mardi 28 décembre 2010

samedi 18 décembre 2010

mardi 14 décembre 2010

JACQUES PRÉVERT


JACQUES PRÉVERT, nhà thơ của tự do
( 1900 - 1977 )



Phải nói gì đây để giới thiệu JACQUES PRÉVERT ?

Một tác giả chuyên viết kịch bản và đối thoại cho phim ảnh ? Một nhà văn viết truyện thiếu nhi ? Một kịch tác gia sáng tác và phóng tác nhiều vở kịch cho Nhóm Kịch Tháng Mười ? Một người yêu hội họa, bạn thân của các danh họa Braque, Picasso, Max Ernst… , tự minh họa nhiều sách của mình, từng sáng tác và triển lãm tranh cắt dán ? Một nhà thơ lúc nhỏ chỉ ngồi trên ghế nhà trường đến 15 tuổi mà về sau có tác phẩm được đưa vào sách giáo khoa làm tài liệu học tập cho bao nhiêu thế hệ người học tiếng Pháp ? Một tác giả ca từ của hàng chục bản nhạc được những giọng ca hàng đầu của làng âm nhạc Pháp giới thiệu từ nửa thế kỷ nay và được người yêu nhạc khắp nơi trên thế giới thuộc nằm lòng, kể cả qua các bản dịch ?

Chân dung của JACQUES PRÉVERT đã được khắc họa qua những lĩnh vực đa dạng và phong phú như thế. Sinh ra cùng với thế kỷ XX và sống đến 3/4 thế kỷ này, JACQUES PRÉVERT đã để lại cho đời những dấu vết sâu đậm. Năm 1992, mười lăm năm sau khi Ông qua đời, toàn bộ tác phẩm của Ông đã được in trong Tủ sách Pléiade, một tủ sách “sang trọng” dành cho những tác giả mà tài năng và danh tiếng đã được thừa nhận. Tập thơ Paroles ( Lời nói ) xuất bản lần đầu vào tháng 5 năm 1946, chỉ một tuần sau đã in thêm 5000 bản, đến nay vẫn còn tái bản và tính ra đã có hơn hai triệu bản in. Khắp nơi trên đất Pháp hiện nay có hàng trăm trường học mang tên Ông, chỉ tính riêng trường trung học ( collège / lycée ) có đến 309 trường.

Ngay từ năm 1925, Ông đã đồng hành cùng nhóm Siêu thực, cùng sáng tác và sinh hoạt với các nghệ sĩ của nhóm này như Raymond Queneau, Yves Tanguy, Marcel Duhamel, Louis Aragon và tất nhiên cả André Breton ; nhưng chẳng bao lâu, với bản tính thích độc lập và tự do sáng tạo, Ông đã sớm tách rời trường phái Siêu thực, tách rời mọi ràng buộc phái nhóm.

Trong thời gian từ 1932 đến 1936, Ông tham gia nhóm kịch Tháng Mười, viết nhiều vở kịch có nội dung khuynh tả, bênh vực những người bị áp bức, bóc lột. Nhóm thường trình diễn trong các khu lao động , các nhà máy, cửa hàng, đã từng sang Nga biểu diễn năm 1933. Năm 1950, Ông đã từng lên tiếng ủng hộ Henri Martin, người lính hải quân ( sau này là lãnh tụ của Đảng Cộng sản Pháp ) đứng ra rải truyền đơn kêu gọi nhân dân Pháp chống lại cuộc chiến tranh của Pháp tại Đông Dương. Thế nhưng, khác với Aragon, Ông không hề gia nhập đảng Cộng sản.

Đồng thời với việc viết kịch bản và đối thoại phim – khiến tên tuổi Ông gắn liền với tên tuổi của đạo diễn nổi tiếng Marcel Carné và các diễn viên lừng lẫy như Jean Gabin, Michèle Morgan – JACQUES PRÉVERT làm thơ khá sớm. Suốt thời gian từ 1929 đến 1945, thơ của Ông xuất hiện rải rác trong các tạp chí hoặc dưới dạng bản đánh máy. Mãi đến năm 1946, một người bạn thân của Ông là René Bertelé, phụ trách nhà xuất bản Le Point du Jour, mới tập hợp lại và cho ra mắt người đọc, lấy nhan đề là Paroles, mở đầu cho một loạt tác phẩm đều đặn xuất hiện sau đó : Histoires ( 1946 ), Spectacles ( 1951 ),Grand bal du printemps ( 1951 ), Charmes de Londres (1951 ), L’opéra de la lune ( 1953 ), La pluie et le beau temps ( 1955 ), Lumière d’homme (1955 ), Fatras ( 1966 ), Imaginaires ( 1972 ), Choses et autres ( 1972 ) , Hebdromadaires ( 1972 ) và, sau khi Ông mất, Soleil de nuit ( 1980 ), La cinquième saison ( 1984 ).

Ngay từ các tập đầu tiên, thơ JACQUES PRÉVERT đã chinh phục người đọc mọi lứa tuổi bằng một thứ ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu. Ông không coi trọng cú pháp, vần luật, diễn đạt nhẹ nhàng, hồn nhiên, có khi như là văn nói. Cái nhan đề PAROLES ( Lời nói ) cũng phần nào hàm chứa ý đó. Mà nhìn kỹ một chút thì PAROLES chính là anagramme ( sắp xếp, đảo lộn thứ tự các chữ cái ) của LA PROSE ( văn xuôi ) đó thôi. Cái xu hướng tự do của Ông trước hết thể hiện ở chỗ trong cùng một tác phẩm, Ông đưa vào đủ loại thơ : thơ có vần, thơ tự do, thơ kể chuyện, trữ tình, công kích, có bài như một tiểu phẩm ( saynète ), có những bài rất ngắn ( 3 câu, 4 câu ), có bài dài trên 30 trang ( La crosse en l’air / Gậy quyền chỉ lên trời ). Bài “ Les paris stupides / Những cuộc đánh cá xuẩn ngốc ) chỉ vỏn vẹn thế này :

Un certain Blaise Pascal

Etc..etc..

Một ông Blaise Pascal nào đó

v.v…v.v…

( Ý nghĩa bài này thế nào ? Chưa thấy ai « giải mã ». ).

Ông thoải mái sử dụng đủ mọi hình thức chơi chữ ( jeux de mots ) : điệp âm, đồng âm, lặp lại, nói lái, đảo ngược … Ông đặt tên cho một tác phẩm của mình là HEBDROMADAIRES. Đó là mot valise tức là một từ mới được tạo ra bằng cách ghép một/ vài âm tiết của một từ với một/ vài âm tiết của từ khác ( hebdomadaire + dromadaire ). Tương tự như thế Ông viết un alcolonel ( alcool+colonel ) … Ông chơi chữ với hình thức đồng âm ( homonymie ) : De deux choses lune / l’autre c’est le soleil. ( l’une – l’autre và lune. ) Cũng là đồng âm nhưng ví dụ sau đây thật là bất ngờ :

Les conquérants : Terre ... Horizon . Terrorisons.

Còn học trò Hamlet ( trong bài L’accent grave ) khi chia động từ « être » đã nói

Je suis ou je ne suis pas rồi tiếp : Je suis « où » je ne suis pas

và kết luận : Être « où » ne pas être / C’est peut-être aussi la question.

thì chỉ với một cái dấu accent grave, không chỉ thầy giáo mà cả Shakespeare cũng phải ngạc nhiên.

Bài CHANT SONG trong tập Spectacles không thể nào dịch được vì đây là kiểu chơi chữ đậm phong cách PRÉVERT :

Moon lune

chant song

rivière river

garden rêveur

petite house

little maison ....

Một vài câu trích dẫn ( citations ) Ông đưa ra cũng rất thú vị :

« Người phụ nữ là một tư tưởng, mạnh mẽ nhất của tạo hóa, nhưng là một tư tưởng hay nhảy nhót. » ( La femme est une pensée, la plus forte de la nature, mais c’est une pensée dansante).

( Ta không quên câu của Pascal : « Con người là một cây sậy, yếu đuối nhất của thiên nhiên, nhưng là một cây sậy biết suy tư. » ( « L’homme est un roseau, le plus faible de la nature, mais c’est un roseau pensant. » )

« Nếu lời nói là bạc và im lặng là vàng thì tiếng kêu của con tim là một hạt kim cương muôn màu muôn sắc. » ( Si la parole était d’argent et le silence d’or, le cri du cœur serait alors un diamant multicolore.)

