấy sự tôn nghiêm trong phẩm giá của Brune và sự sụp đổ từ từ của Hartroy dưới sức nặng của lương tâm. Bi kịch mà Bierce dựng lên không nằm ở sự thất bại của lý trí hay cảm xúc, mà là ở sự bất lực trước vòng xoáy của bổn phận và định mệnh. Lòng tốt từng có, giờ trở thành lưỡi dao quay ngược lại người đã ban nó.
Câu chuyện về Hartroy và Brune là một lát cắt đầy u uẩn về bản chất con người giữa chiến tranh: nơi mà lương tâm, công lý, và tình người va đập nhau không khoan nhượng. Ambrose Bierce, với giọng văn lạnh lùng và sắc sảo, không tìm cách an ủi người đọc bằng cái kết có hậu. Ông để cả hai nhân vật chính chết đi, chôn vùi trong bóng tối của một ngọn núi không còn biết đến chiến tranh. Nhưng chính sự im lặng cuối cùng ấy lại là lời kết đanh thép: chiến tranh không giết chết thân xác—nó giết chết lòng người.
* * *
Trong câu chuyện thời Nội chiến này, một gián điệp của phe Liên minh miền Nam, Dramer Brune, bị bắt phía sau chiến tuyến của kẻ địch với một giấy thông hành giả. Bất kỳ ai lạm dụng đặc quyền của giấy thông hành đều sẽ bị “xử bắn ngay lập tức.” Nhưng có một bước ngoặt khiến lương tâm của người bắt giữ bị lay động—khi anh ta nhận ra rằng người gián điệp đang đứng trước mặt chính là người từng cứu mạng mình nhiều năm về trước. Liệu ân tình đó có được đáp lại?
I
Đại úy Parrol Hartroy đang đứng tại một tiền đồn tiên phong của đội cận vệ, trò chuyện khe khẽ với người lính gác. Đồn này nằm trên con đường chính cắt ngang qua doanh trại của đại úy, cách đó khoảng nửa dặm, dù từ đây không thể nhìn thấy trại. Vị sĩ quan dường như đang chỉ thị cho người lính, hoặc có thể chỉ đơn thuần hỏi xem tình hình phía trước có yên ổn không. Khi hai người đang trò chuyện, có một người đàn ông từ hướng doanh trại đi tới, vừa đi vừa huýt sáo một cách thờ ơ, và lập tức bị người lính chặn lại.
Người đàn ông rõ ràng là một thường dân, một người cao lớn, ăn mặc thô sơ trong bộ quần áo tự dệt màu vàng xám, gọi là “butternut”, trang phục duy nhất còn lại cho nam giới trong những ngày cuối cùng của Liên minh miền Nam (Confederacy). Trên đầu ông ta là một chiếc mũ nỉ mềm đã từng có màu trắng, dưới vành mũ rủ xuống những lọn tóc không đều, có vẻ như đã lâu không biết đến kéo hay lược. Khuôn mặt của người này khá đặc biệt: trán rộng, mũi cao và gò má hóp; miệng bị che khuất trong bộ râu đen rậm, dường như cũng bị lãng quên như mái tóc. Đôi mắt ông ta to và có vẻ chăm chú, ánh nhìn ổn định và không lay chuyển – nét điển hình thường thấy ở những người suy tư, kiên định – ít nhất theo các nhà nhân tướng học có đôi mắt như vậy. Nhìn chung, đây là một người khiến người khác phải chú ý, và bản thân ông ta cũng dễ nhận ra người khác.
Ông ta mang theo một cây gậy đi đường, mới chặt từ rừng, và đôi ủng da bò đã rách sờn phủ đầy bụi trắng.
“Trình giấy thông hành!”, người lính Liên bang yêu cầu, giọng có phần hách dịch hơn mức cần thiết, có lẽ vì đang bị cấp trên quan sát, người đang khoanh tay đứng bên vệ đường.
“Tưởng ngài nhớ ra tôi rồi chứ, Tướng quân,” người lữ khách điềm nhiên đáp, vừa lôi tờ giấy ra từ túi áo. Có điều gì đó trong giọng nói ông ta – có lẽ là chút mỉa mai thoáng qua – khiến cho việc nâng vị chỉ huy kia lên hàm “tướng” không hề dễ chịu như sự thăng chức thường thấy.