« Khi sự thật không được tự do thì tự do không thật : những sự thật của cảnh sát là những sự thật của hôm nay. » ( Quand la vérité n’est pas libre la liberté n’est pas vraie : les vérités de la police sont les vérités d’aujourd’hui.)

« Có lẽ phải cố gắng hạnh phúc dầu chỉ là để làm gương » ( Il faut essayer d’être heureux, ne serait-ce que pour donner l’exemple. »

Một đặc trưng khác của ngôn ngữ PRÉVERT là việc dùng hàng loạt danh từ, tính từ liên tiếp nhau, tiêu biểu là bài Inventaire/ Liệt kê :

Một viên đá

Hai ngôi nhà

Ba phế tích

Bốn phu đào huyệt

Một khu vườn

Những bông hoa

Người đọc tưởng như đây chỉ là những liên tưởng ngẫu hứng, không có một trật tự, một ý tưởng nào. Nhưng đọc xuống đoạn sau :

Một ông đeo bắc đẩu bội tinh.

đi liền sau câu

Một cánh cửa với tấm thảm chùi chân

hoặc Một vị giáo sĩ một cái mụn nhọt...

thì chắc chắn không phải là ngẫu hứng nữa rồi.

Thế đó, JACQUES PRÉVERT viết như một nhà ảo thuật của ngôn từ nhưng điều này không có nghĩa là thơ Ông dễ dãi, hời hợt. Là người sớm vào đời lao động kiếm sống, Ông tỏ ra đồng cảm với những cảnh đời khốn khó, chia sẻ với những thân phận bị áp bức, bóc lột. Ông lớn tiếng chống lại những thế lực tước đi tự do và hạnh phúc của con người, và, ở đây, không có đề tài nào là cấm kỵ ( tabou ) đối với Ông.

Cho dù đó là tôn giáo :

Lạy Cha chúng tôi ở trên trời

Xin Người cứ ở đó

Còn chúng tôi, chúng tôi cứ ở dưới đất

Trái đất đôi khi rất xinh đẹp...

( Pater Noster )

Cho dù đó là vương quyền :

Louis XIV mà người ta còn gọi là Vua Mặt trời

Thường hay ngồi trên chiếc ghế thủng

Vào khoảng cuối triều đại mình

Một đêm trời tối đen

Vua Mặt trời bước ra khỏi giường

Đến ngồi trên chiếc ghế

Và mất hút.

( L’éclipse )

Ngược lại, Ông luôn ca ngợi tình yêu, thương yêu trẻ em, quan tâm đến thú vật – đấy là những chủ đề quen thuộc trong thơ JACQUES PRÉVERT.

Ông luôn nhắc đến thú vật trong thơ của mình, đặc biệt là loài chim. Chỉ riêng trong tập Paroles chim đã hiện diện trong hơn hai mươi bài. Chim có thể chịu một số phận bi thảm, chim bị mèo vồ ăn mất một nửa rồi được cả làng tổ chức cho một đám tang thật to ( Le chat et l’oiseau / Mèo và chim ), chim chết cả hàng ngàn con khi bay về từ hải đảo vì lóa mắt trước ánh sáng ngọn hải đăng nên va đập vào nhau ( Le gardien de phare aime trop les oiseaux / Người gác hải đăng quá yêu chim ). Nhưng chim bao giờ cũng là biểu tượng của tự do : Vẽ chim thì trước hết phải vẽ cái lồng với cánh cửa để mở, rồi khi chim tự bay vào lồng rồi thì hãy tháo gỡ dần từng chiếc chấn song, có thế chim mới cất tiếng hót ( Pour faire le portrait d’un oiseau / Để vẽ chân dung một con chim ). Chim phải được thoải mái bay chuyền từ cành này sang cành khác ( Le désespoir est assis sur un banc / Tuyệt vọng ngồi trên chiếc ghế băng ).

Càng yêu thương loài vật, Ông càng dành nhiều tình cảm cho tuổi thơ. Trẻ em không thể mãi là cậu học trò nhỏ cứ phải đứng trước lớp để cho « người ta hỏi nó / đủ mọi thứ vấn đề ». Trẻ em phải được quyền nói có với những gì mà nó thích, phải được lấy phấn đủ màu / trên tấm bảng thương đau / vẽ khuôn mặt hạnh phúc. ( Le cancre / Học trò lười ). Trẻ em không thể mãi bị tra tấn bởi những bài học nhàm chán hai với hai là bốn, bốn với bốn là tám ...khi mà từ bên ngoài lớp học tiếng chim hót vọng đến. Trẻ em phải được hát được chơi với chim để cho « tám với tám bỏ đi / và bốn với bốn và hai với hai / cũng lần lượt chuồn theo... » và lúc đó thì :

... các bức tường lớp học

yên lặng sụp đổ

rồi cửa kính trở lại thành cát

mực viết trở lại thành nước

bàn học trở lại thành cây

phấn viết trở lại thành vách đá

cán bút trở lại thành chim.

và trẻ em trở lại với khung trời mơ mộng của lứa tuổi thần tiên. ( Page d’écriture / Trang viết ).

Đối với JACQUES PRÉVERT, tình yêu rất cần cho cuộc sống, yêu là sống và sống là yêu :

Chúng ta yêu nhau và chúng ta đang sống

Chúng ta đang sống và chúng ta yêu nhau

Và chúng ta không biết cuộc đời là gì đâu

Và chúng ta không biết hôm nay là ngày mấy

Và chúng ta không biết tình yêu nó ra sao.

( Chanson / Bài ca )

Đó là tình cảm nhẹ nhàng tinh khiết của những đứa trẻ ôm hôn nhau « trong ánh sáng chói lòa của mối tình đầu tiên » ( Les enfants qui s’aiment / Những đứa trẻyêu nhau ), tình yêu của đôi trai gái cùng mới mười lăm tuổi phải « ăn gian » cọng tuổi cả hai để nói chúng ta đã ba mươi tuổi rồi chúng ta đã có quyền yêu nhau. ( Embrasse-moi / Hãy ôm hôn em ). Thơ tình của JACQUES PRÉVERT bao giờ cũng mượt mà trau chuốt, kể cả những bài rất ngắn. ALICANTE chẳng hạn. ( Alicante là tên một thành phố hải cảng của Tây Ban Nha, cũng là tên một thứ rượu vang nổi tiếng sản xuất ở đây.) Có thể nói Jacques Prévert đã vận dụng sở trường về hội họa và kịch nghệ trong bài này. Bài thơ mở đầu với hình ảnh một bức tranh tĩnh vật :

(1)Một trái cam trên bàn

(2)Áo em trên tấm thảm

Điều thú vị là tác giả đã chuyển hình ảnh này sang đoạn sau bằng sự nhắc lại mà không trùng lặp ở hai câu 4 và 5 :

(4)Tặng phẩm ngọt ngào của hiện tại

(5)Khí mát của đêm thanh

Đến câu thứ ba ( được nhắc lại ở câu thứ 6 ) không gian tĩnh đã nhường chỗ thế giới động với sự xuất hiện của nhân vật :

(3)Và em trên giường anh

………………

(6)Hơi ấm của đời anh.

Và như thế tranh vẽ đã chuyển thành màn kịch ngắn với ngôn ngữ không lời, bố cục độc đáo của bài thơ mở ra nhiều hướng cho người đọc tự cảm nhận.

BARBARA là một kiểu thơ tình khác. Đây là một cuộc tình bi tráng trong chiến tranh. Cô gái “ tươi cười hân hoan rạng rỡ “ vừa mới choáng ngợp trong tình yêu chạy dưới mưa “ ngã vào trong vòng tay “ chàng trai đã sớm đối diện với “ cuộc chiến tranh xuẩn ngốc”. Cả hai phải chia tay trong bối cảnh thành phố Brest bị dội bom khốc liệt đến mức tất cả đều bị hủy diệt :

Xa, xa hẳn Brest

Thành phố không còn chút dấu vết.

Câu kết của bài dịch như trên không diễn được cái âm thanh khô khốc, lạnh lùng, bi thương của từ RIEN trong nguyên tác.