“Chắc là quý vị phải kỹ tính lắm, tôi hiểu mà,” ông ta thêm vào, giọng bớt châm chọc hơn, như thể xin lỗi nửa vời vì bị giữ lại kiểm tra.
Người lính, đang chống súng xuống đất, đọc qua giấy thông hành, rồi không nói gì, trả lại giấy, khoác súng lên vai và quay lại chỗ chỉ huy của mình. Người thường dân tiếp tục đi giữa đường. Khi ông ta đã đi sâu vài bước vào phần lãnh thổ Liên minh miền Nam xung quanh, lại tiếp tục huýt sáo và chẳng mấy chốc khuất bóng sau một khúc quanh nơi con đường tiến vào một khu rừng thưa.
Đột ngột, viên sĩ quan hạ tay khỏi ngực, rút súng ngắn từ thắt lưng và phóng theo hướng người kia vừa đi, chạy thật nhanh, bỏ lại người lính gác còn đang há hốc kinh ngạc tại vị trí của mình. Sau khi thề độc với mọi sinh vật hiện hữu quanh đó rằng sẽ bị nguyền rủa, người lính ấy lại lấy lại vẻ mặt đờ đẫn – trạng thái được cho là thích hợp với tư thế cảnh giác trong quân ngũ.
II
Đại úy Hartroy nắm quyền chỉ huy độc lập. Lực lượng của ông bao gồm một đại đội bộ binh, một phân đội kỵ binh, và một đơn vị pháo binh nhỏ, được tách khỏi đại quân chính để bảo vệ một hẻm núi quan trọng trong dãy Cumberland ở bang Tennessee. Đây vốn là vị trí chỉ dành cho sĩ quan cấp trường (field officer), nhưng ông là một sĩ quan tuyến đầu (line officer) được thăng chức từ hàng ngũ binh lính sau thời gian phục vụ thầm lặng cho đến khi được “phát hiện”.
Vị trí của ông đặc biệt nguy hiểm; việc phòng thủ ở đây đi kèm với trách nhiệm nặng nề, và ông đã khôn ngoan khi được giao quyền tự quyết tương ứng – điều càng cần thiết hơn vì khoảng cách xa với đại quân, liên lạc khó khăn, và vùng này lại đầy rẫy bọn quân phiến loạn và vô luật pháp của địch. Ông đã kiên cố hóa doanh trại nhỏ của mình – gồm một ngôi làng với khoảng nửa tá ngôi nhà và một cửa hàng tạp hóa – và tích trữ được một lượng lương thực đáng kể.
Với một vài thường dân trong vùng có lòng trung thành đã được kiểm chứng, những người mà ông cần giao thương và đôi khi trưng dụng vào các việc khác, ông đã cấp giấy thông hành bằng văn bản cho phép họ đi vào trong hàng rào phòng thủ. Dễ hiểu rằng nếu đặc quyền này bị lợi dụng để phục vụ cho kẻ địch thì hậu quả sẽ nghiêm trọng. Đại úy Hartroy đã ban hành một mệnh lệnh: bất kỳ ai lợi dụng giấy thông hành vì lợi ích của kẻ thù sẽ bị xử bắn ngay lập tức.
Khi người lính gác đang kiểm tra giấy thông hành của người dân thường kia, viên đại úy đã quan sát kỹ người này. Ông cảm thấy gương mặt ấy quen thuộc, và ban đầu không nghi ngờ gì rằng mình chính là người đã cấp giấy thông hành đó, giấy tờ mà người lính gác vừa chấp nhận. Chỉ đến khi người kia đã khuất dạng cả về hình và tiếng, thì một tia sáng của ký ức mới soi tỏ cho ông thấy danh tính thật sự của người đó. Với quyết đoán của một người lính, ông đã lập tức hành động theo sự giác ngộ đó.
III
Với bất kỳ ai không có sự điềm tĩnh phi thường, việc thấy một sĩ quan quân đội vũ trang đầy đủ – một tay cầm kiếm, tay kia lăm lăm súng lục đã lên đạn – đột nhiên lao đến truy đuổi đầy giận dữ, hẳn là một cảnh tượng gây khiếp đảm cực độ. Thế nhưng, với người đang bị truy đuổi trong trường hợp này, điều đó dường như chỉ khiến ông ta bình tĩnh hơn mà thôi.