Thơ của JACQUES PRÉVERT còn được chắp cánh bay xa khi chuyển thành nhạc. Bài thơ đầu tiên được phổ nhạc là bài Les animaux ont des ennuis, phần nhạc do một người bạn gái thuở thiếu thời của Ông là Christiane Verger viết từ năm 1928. Về sau, rất nhiều tác giả khác đã sáng tác nhiều ca khúc bất hủ từ thơ của Ông, ngoài Joseph KOSMA ( 1905-1969 ) được nhiều người biết còn có thể kể Louis Bessières, Hanns Eisler, Wal-Berg, Georges Auric, Jo Warfield, Henri Crolla, Sebastien …. Mấy chục năm nay những bài này đã được nhiều thế hệ ca sĩ trình bày như Agnès Capri, Marianne Oswald, Germaine Montero, Fabien Loris , nổi tiếng hơn là Juliette Gréco, Yves Montand, Mouloudji, les frères Jacques, Edith Piaf và hiện nay còn có Jean Guidoni, Catherine Ribeiro, Djemel Charif. Bài LES FEUILLES MORTES ra đời từ 1945, đến nay vẫn còn nhiều người thích hát hoặc thích nghe.



JACQUES PRÉVERT đã đi qua thời đại đầy biến động của Ông với một thái độ tỉnh táo, không gò mình trong khuôn phép của trường phái nghệ thuật, không để bị ràng buộc bởi xu hướng chính trị, tự khẳng định mình qua nhiều hình thức biểu hiện và nổi trội hơn cả vẫn là thơ vì với Ông “ Thơ ca có mặt ở khắp nơi cũng như Thượng đế chẳng có ở đâu cả.Thơ ca là một trong những biệt danh xác thực nhất, hữu dụng nhất của cuộc đời” (La poésie est partout comme Dieu n’est nulle part. La poésie, c’est un des plus vrais, un des plus utiles surnoms de la vie». Thế giới thơ của JACQUES PRÉVERT, cũng như chính con người JACQUES PRÉVERT, bao giờ cũng tự do, tự do như khí trời, tự do như mây gió, tự do như hoa cỏ trong ĐỒNG XANH ( pré vert ) .

THÂN TRỌNG SƠN

dimanche 12 décembre 2010

ÉDITH PIAF tiếng ca huyền thoại của con chim sẻ nhỏ.









Dưới bầu trời Paris (1)

Dưới bầu trời Paris, ngày 19 tháng 12 năm 1915 đã ra đời bé gái Édith Giovanna Gassion. Giấy khai sinh chính thức ghi nơi sinh là bệnh viện Tenon, quận 20, Paris, nhưng nhiều người lại truyền nhau là Édith sinh ra trên lề đường, trước nhà số 72 đường Belleville, thuộc Ménilmontant, một khu phố bình dân cũng ở quận 20. Có lẽ chỉ vì chi tiết này phù hợp hơn với những gì liên quan tới cuộc đời của người sẽ trở thành huyền thoại của nền ca nhạc Pháp : gia cảnh tầm thường, tuổi thơ u ám, sức khỏe mong manh, tình duyên lận đận, sự nghiệp gập ghềnh, tuổi thọ ngắn ngủi.



Bố là nghệ sĩ xiếc uốn dẻo, mẹ là ca sĩ đường phố, sinh con trong thời kỳ chiến tranh, đặt tên con là Édith để tưởng nhớ nữ y tá người Anh là Edith Cavell được xem như là anh hùng sau khi bị quân Ðức xử bắn vì tội đã cứu cả trăm binh lính đồng minh trong Thế chiến thứ nhất. Bố nhập ngũ, mẹ
thiếu điều kiện chăm sóc con nên giao Édith cho bà ngoại, một phụ nữ nát rượu nhận nuôi cháu trong một điều kiện không thể tồi tệ hơn : bỏ bê trong đói khát và dơ bẩn trong một căn phòng thiếu cả phương tiện vệ sinh. Édith sống trong tình trạng này trong 18 tháng mới được bố “giải thoát ” để được đem về gởi cho bà nội ở Bernay, thuộc vùng Normandie, miền Bắc nước Pháp. Thật trớ trêu, bà nội là một chủ nhà chứa. Chính các cô gái làng chơi ở đây yêu thương và chăm sóc bé Édith giúp em dần dần khôi phục sức khỏe. Năm 7 tuổi, Édith bị mù tạm thời do giác mạc bị tổn thương ( kératite ). Với hy vọng chữa khỏi cho em, các cô gái giàu lòng nhân ái này đưa em đến cầu nguyện trước mộ của Thérèse Martin ở Lisieux (2) và thực sự sau đó phép mầu đã giúp em lành bệnh.

Đại chiến kết thúc, bố Édith giải ngũ trở về tiếp tục nghề xiếc rong ngoài đường phố. Édith theo giúp bố và, ngoài việc ngửa nón xin tiền, bắt đầu thử nghiệm giọng ca của mình bằng các bài hát bình dân trình diễn trước đám đông. Dần dần Édith được người nghe tán thưởng và kiếm được tiền nhiều hơn cả bố. Chẳng bao lâu sau Édith tách khỏi bố để bay nhảy tự do bằng đôi cánh của mình.

Tháng 2 năm 1933, Édith 17 tuổi có cuộc tình đầu đời với chàng trai trẻ làm nghề giao hàng Louis Dupont, sinh cho anh ta đứa con gái là Marcelle, 2 năm sau cháu bé qua đời vì bệnh viêm màng não và người tình cũng bỏ đi.

Édith tiếp tục lang thang ca hát trên các khu phố Belleville (3) và Pigalle (4) . Chất giọng đặc biệt của Édith đã được Louis Leplée, chủ một phòng trà ca nhạc sang trọng ở Paris chú ý. Đây là phòng trà Gerny’s, nằm trên đại lộ Champs-Élysées. Louis Leplée nhận ngay ra rằng giọng ca tuyệt vời này không phải để hát trên đường phố mà phải là dưới ánh đèn màu, đưa Édith về hát tại phòng trà của mình. Ông đặt cho Édith nghệ danh “la Môme Piaf ” ( môme là cô bé, piaf, tiếng lóng, nghĩa là con chim sẻ ), cái tên gợi lên vóc dáng mảnh khảnh, nhỏ bé của Édith vốn chỉ cao 1,47m. Ông cũng yêu cầu Édith mặc toàn đồ đen khi lên hát và đây sẽ là hình ảnh độc đáo sẽ theo Édith suốt cuộc đời ca hát của mình. Con mắt tinh đời của Leplée đã không phụ ông : giọng ca của con chim sẻ nhỏ đã chinh phục được khách của Gerny’s. Chẳng mấy chốc cả Paris đổ xô về đấy để tán thưởng một tài năng vừa mới được khám phá. Trên đà thành công của Édith, ông Leplée quyết định giúp cô thu âm đĩa 70 vòng đầu tiên vào năm 1936.


Đời màu hồng (5)

Một sự việc bất ngờ xảy đến, sự nghiệp của Édith vừa lóe sáng đã tắt ngấm : tháng 4 năm đó, Louis Leplée bị giết tại nhà riêng, Édith bị nghi là có dính líu, cảnh sát thẩm vấn, báo chí công kích. Édith phải từ bỏ Gerny’s và có nguy cơ trở lại với đường phố. Trong lúc khó khăn này, một người bạn của Édith là nhạc sĩ Raymond Asso đã giúp cô tìm chỗ trình diễn và nhất là rèn luyện kỹ năng ca hát để trở thành ca sĩ chuyên nghiệp. Năm 1937 Édith được nhận vào nhà hát ABC (6) và ngay lập tức tỏa sáng ở đây. Raymond Asso đề nghị cô đổi nghệ danh thành Édith Piaf , đây sẽ là cái tên mà cô sử dụng suốt đời. Sau thành công ở ABC, Édith còn biểu diễn ở nhà hát Bobino (7), tham gia đóng kịch ( vở Le Bel Indifférent -1940 – do Jean Cocteau viết cho chính cô ) , đóng phim ( Montmartre-sur-Seine -1941- của đạo diễn Georges Lacombe ). Cả kịch và phim này ( Édith diễn chung với Paul Meurisse ) đều thành công, chứng tỏ tài năng của Édith trong lĩnh vực diễn xuất.

Đến tuổi 30, Édith Piaf đã vững vàng trong sự nghiệp nhưng không quên bước khởi đầu gian nan của mình nên nghĩ tới việc giúp đỡ những nghệ sĩ trẻ mới vào nghề. Mùa hè 1944, Édith gặp Yves Montand (8) lúc này chưa nổi tiếng, chỉ làm nhiệm vụ hát mở màn (9) cho những tiết mục của cô ở cabaret Moulin Rouge. Tiếng sét ái tình khiến cô chăm sóc đặc biệt cho Yves, hướng dẫn, giúp đỡ mọi mặt. Cô đề nghị Henri Cortet, nhạc sĩ chuyên viết cho cô hát, sáng tác nhiều bài riêng cho Yves ( “Battling Joe” , “ Luna park” ). Và chính Édith cũng viết dành riêng cho Yves nhạc phẩm Đời màu hồng (1945 ) , bây giờ trở thành bài ca bất tử. ( Khi chàng ôm em trong vòng tay/ Khi chàng âu yếm thì thầm bên tai / Em thấy cuộc đời sao đẹp thay ! ). Cả hai còn cùng nhau đóng phim Ngôi sao không ánh sáng ( Étoile sans lumière ) của đạo diễn Marcel Blistère. Nhưng mối tình nghệ sĩ này không bền lâu, đầu năm 1946 hai người chia tay nhau. Sau này Yves kết hôn với diễn viên Simone Signoret còn Édith bay nhảy với nhiều cuộc tình khác.


Cũng thời gian này, Édith có dịp làm quen với nhóm ca sĩ trẻ Les Compagnons de la chanson (10) ( Những người bạn của ca khúc ) chuyên trình diễn những giai điểu cổ có âm hưởng dân ca. Édith khích lệ nhóm chuyển sang loại nhạc trẻ trung hơn, đề nghị ghi âm chung bài Les trois cloches ( Ba quả chuông ) của nhạc sĩ Thụy Sĩ Jean Villard. Thành công vang dội rất bất ngờ : bán được cả triệu dĩa. Édith quyết định đưa nhóm cùng sang Mỹ trong chuyến lưu diễn đầu tiên vào năm 1947. Chuyến đi này là một dấu mốc mới trong cuộc đời ái tình và sự nghiệp của Édith Piaf.


Bài tụng ca Tình yêu (11)

Không có gì hứa hẹn cho con chim sẻ thành Paris trên đất khách, những buổi trình diễn đầu tiên của cô trong các phòng trà ca nhạc ở New York chưa được khán giả chú ý mấy. Định quay trở về châu Âu thì tình cờ cô đọc được một bài phê bình với lời lẽ khích lệ đặc biệt trên một nhật báo lớn ở đây khiến cô đổi ý. Cô ký hợp đồng hát một tuần cho Café Versailles, một phòng trà khá nổi tiếng ở Manhattan (12) . Chính nơi đây Édith mới được khán giả Mỹ hâm mộ nên tiếp tục cộng tác đến 4 tháng và sau này còn trở lại nhiều lần.

Thời gian này, Édith lao vào một cuộc tình lớn : cô gặp và yêu say đắm Marcel Cerdan, một võ sĩ quyền Anh vô địch thế giới. Tuy Marcel đã có vợ và tuy hai người hoạt động trong hai lĩnh vực khác hẳn nhau, cuộc tình giữa “ ông vua đánh bốc và bà hoàng ca nhạc” vẫn được báo chí xem là cuộc tình lãng mạn nổi tiếng nhất thế kỷ. Định mệnh lại giễu cợt Édith. Chỉ một năm sau, Marcel thiệt mạng trong một tai nạn máy bay khi đi từ Paris sang New York thăm người tình. Tinh thần suy sụp, lại bị hành hạ bởi những cơn đau của chứng bệnh viêm đa khớp ( polyarthrite ), Édith phải sử dụng mooc-phin với liều cao. Cuộc tình này đã để lại nhạc phẩm Édith viết cho anh Bài Tụng ca Tình yêu , một trong những bài ca sẽ đi cùng năm tháng với tên tuổi của tác giả.( … Em sẽ đi đến tận cùng trái đất / Em sẽ nhuộm cho tóc vàng đi / Nếu anh muốn ở em điều đó // Em sẽ hái cả mặt trăng / Em sẽ lấy về bao tài sản / Nếu anh muốn ở em điều đó // Em sẽ chối bỏ cả tổ quốc / Em sẽ từ bỏ cả bạn bè / Nếu anh muốn ở em điều đó // …) .

Nỗi đau vì sự mất mát quá lớn này khó thể nguôi ngoai nhưng Édith vẫn cố gắng tiếp tục làm việc. Năm 1950, cô lại bước ra sân khấu của thính phòng Pleyel (13). Cô kết thân với Charles Aznavour ( ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên trẻ ) qua những mối quan hệ đặc biệt mà không phải là tình nhân : thư ký, tài xế , bạn tâm sự. Ngược lại, Charles Aznavour cũng viết cho cô một số bài khá thành công ( Jezebel, Plus bleu que tes yeux…)

Năm 1951, Édith thân mật với Eddie Constantine (14), ca sĩ diễn viên , cùng diễn vở nhạc kịch “ La p’tite Lili “ tại nhà hát ABC. Bảy tháng sau, thôi diễn vở này, hai người cũng thôi nhau. Năm này, Édith bị hai tai nạn xe hơi, lần sau rất nặng, lại phải điều trị bằng mooc-phin, sự phụ thuộc vào chất gây nghiện này làm sức khỏe cô ngày càng tồi tệ.

Tháng 7 năm 1952 Édith gặp và làm đám cưới với ca sĩ Jacques Pills, cuộc hôn nhân chỉ kéo dài được bốn năm.

Kể từ giai đoạn này, Édith phải thường xuyên điều trị giải độc nhằm hạn chế tác hại của mooc-phin và rượu. Trong hai năm liền cô thu mình âm thầm không xuất hiện, chỉ chuyên chú việc ghi âm. Tuy nhiên, sang năm 1955, khi biết mình sẽ hát ở Olympia(15), nhà hát sang trọng và nổi tiếng nhất Paris , cô hoàn toàn tự tin, phấn khởi, nhiệt tình trở lại với công việc mặc dù sức khỏe vẫn tồi tệ. Ngay trong buổi trình diễn đầu tiên ở đây, cô đã thành công rực rỡ, khán giả chọn lọc của thủ đô Paris hoàn toàn bị chinh phục bởi hình ảnh độc đáo mang thương hiệu Édith Piaf : một thân hình bé nhỏ với trang phục toàn màu đen,một giọng hát mạnh mẽ, ngân vang cất lên từ lồng ngực, một lối trình diễn lột tả trung thực tất cả lời ca ý nhạc. Cũng trong năm này Édith lại sang Mỹ thực hiện một chuyến lưu diễn dài ngày và kết thúc bằng chương trình độc diễn 22 bài trên sân khấu thính phòng Carnegie Hall (16) tại New York. Tất nhiên là cũng thành công vang dội, Édith Piaf trở thành ngôi sao quốc tế, chói sáng trên bầu trời ca nhạc Paris, New York và một số nước Nam Mỹ.

Cuộc phiêu lưu tình ái dõi theo chiếc bóng hạnh phúc của Édith vẫn chưa kết thúc. Năm 1958, cô bắt đầu mối quan hệ tình cảm với ca sĩ trẻ Georges Moustaki, đỡ đầu cho anh và dần dà một cuộc tình sóng gió nữa bắt đầu. Cùng với Marguerite Monnot, Moustaki viết cho cô nhạc phẩm Milord, đây là một trong những bài thành công nhất của Édith. Tháng chín hai người gặp một tai nạn xe hơi nghiêm trọng, sức khỏe Édith tổn thương nặng nề.

Édith vẫn cố gượng dậy. Đầu năm sau khi đang hát ở New York, cô gục ngã trên sân khấu phải giải phẫu khẩn cấp trước khi trở về Paris trong tình trạng thảm thương. Moustaki bỏ đi.


Không, tôi không hối tiếc điều gì. (17)

Năm 1961, Édith bắt đầu một loạt biểu diễn tại nhà hát Olympia Paris mặc những lời can ngăn của bác sĩ và người thân lo ngại cho sức khỏe của cô, chỉ vì lời hứa với giám đốc nhà hát, cô hát để cứu cơ sở này đang lâm vào tình trạng hầu như phá sản. Dịp này Édith đã rút hết gan ruột để diễn tả nỗi lòng mình qua nhạc phẩm Không, tôi không hối tiếc điều gì mà nhạc sĩ trẻ Charles Dumont viết riêng cho cô.