Ông ta hoàn toàn có thể chạy vào rừng ở bên phải hoặc trái để thoát thân, nhưng đã chọn cách khác, quay lại và bình thản đối mặt với đại úy, nói khi người kia chạy tới gần:
“Tôi đoán chắc là ngài còn điều gì đó muốn nói với tôi, mà quên mất lúc nãy. Là chuyện gì vậy, ông bạn?”
Nhưng “người bạn” kia không đáp, đang bận làm việc không-mấy-bạn-bè là chĩa thẳng khẩu súng đã lên đạn vào ông ta. “Đầu hàng đi,” – đại úy nói, giọng vẫn bình thản dù hơi thở có phần gấp vì mệt – “bằng không anh sẽ chết.”
Không có lời đe dọa nào trong cách ông nói – tất cả sự đe dọa nằm ở chính nội dung câu nói, và ở khẩu súng đang sẵn sàng khai hỏa. Ngoài ra, cũng có điều gì đó không hoàn toàn khiến người khác an tâm trong ánh mắt xám lạnh lẽo đang lướt dọc theo nòng súng.
Trong một thoáng, hai người đứng lặng nhìn nhau. Rồi người dân thường – không chút sợ hãi, vẻ bình thản chẳng khác gì khi ông ta đưa giấy cho người lính gác – từ từ rút ra từ túi một tờ giấy, đưa ra và nói:
“Tôi nghĩ tờ giấy này của ông Hartroy –”
“Giấy thông hành đó là giả,” viên sĩ quan cắt ngang. “Tôi là đại úy Hartroy và anh là Dramer Brune.”
Phải có con mắt rất tinh mới nhận ra được sắc mặt nhợt đi thoáng qua của người đàn ông khi nghe những lời đó, và dấu hiệu duy nhất nữa cho thấy ông ta hiểu rõ ý nghĩa câu nói chính là việc buông nhẹ các ngón tay đang cầm tờ giấy giả. Tờ giấy rơi xuống đất, bị gió nhẹ cuốn lăn, rồi nằm yên, phủ một lớp bụi như để che đi lời nói dối mà nó mang theo.
Một lúc sau, người thường dân vẫn nhìn thẳng vào nòng súng mà không biểu lộ chút dao động nói:
“Đúng, tôi là Dramer Brune, một gián điệp của phe miền Nam, và là tù nhân của ngài. Trên người tôi, như ngài sắp phát hiện, có bản sơ đồ pháo đài và trang bị vũ khí của ngài, bản phân bổ quân số và vị trí, cùng bản đồ các lối tiếp cận – ghi rõ vị trí của tất cả các đồn gác của ngài. Mạng sống tôi hoàn toàn thuộc về ngài. Nhưng nếu ngài muốn xử tôi một cách chính thức hơn thay vì tự tay bắn, và nếu ngài có thể tha cho tôi khỏi bị bẽ mặt vì phải bị áp giải về doanh trại dưới họng súng, tôi xin hứa sẽ không chống cự, không trốn thoát, không van xin – tôi sẽ chấp nhận bất kỳ hình phạt nào được đưa ra.”
Viên đại úy hạ súng, hủy lên đạn, và đút lại vào thắt lưng. Brune bước lên một bước, chìa tay phải ra:
“Đây là bàn tay của một kẻ phản bội và gián điệp,” viên sĩ quan lạnh lùng nói, và không bắt tay. Người kia cúi đầu.
“Đi thôi,” đại úy nói “chúng ta về trại. Anh sẽ không bị xử tử cho đến sáng mai.”
Ông quay lưng về phía tù binh. Hai người đàn ông đầy bí ẩn ấy cùng nhau quay lại, và chẳng mấy chốc họ đã đi ngang qua chốt gác. Người lính gác, để bày tỏ cảm giác chung của mình, đã chào cấp trên một cách thái quá và hoàn toàn không cần thiết.
IV
Vào sáng sớm hôm sau sau những sự kiện ấy, hai người đàn ông, kẻ bắt giữ và kẻ bị bắt, ngồi trong lều của người trước. Giữa họ là một chiếc bàn, trên đó có nhiều bức thư, cả công vụ lẫn riêng tư, mà viên đội trưởng đã viết trong đêm, cùng những tài liệu buộc tội tìm thấy trong người tên gián điệp. Người kia đã ngủ suốt đêm trong một chiếc lều kề bên, không có ai canh giữ. Cả hai sau bữa sáng, đang hút thuốc.
“Ông Brune,” đội trưởng Hartroy nói, “có lẽ ông không hiểu tại sao tôi nhận ra ông dù ông cải trang, cũng như vì sao tôi biết tên thật của ông.”
“Tôi chưa từng cố tìm hiểu, thưa đội trưởng,” người tù đáp lại với vẻ điềm tĩnh đầy khí phách.
“Tuy vậy, tôi vẫn muốn ông biết, nếu như câu chuyện này không khiến ông phật ý. Ông sẽ thấy rằng tôi biết ông từ mùa thu năm 1861. Khi ấy ông là một binh nhì trong một trung đoàn Ohio, một người lính dũng cảm và đáng tin cậy. Việc ông đào ngũ và đi theo kẻ thù khiến các sĩ quan và đồng đội của ông hết sức sửng sốt và đau buồn. Không lâu sau đó, ông bị bắt trong một cuộc chạm trán nhỏ, bị nhận diện, bị đưa ra tòa án binh và bị kết án xử bắn. Trong thời gian chờ thi hành án, ông bị giam, không bị xiềng xích, trong một toa tàu hàng đậu trên đường nhánh của tuyến đường sắt.”
“Ở Grafton, Virginia,” Brune nói, phủi tàn xì gà bằng ngón út cầm điếu, mà không hề ngẩng đầu lên.
“Ở Grafton, Virginia,” đội trưởng lặp lại. “Vào một đêm tối tăm và bão tố, một người lính vừa trở về sau cuộc hành quân dài và mệt mỏi được giao canh gác ông. Anh ta ngồi trên một thùng bánh quy bên trong toa xe, gần cửa, súng đã lên đạn và gắn lưỡi lê. Ông ngồi ở góc, và anh ta được lệnh bắn nếu ông cố đứng dậy.”
“Nhưng nếu tôi xin phép được đứng thì anh ta có thể gọi hạ sĩ quan trực gác.”
“Phải. Khi những giờ dài im lặng trôi qua, người lính ấy không cưỡng lại được cơn buồn ngủ: chính anh ta đã vi phạm quân lệnh và có thể bị xử tử vì ngủ gật khi làm nhiệm vụ.”
“Chính là anh.”
“Cái gì! Ông nhận ra tôi à? Vậy ông đã biết tôi từ đầu sao?”
Đội trưởng đã đứng dậy và đi qua đi lại trong lều, rõ ràng xúc động. Gương mặt ông đỏ bừng, đôi mắt xám đã mất đi vẻ lạnh lùng và tàn nhẫn như khi Brune nhìn thấy chúng qua nòng súng; chúng đã dịu lại một cách lạ kỳ.
“Tôi nhận ra anh,” người gián điệp nói với vẻ điềm nhiên thường thấy, “ngay khi anh đối mặt tôi, yêu cầu tôi đầu hàng. Trong hoàn cảnh đó, tôi không thấy phù hợp để gợi lại những chuyện cũ. Có thể tôi là kẻ phản bội, chắc chắn là một gián điệp; nhưng tôi không muốn tỏ ra là kẻ van xin.”
Đội trưởng dừng bước, quay mặt về phía tù nhân. Giọng ông khàn đi một cách lạ thường khi nói tiếp:
“Ông Brune, dù lương tâm ông cho phép ông là ai đi nữa, thì ông đã cứu mạng tôi trong hoàn cảnh mà ông phải tin rằng mình sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Cho đến khi thấy ông hôm qua khi bị lính gác của tôi chặn lại, tôi vẫn tin rằng ông đã chết, rằng ông đã chịu cái số phận mà vì tội lỗi của tôi, ông hoàn toàn có thể tránh được. Ông chỉ cần bước ra khỏi toa xe và để tôi thế chỗ ông trước đội xử bắn. Ông đã có một lòng từ bi thánh thiện. Ông thương xót sự mệt mỏi của tôi. Ông để tôi ngủ, canh chừng cho tôi, và khi thời điểm đến gần mà toán lính thay gác có thể phát hiện tôi đang ngủ gật, ông nhẹ nhàng đánh thức tôi. Ôi, Brune, Brune, việc đó thật đáng khâm phục, thật cao cả thật…”
Giọng đội trưởng nghẹn lại; nước mắt tuôn rơi trên mặt ông, lấp lánh trên bộ râu và ngực ông. Ông ngồi lại bên bàn, vùi mặt vào tay và khóc nức nở. Không gian rơi vào im lặng.