Không, không gì cả/ Tôi không hối tiếc điều gì/Cả điều tốt điều xấu thiên hạ làm cho tôi/Cái gì tôi cũng mặc/(…)Đã trả xong, đã quét sạch, đã quên hết/Tôi chẳng cần quá khứ/Với các kỷ niệm/ Tôi châm lửa/Những nỗi đau, niềm vui/ Tôi không cần chúng nữa/Phủi sạch những cuộc tình/ Với những rung động líu lo/ Phủi sạch vĩnh viễn/ Tôi lại khởi đầu từ số không. (…)

Chân thành, tha thiết, bài ca nghe như lời tâm tình của người ca sĩ tài danh về cuộc đời đầy thăng trầm của mình.


Ngày 25/9/1962, nhân ra mắt cuốn phim Ngày dài nhất (18) cô đã hát từ tầng 1 của Tháp Eiffel ( với độ cao 57m ) cho 25 000 khán giả ngưỡng mộ dưới chân mình ngẩng đầu nhìn lên. Bài hát kết thúc trong ánh sáng muôn màu của hàng ngàn pháo hoa rực sáng cả vùng trời bên bờ sông Seine.

Một tháng sau, ở tuổi 47, kiệt sức, bệnh tật, Édith kết hôn với ca sĩ Theophanis Lamboukas mà cô thường gọi là Sarapo có nghĩa là “Em (anh) yêu anh (em)” theo tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ của chàng trai kém cô 21 tuổi này. Đây là người đàn ông cuối cùng trong đời Édith. Hai người còn cơ hội trở lại phòng trà Bobino (7) song ca bài Tình yêu có ích gì ? (19) vào tháng 2 năm 1963. Bài hát này có thể xem như tuyên ngôn của Édith về tình yêu, giúp ta hiểu thêm một khía cạnh cuộc đời bà, mỗi chặng nhỏ trên con đường sự nghiệp đều gắn liền với một cuộc tình.

( … Em vẫn thường hay nghe nói/tình yêu làm ta u sầu /tình yêu làm ta than khóc/ tình yêu có ích gì đâu / Tình yêu nó có ích gì/vừa cho ta mọi niềm vui/lại còn có cả nước mắt/thật buồn mà thật diệu kỳ//… ngay khi ta đã mất đi/ cuộc tình ta hằng ấp ủ/vẫn còn hương vị ngọt ngào/ tình yêu vẫn là bất tử// Thôi thì như em đã hiểu/sống mà không có tình yêu/ với cả niềm vui nỗi khổ/ cuộc sống có nghĩa gì đâu// … Nhưng anh, anh là người cuối/ nhưng anh, anh là người đầu/ trước anh, không có gì cả/ với anh, hạnh phúc xiết bao// Có anh là điều em muốn/ có anh là điều em cần/ anh, người em yêu mãi mãi/ tình yêu có ích thế thôi. )

Édith rơi vào tình trạng hôn mê hai tháng sau. Sarapo đưa Édith về tỉnh dưỡng tại một biệt thự ở Placassier, ngoại ô thành phố Grasse miền Nam nước Pháp để chăm sóc bà cho đến khi bà qua đời ngày 10 tháng 10 năm 1963 tuy nhiên tin buồn chỉ công bố chính thức vào ngày 11 khi thi hài được bí mật chuyển về Paris.


Đám đông (20)

Ngày 14/10/1963, hàng chục ngàn người đã tiễn đưa nữ danh ca đến nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang Père Lachaise (21) trong ngôi mộ của bố cô ( mất năm 1944 ).Đây cũng là nơi an nghỉ của con gái Marcelle (mất năm 1935 ) và người chồng cuối đời Théo Sarapo sau khi qua đời vì tai nạn xe hơi năm 1970.

Nếu trong cuộc đời có lúc phải chịu cảnh cô đơn thì sau khi giã từ cõi tạm lúc nào Édith Piaf cũng thấy ấm cúng giữa đám đông người hâm mộ. Mãi tận hôm nay mộ Édith ngày nào cũng phủ đầy hoa tươi của đông đảo khách viếng từ khắp nơi trên thế giới. Đông đảo tín đồ âm nhạc vẫn đến quảng trường mang tên Édith Piaf, nằm ở góc các đường Belgrand, Capitaine Ferber, và la Py, gần bệnh viện Tenon nơi bà chào đời để tưởng niệm trước bức tượng của bà, được thị trưởng Paris Bertrand Delanoë cho dựng lên vào ngày 11/10/1963 nhân kỷ niệm 40 năm ngày mất của ngôi sao này. Đông đảo người quan tâm đến sự nghiệp và cuộc đời của bà vẫn đến thăm bảo tàng Édith Piaf ở số 5 đường Cresoin du Gast, quận 11 Paris, nơi trưng bày đầy đủ những kỷ vật lưu niệm.

Nhiều tác phẩm kịch nghệ và điện ảnh đã được thực hiện để vinh danh cuộc đời ( vở kịch “Piaf je t’aime” năm 1996 ) và những tác phẩm để đời của Édith Piaf, trong đó không thể không nhắc tới bài hát La vie en rose. Cho đến nay không ít hơn 30 nghệ sĩ lừng danh thế giới đã từng thể hiện ca khúc này : Patricia Kass, Yves Montand (Pháp), Marlene Dietrich ( Đức ), Placido Domingo ( Tây Ban Nha ), Dean Martin, Ella Fitzgerald, LouisArmstrong, Cyndi Lauper (Mỹ), Bạch Yến, Ý Lan ( Việt Nam ) … Điều thú vị là có những cuốn phim không liên quan đến tác giả nhưng xem phim khán giả vẫn nghe được giai điệu bất hủ của Đời màu hồng : Phim Sabrina ( 1995 ) Đạo diễn Sydney Pollack, diễn viên Harrison Ford, Julia Ormond, Greg Kinnear. Phim French Kiss (1995). Đạo diễn Lawrence Kasdan, diễn viên Meg Ryan, Kevin Kline, Timothy Hutton. Phim Something’s Gotta Give (2003 ) Đạo diễn Nancy Meyers, diễn viên Jack Nicholson, Diane Keaton, Keanu Reeves.

Và, tất nhiên rồi, cuốn phim thuật lại đầy đủ và trung thực nhất cuộc đời của Édith Piaf là La Môme của đạo diễn Pháp Olivier Dahan ( tháng 2 năm 2007 ).

Phát hành ngoài nước Pháp phim lấy tên là La vie en rose, do diễn viên trẻ Marion Cotillard vào vai Édith Piaf. Với vai diễn này, Marion Cotillard đã được trao giải Oscar ( 2008, nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.)

Édith Piaf qua đời hơn nửa thế kỷ rồi nhưng tiếng hát của bà vẫn vượt không gian và thời gian, còn ngân mãi trong tim bao thế hệ người yêu nhạc. Hơn thế nữa, cuộc đời của một người sinh ra trong nghèo khốn giữa thời loạn ly, từ cô bé hát rong tiến lên thành ca sĩ phòng trà để cuối cùng trở thành danh ca của các thính phòng, đại hý viện, vẫn mãi là tấm gương về nghị lực phi thường để vượt qua số phận bằng yêu thương và công việc. Édith, người có nghe không, cả thế giới vẫn còn nói mãi Piaf, je t’aime ?





THÂN TRỌNG SƠN

Dalat 12 / 2010



(1) Sous le ciel de Paris. Tên bài hát, lời Jean Dréjac, nhạc Hubert Giraud.(1954)

Tất cả những tiểu mục trong bài viết này đều là tên những bài hát Édith Piaf từng thể hiện.

(2) Thérèse Martin, nữ tu, mất ngày 30/9/1897 ở tuổi 24. Được Giáo Hoàng Pie XI phong thánh ngày 17/5/1925. Thường được gọi là Thánh Têrêsa thành Lisieux .

Lisieux là một thị trấn trong tỉnh Calvados, thuộc vùng hành chính Basse- Normandie.

(3) Khu phố Belleville nằm ở quận 19 và 20 của thành phố Paris. Ngày nay, đây là khu vực đa văn hóa, tập trung nhiều dân nhập cư, nhiều nhất là dân châu Á và châu Phi. Đây cũng là khu phố châu Á thứ hai của Paris, sau Chợ Tàu ở quận 13.

(4) Khu phố Pigalle bao gồm các con phố nằm hai bên đại lộ Clichy và Rochechouart, thuộc Quận 9 và quận 18, ở phía Bắc Paris. Nằm dưới chân đồi Montmartre, đây là nơi tập trung rất nhiều quán bar, quán cà phê, các sex shop. Khu phố này còn hấp dẫn nhờ các cabaret nổi tiếng như Moulin Rouge, Folies Bergère.

(5) La vie en rose do chính Édith Piaf sáng tác nhưng phải đề tên tác giả phần nhạc là Louiguy vì cô không đủ điều kiện để được công nhận là nhạc sĩ sáng tác theo quy định của SACEM, Hiệp hội các nhà soạn nhạc.

(6) ABC : nhà hát hoạt động từ 1935 tại 11 đại lộ Poissonnière, quận 2, Paris. Rất nổi tiếng nhờ sự góp mặt của nhiều nghệ sĩ và nhóm nhạc tài năng. Đến năm 1965 ABC chuyển thành rạp chiếu phim.

(7) Bobino : nhà hát tạp kỹ ( music-hall) ở khu Montparnasse, quận 14, Paris.

(8) Yves Montand ( 1921-1991 ), ca sĩ, diễn viên gốc Ý.

(9) première partie, hát ở phần đầu chương trình, chuẩn bị cho các tiết mục chính thức.

(10) Les compagnons de la chanson : nguyên là nhóm Những người bạn của Âm nhạc ( les compagnons de la musique ), với 9 thành viên hoạt động từ năm 1946 đến 1985 thì giải thể.

(11) Hymne à l’amour (1950 ) .Lời Édith Piaf – Nhạc : Marguerite Monnot.

(12) Manhattan : một trong năm quận của thành phố New York, ngày nay là khu vực giàu có nhất của Hoa Kỳ.

(13) Salle Pleyel : nằm ở đường Faubourg-Saint-Honoré, quận 8, Paris. Hoạt động từ 1927, thực ra dành chủ yếu cho hòa nhạc giao hưởng. Édith Piaf là ca sĩ đầu tiên hát ở đây.

(14) Eddie Constantine ( 1917-1993), người Mỹ, gốc Nga, sống nhiều năm ở Pháp,hoạt động ca hát vài năm trong thập niên 50 ( tk XX) , sau đó đóng phim.

(15) Olympia : 28 đại lộ Capucines, quận 8, Paris, là nhà hát tạp kỹ xưa nhất nay còn hoạt động ( khai trương năm 1893). Được công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1993. Hầu như tất cả những danh ca của Pháp đều có lần xuất hiện ở đây : Dalida, Mireille Mathieu, Sylvie Vartan, Guy Béart, Gilbert Bécaud, Georges Brassens, Jacques Brel, Yves Duteil, Johnny Hallyday …

(16) Carnegie Hall : 881 đại lộ số 7, Manhattan, New York, chính thức mang tên này từ 1893 sau 2 năm khai trương. Đây là thính phòng dành cho nhạc cổ điển, Édith Piaf là ca sĩ đầu tiên hát ở đây ( cũng như đã lần đầu tiên hát ở Salle Pleyel Paris năm 1950 – xem chú thích 13 ).

(17) Non, je ne regrette rien. (1960). Nhạc : Charles Dumont. Lời : Michel Vaucaire.

(18) The longest day / Le jour le plus long. Phim của hãng 20th Century Fox, đạo diễn Ken Annakin, Andrew Marton, diễn viên : John Wayne, Robert Mitchum, Henry Fonda, Richard Burton. Nội dung phim kể về ngày D-day, ngày mà quân đồng minh đổ bộ vào bờ biển Normandie, trận đánh đưa đến bước ngoặt của Thế chiến thứ hai, đánh dấu sự bắt đầu những thất bại của quân Đức sau này.

(19) À quoi ça sert l’amour? ( 1962 ) Lời và nhạc : Michel Emer.

(20) La foule. ( 1957 ). Lời : Michel Rivgauche.Nhạc : Angel Cabral.

(21) Nghĩa trang Père Lachaise : nghĩa trang lớn nhất của Paris, nằm tại quận 20, thành lập từ 1804, lúc đó chỉ có 13 ngôi mộ, hơn 200 năm qua, bây giờ đã có hơn 300 000 người được chôn cất nơi đây trong 69 000 phần mộ. Trong số những nhân vật nổi tiếng an nghỉ ở nghĩa trang này có thể kể đến các văn thi sĩ Molière, La Fontaine, Balzac, Musset, Paul Éluard, Alphonse Daudet, Apollinaire, nhạc sĩ Chopin, Georges Bizet...Nghĩa trang Père Lachaise còn được xem như một công viên với trên 5000 cây xanh trên một diện tích 44 ha, thu hút hàng trăm ngàn du khách mỗi năm.










dimanche 31 octobre 2010

LÀM


---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Làm nghĩa là gì? Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (viết đúng như bìa gốc là :Đại Nam Quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của) giải nghĩa như sau: Làm là dấy việc, gầy việc, ra tay, ra công, chuyên chủ việc gì. Định nghĩa đó có vẻ không ổn lắm, vì ta lại có thể thắc mắc thế dấy việc, gầy việc là gì? Còn nữa, ai cũng biết có khi làm nhưng chẳng hề ra tay mà chỉ ra chân (như làm bàn chẳng hạn), chẳng hề ra công (như làm cha, làm mẹ, làm anh, làm em…) hay chẳng hề chuyên chủ việc gì cả (như làm gì, làm sao, làm chi, làm ghi…) Thiết tưởng khó mà tìm ra được một định nghĩa vừa ngắn gọn vừa đầy đủ. Một số từ điền tiếng Việt hiện đại có phân biệt 12 nghĩa khác nhau, nhưng có lẽ những cuốn từ điển đó chỉ phân loại một cách khái quát mà thôi chứ thực tế - cũng như động từ ăn và động từ nói- động từ làm chắc là có nhiều nghĩa hơn.

1. Trước hết làm được dùng thay thế cho nhiều động từ khác nhau và, vì thế, nghĩa của nó cũng rất đa dạng :

* Ăn : Làm một chén, làm một bữa, làm một bụng, làm ba miếng.

Nhưng xin đừng lỡ miệng mà nói :”Làm bậy ba miếng rồi đi cho kịp giờ”, nói thế người ta cười cho đó, vì “làm bậy ba miếng” hiểu theo nghĩa xấu là… eo ôi, ẹ lắm!

* Uống : Làm một ngụm, làm một lon, làm một vại, làm vài ly. Ông chồng rất khôn khi biết cách trả lời vợ như thế nầy: “Anh đâu có uống nhiều, anh chỉ làm ít ly thôi mà, say đâu mà say!” Nhưng làm ít ly nghĩa là làm y lít!

* Ngủ : Làm một giấc.

* Hát : Làm tuồng.

* Học : Làm ba chữ .

Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy / Bỗng chốc nên quan đã sướng chưa! (Nguyễn Công Trứ / Thua bạc)

Làm ba chữ ở đây còn có nghĩa là đánh ba đồng ba trự, tức là đánh bạc.

* Đánh cờ, đánh bài : Làm một ván

* Du lịch : Làm một chuyến vòng quanh châu Âu.

* Gây gỗ, la mắng: Làm một trận

* Đọc, viết: Làm một mạch mười trang không nghỉ.

* Bắn: Làm một phát

* Đánh, đấm: Làm một cú ngay giữa mặt.

* Ghi chép : Làm sổ

* Sáng tác : Làm thơ, làm văn.

* Viết : Làm đơn, làm giấy.

* Nghiên cứu & viết: Làm sử, làm ngôn ngữ

Chúng tôi vốn là dân làm ngôn ngữ nên nội dung các nhận xét có nghiêng hẳn về phía ngữ học…” ( Nguyễn Đức Dương / Tìm về linh hồn tiếng Việt )

* Chế tạo : Làm nước mắm, làm hộp quẹt.

* Xây cất : Làm nhà.

* Chất, đổ : Làm một đống choán hết lối đi.

* ( Mụt nhọt ) sung tấy : Làm mủ

[ Đừng lầm với Làm mũ ( dấu ngã ) là làm nón mũ .]

* Bài tiết: Làm một bãi, Làm xấu.

* Bài tiết không kiềm chế được: “Ông cụ lại làm trong quần rồi!”

2. Làm là thực hiện một vai trò , trong tuồng, trong kịch hoặc ngoài đời :

- Sử dụng vào một mục đích nào đó :

* Lấy đất làm chiếu, lấy chợ làm nhà.

* Lành làm gáo, vỡ làm môi.

· Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu; khăn lau giắt đỏ lòm, trải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú (Nguyễn Công Trứ / Hàn nho phong vị phú)


- Đóng vai: “Lan làm Trưng Trắc còn Mai làm Trưng Nhị.

- Ở một địa vị nào đó, giữ một vai trò nào đó :

* Làm dâu, làm rể.

Làm dâu khó lắm chị ơi /Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than. (Ca dao).

* Làm cha làm mẹ, làm ông làm bà, làm con làm cháu…

Ta thường nghe nói : “Tao mà nói láo thì tao làm con mầy!”, hoặc khi nghe nói:”Nè, đừng làm cha nghe không!”, hoặc “ Đừng có làm trời làm đất!” thì phải hiểu là “Đừng có mà chơi trội! Đừng có muốn làm gì thì làm” chứ không phải chữ “cha” hay chữ “trời, đất”ở đây hiểu theo nghĩa thông thường đâu.

* Làm anh làm chị (khác với làm anh chị tức là làm du côn du đãng ):

Làm anh ăn trước bước đầu / Vẽ vời em út ngõ hầu thay cha (Ca dao).

« Làm anh khó lắm/ Phải đâu chuyện đùa/ Với em gái bé / Phải người lớn cơ! / … Làm anh thật khó / Nhưng mà thật vui / Ai yêu em bé / Thì làm được thôi. » (. Phan Thị Thanh Nhàn – Làm anh ).

* Làm trai thì phải:

- Làm trai quyết chí tu thân / Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo

chứ đừng như thế nầy:

Làm trai rửa bát quét nhà / Vợ gọi thì dạ:”Bẩm bà tôi đây” thì nhục lắm!

- Làm trai cho đáng nên trai / Xuống Đông đông tĩnh, lên Đoài đoài tan.( Ca dao ).

* Còn làm gái thì: Làm thân con gái chớ thương chồng người

Làm thân con gái chớ ăn trầu người (Ca dao)

Làm hoa cho người hái, làm gái cho người chòng (=ghẹo) nhưng mẹ dặn ai mời trầu thì đừng ăn.

* Làm vua làm quan, làm vương làm tướng, làm ma làm quỉ…

-“Tôi làm trạng nguyên, anh tể tướng..”(Nguyễn Vỹ / Nhớ Trương Tửu)

-“Ta thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc (Trần Bình Trọng).

* Làm bạn, làm chủ, làm thuê, làm thầy, làm thợ, làm người :

- Trời đất sinh ra chán vạn nghề / Làm thầy làm thợ với làm thuê

(Tú Xương / Tự trào)

* Làm chủ một hãng buôn là làm với tư cách người chủ, làm chủ tình thế là giữ thế mạnh, thế chủ động cho mình. Trái với làm chủ là làm thuê tức là làm cho người khác để được trả công.

* Làm khách thường dùng với nghĩa : làm ra vẻ người lạ, không thật tình ( trong tiệc tùng, ăn uống).

* Làm người :

Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo (Nguyễn Công Trứ)

Có một câu của Đỗ Phủ ai cũng nhớ: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, Cụ Đồ Chiểu đã dịch câu đó thành văn vần rất hay: “ Làm người trong cõi gió mưa / Bảy mươi mấy mặt người xưa thấy nào” (Nguyễn Đình Chiểu / Lục Vân Tiên).

Nguyễn Công Trứ muốn kiếp sau làm cây (cây thông), còn một tác giả khác lại muốn làm cá, làm chim:

“Hoặc làm cá bể đông vùng vẫy/ Hang cửu nguyên tìm lấy nương thân/ Làm chim bay chín tầng vân/ Dọc ngang trời rộng mười phân thanh nhàn (Hồng Vân/ tự thán).

Nhưng “ làm trâu làm bò” chắc không ai muốn, vì không ai muốn ngu (ngu như bò), lại càng không muốn bị người khác gọi mình là bò, là trâu, như cái ông cử nhân trong giai thoại sau đây :

Một ông Cống mới thi đỗ, đệ đơn lên huyện xin làm thịt trâu để khao. Lúc ấy đang có lệnh cấm mổ trâu. Bà huyện Thanh Quan (thường hay thay chồng giải quyết đơn từ) muốn đùa ông Cử nên phê vào đơn rằng:

Người ta thì chẳng được đâu/ Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm”.

Ông Cống nhà ta chắc phải ngậm bồ hòn làm ngọt vì “làm trâu” ở đây còn có nghĩa là “làm con trâu” (cho người ta cỡi) chứ đâu phải chỉ là làm thịt trâu.

Nhân vật người vợ trong bài hát “Câu chuyện tê-lê-phôn” của nhạc sĩ Trần Văn Trạch thật là quá quắc khi mắng chồng như sau: “Mầy theo đồ đó, đồ trâu đồ chó, mầy không chịu về sao?”

Nhưng lỡ kiếp sau có làm chó thật thì cũng xin:


“Nếu làm chó, hãy làm chó của samourai” (tục ngữ Nhật)

Hoặc ao ước như một nhà thơ sinh viên Huế thuở nào:

“Kiếp sau nếu làm chó, xin được là chó berger, còn nếu làm người xin được là người sư phạm”

* Làm mai là làm trung gian trong hôn nhân. Người ta cho rằng làm mai là một trong bốn cái ngu ở đời:

Ở đời có bốn cái ngu / Làm mai, gánh nợ, gác cu, cầm chầu.(Ca dao)

- Định vị trí, phân ngôi thứ: Làm vợ cả, làm vợ thứ, làm lẽ, làm thiếp, làm bé, làm chủ, làm tớ…

- “Gió xuôi chạy lá buồm mền / Muốn vô làm bé biết bền hay không? (Ca dao)

- “Tiên Dung nói với Chử Đồng Tử: “Chàng có muốn lấy nàng kia làm thứ thất không?”

- “Đời Hùng Vương có một người tên là Mai An Tiêm, người ngọai quốc, mới được 7 tuổi, do thuyền buôn chở tới. Vương mua về làm đầy tớ” (Hồ Đình Chữ / Tìm hiểu thần thoại và cổ tích thời Hùng Vương)

- “Người hiếu nữ tên gọi là Vương Thúy Kiều vì việc cứu cha nên phải bán mình làm thiếp cho khách họ Mã lấy số tiền sính lễ là bốn trăm năm mươi lạng bạc (Bản dịch Kim Vân Kiều nguyên truyện)


3. Làm là thực hiện một công việc, một nghề nghiệp nào đó :

* Chuyên về một nghề : làm thợ, làm báo, làm quan, làm công chức, làm chính trị, làm cách mạng.

* Gò, sửa khung xe: Làm đồng

* Nấu ăn: Làm bếp

* Xếp đặt phòng, giường ngủ: Làm phòng, làm giường

* Vỡ đất: Làm đất

* Cày cấy, trồng trọt: Làm ruộng, Làm rẩy

* Đốn củi: Làm củi

* Chữa bệnh: Làm thuốc

* Tổ chức, cử hành: Làm lễ

* Sửa sọan thức ăn : Làm cơm, làm gà.

* Sửa sọan bữa ăn lớn để cúng giỗ hoặc cưới xin: Làm cỗ, làm tiệc, làm chay.

“Con cò mắc rò mà chết / Con quạ ở nhà mua nếp làm chay .”( Ca dao).

* Cúng vong hồn lúc mãn tuần: Làm tuần

* Bán trôn nuôi miệng: Làm đĩ, làm gái, làm tiền

* Nâng giá, đẩy giá lên để mong hưởng lợi: Làm giá

* Nhận việc làm xong mới nhận tiền công, không tính thời gian: Làm khoán


4. Làm là thực hiện một hành vi, hành động nào đó :

* Ra dấu: Làm hiệu

* Làm bộ làm điệu để vòi vĩnh vì biết được nuông chiều: Làm nũng

* Bức bách: Làm ngặt

* Khiến người khác phật lòng: Làm mếch lòng

* Bố thí, giúp đỡ người khác: Làm phước, làm phúc, làm ơn

* Làm chuyện lếu láo, hống hách: Làm tàng

* Lên mặt tự cao tự đại: Làm phách

* Bắt bí, lấn tới khi đã được lợi thế: Làm già

Đừng lầm với “làm nhà” mà ở thôn quê miền Trung người ta phát âm là “làm già”. Có người nói vui rằng khi dự tính chi phí làm nhà phải tính già lên một chút, vì thế nào cũng sẽ có chi phí phát sinh không lường trước được. Rõ ràng là làm già chứ không thể làm non được.

* Giữ một chức vụ, nhưng thực tế không làm gì cả: Làm vì

* Đưa bóng vào lưới của đối phương : Làm bàn

( Bàn đây là bàn thắng, không phải là làm bàn, làm ghế như trong lời đối thoại sau: « Nếu sai lời tao sẽ làm ghế cho mầy ngồi. »

*Tìm cách hòa thuận với người đã giận dỗi với mình: Làm lành

Chồng giận thì vợ làm lành / Miệng cười hớn hở rằng: Anh giận gì?/ Thưa anh, anh giận em chi / Muốn cưới vợ lẽ em thì cưới cho” (Ca dao)

* Giả vờ: Làm bộ

* Giả vờ không quen không biết: Làm ngơ, làm lơ

“Đã không như là mơ, nếu tình cờ gặp xin cứ làm ngơ” (Trần Thiện Thanh / Gặp nhau làm ngơ)

* Nêu mẫu mực cho người khác theo: Làm gương

« Cho hay những kẻ tài tình lắm / Trời bắt làm gương để thế gian » (Phạm Quí Thích / Tổng vịnh truyện Kiều)

* Đứng ra xác nhận những điều mình đã chứng kiến: Làm chứng

* Để chứng thực một điều gì: Làm bằng

* Biếu xén vật gì để làm vui lòng ai: Làm quà

* Tô điểm sắc đẹp, sự quyến rũ cho mình : Làm đẹp, làm dáng, làm duyên.

* Gây khó khăn cho người khác : Làm khó

* Quấy nhiễu, làm rộn người khác : Làm phiền

* Làm chuyện sai quấy: Làm bậy

“Do đói quá, người ta đã làm bậy” (Võ Hương An / Chuyện đời vay trả)

“Chúng bây loài bọ gậy / Ở nước chỉ hay quấy / Xuống dưới đã ăn càn / Lên trên lại làm bậy » (Khuyết danh / Vịnh con muỗi)

* Làm cho hãnh diện, tự hào: Làm đẹp mặt

“Mong cho anh sớm thành tài / Trước làm đẹp mặt nở mày mẹ cha…” ( Ca dao)

* Gây tiếng động : Làm ồn

Tuy nhiên, trái nghĩa của làm ồn là làm thinh, mà thinh (= thanh) lại có nghĩa là tiếng!

- Làm thinh là tình đã thuận

- “Lần tiếng sẻ hỏi ai đàn tá?/ Dừng tiếng đàn nấn ná làm thinh’’

(Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, bản dịch của Phan Huy Thực)

Sở dĩ có sự “tréo cẳng ngỗng” đó là do chữ nầy nguyên là hàm thinh,

hàm nghĩa là ngậm như trong hàm huyết phún nhân(=ngậm máu phun người), lâu ngày hàm thinh bị dùng chệch thành làm thinh.


5. Làm với một vài sắc thái chỉ cách thức, mức độ thực hiện :

* Làm qua loa cho có lệ: Làm lấy rồi, làm lấy có

* Làm không chú tâm, không kỹ lưỡng : Làm ẩu.

* Bắt chước một cách giả trá và làm tổn hại đến cái chân thật : Làm giả

* Làm không suy nghĩ, không cẩn thận : Làm bừa, làm đại.

* Làm lần đầu, chưa phải chính thức, còn sửa : Làm nháp

* Tự mình làm, không nhờ ai khác giúp: Làm lấy

* Làm cho mau rồi, cho xong chuyện: Làm phứt, làm phứt cho xong.

* Giải quyết rạch ròi cho rõ trắng đen: Làm cho ra ngô, ra khoai

* Phóng đại quá đáng một sự việc để gây bất hòa, tranh cãi: Làm to chuyện


6. Tính đa nghĩa của làm còn thể hiện ở các trường hợp dùng với nghĩa bóng, nghĩa mở rộng, nghĩa cũ, nghĩa mới, và thú vị nhất là dùng như tiếng lóng, dùng trong thành ngữ, tục ngữ .

* Tạo ra nhiều tiền của: Làm giàu

* Phát triển, làm cho phong phú: Làm giàu vốn từ vựng, làm giàu kiến thức.

* Bỏ số lẻ thập phân hoặc bách phân của một con số: Làm tròn (rounding)

* Thực hiện đầy đủ (nhiệm vụ): Làm tròn

- Làm tròn còn được sử dụng như “ thực hiện”, “ hoàn thành”:

…. “Xem như đang chết dần/ Người không biết xoay trở/ Khi công việc lở dở/ Hay đau khổ vì yêu/ Người không dám biết liều/ Để làm tròn mộng ước…(Thân Trọng Sơn / Đừng để mình chết dần chết mòn – chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp thơ của Pablo Neruda)

* Làm thịt là giết ( thú vật ) nhưng Bọn côn đồ đã làm thịt cô gái thì hiểu là cưỡng bức.

* Làm cỏ là nhổ cỏ, giẫy cỏ và còn có nghĩa là tiêu diệt, tàn sát.

* Làm tiền không phải chỉ là kiếm tiền mà còn hàm ý kiếm tiền một cách bất chính. Còn nếu kiếm tiền bằng “vốn tự có” thì làm tiền đồng nghĩa với làm gái hay làm đĩ.

* Làm nhục là làm tổn hại danh dự người khác bằng lời nói, hành động, sức mạnh, uy quyền. Tuy nhiên nhiều lúc người phụ nữ bị làm nhục thì không phải chỉ danh dự bị tổn hại !

- Một số từ xưa ngày nay ít dùng, có thể khó hiểu :

* Làm lưng : Giữ làm vốn liếng, tạo số tiền ban đầu để làm ăn.

“ Đêm hôm cũng giấn mình đi / Sang đây kiếm ít đem về làm lưng (Hồ Huyền Quy /Truyện Trinh thử)

* Ở Huế trước kia có một từ rất hay mà hiện nay ít thấy dùng: Làm hoanh.

“ – Chiều nay mời cả nhà đi kéo ghế ở “Cháo lòng Đồng Ý”. Tôi bao.

“_ Này, không có tiền thì đừng làm hoanh nghe!”

- Ngược lại, một số từ mới xuất hiện, ban đầu là tiếng lóng rồi phổ biến dần :

* Làm phao :Lén lút chuẩn bị tài liệu để quay cóp trong phòng thi.

* Làm luật : Nộp tiền hối lộ cho quản lý bến bãi hoặc cho cảnh sát giao thông.

* Làm việc : nghĩa là bị thẩm vấn

Nó vừa được mời lên phường làm việc với công an.


- Trong quan hệ nam nữ, để chỉ “ chuyện ấy ” có khi không cần phải nói làm tình mà chỉ là làm hay làm ăn :

- Bố đã 75 tuổi rồi, đâu còn làm ăn gì được nữa!

- (Bạn bè hỏi nhau): “Tối qua mầy chở nhỏ X. đi chơi, có làm ăn gì được không?”

- (Trong phòng, nữ thúc giục nam) : “Làm đi anh!”

-“Chị Xấu ôm anh Giàu khóc, nói: “Ôi chồng ơi, chồng ơi, chó mèo còn biết làm, răng anh (sao anh) không biết?” ( Nguyễn Quang Lập / Xóm đàn bà hoang).

- “Anh nghĩ coi, ngày chui lủi trong rừng, túi (tối) về uống bát rượu, con cái ngủ hết, điện đóm không có, tui với mạ hắn rủ nhau mần cái hè (làm một cái nhé), rứa là đẻ thôi”.( Nguyễn Thế Thịnh / Đánh kẻng gọi con).

“Làm” được gọi là “Mần” ở một số địa phương miền Trung.

Mần việc = Làm việc; Mần ăn = Làm ăn.

Nhiều người nghe không hiểu câu nầy:

“Đôi ta thương chắc mần ri/ Cha mẹ mần rứa anh thì mần răng”(Ca dao) (thương chắc = thương nhau; mần ri = như thế này; mần rứa