Bất chợt, tiếng kèn trong vắt vang lên, báo hiệu “tập hợp.” Đội trưởng giật mình, ngẩng khuôn mặt đẫm nước mắt khỏi tay; sắc mặt ông tái nhợt như xác chết. Bên ngoài, dưới ánh nắng, là âm thanh binh lính vào hàng; tiếng các hạ sĩ gọi tên điểm danh; tiếng trống lách cách khi người lính giương trống cho vững. Đội trưởng lại cất tiếng:
“Lẽ ra tôi phải thú nhận lỗi lầm của mình để kể câu chuyện về sự rộng lượng của ông; điều đó có thể giúp ông được ân xá. Đã hàng trăm lần tôi định làm như vậy, nhưng nỗi xấu hổ ngăn tôi lại. Hơn nữa, bản án dành cho ông là công bằng và chính đáng. Thôi thì, cầu Chúa tha thứ cho tôi! Tôi đã không nói gì, và trung đoàn tôi sau đó được điều đi Tennessee, tôi không còn nghe tin tức gì về ông nữa.”
“Thưa ông, mọi chuyện đều ổn cả,” Brune nói, vẫn không biểu lộ cảm xúc gì; “tôi đã trốn thoát và trở lại hàng ngũ, hàng ngũ Liên minh miền Nam. Tôi cũng muốn nói thêm rằng trước khi đào ngũ khỏi quân đội Liên bang, tôi đã tha thiết xin được giải ngũ vì thay đổi niềm tin. Tôi bị trả lời bằng hình phạt.” “À, nhưng nếu tôi đã phải chịu tội lỗi của mình—nếu ông không quảng đại ban cho tôi mạng sống mà tôi đã đón nhận mà không chút biết ơn—thì giờ đây ông đã không phải một lần nữa đứng trong bóng tối và sự cận kề của cái chết.”
Người tù khẽ giật mình và vẻ lo lắng hiện lên trên gương mặt anh. Người ta cũng có thể nói rằng anh đã bất ngờ. Đúng lúc đó, một trung úy, sĩ quan phụ tá, xuất hiện trước cửa lều và chào theo điều lệnh. “Thưa đội trưởng,” anh ta nói, “tiểu đoàn đã vào hàng.”
Đội trưởng Hartroy đã lấy lại bình tĩnh. Ông quay sang viên sĩ quan và nói: “Trung úy, hãy đến gặp đội trưởng Graham và nói rằng tôi chỉ thị ông ấy tiếp nhận quyền chỉ huy tiểu đoàn và duyệt binh ngoài chiến tuyến. Quý ông đây là kẻ đào ngũ và gián điệp; anh ta sẽ bị xử bắn trước sự chứng kiến của toàn đơn vị. Anh ta sẽ đi cùng anh, không bị trói, cũng không có ai canh giữ.”
Trong khi sĩ quan phụ tá đứng chờ ở cửa, hai người trong lều đứng dậy và trao nhau một cái cúi chào nghiêm trang, Brune lặng lẽ rời đi ngay sau đó.
Nửa giờ sau, một đầu bếp da đen già, là người duy nhất còn lại trong trại ngoài viên chỉ huy, giật mình đánh rơi cái nồi mà ông đang nhấc khỏi bếp khi nghe tiếng súng đồng loạt nổ vang. Nếu không vì quá hoảng hốt và tiếng xèo xèo của nước đổ vào than hồng, có lẽ ông cũng đã nghe thấy, ở gần hơn, tiếng súng lục đơn độc—phát súng mà đội trưởng Hartroy dùng để từ bỏ mạng sống mà lương tâm ông không cho phép ông giữ lại nữa.
Làm theo lời dặn trong bức thư mà ông để lại cho người kế nhiệm chỉ huy, ông được chôn cất, như kẻ đào ngũ và gián điệp kia, không có bất kỳ nghi lễ quân sự nào; và trong bóng tối uy nghiêm của ngọn núi không còn biết đến chiến tranh, hai người họ yên nghỉ trong những ngôi mộ đã từ lâu bị lãng quên.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch và giới thiệu
Tháng 8 / 2025
Nguồn:
https://americanliterature.com/author/ambrose-bierce/short-story/the-story-of-a-conscience/
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire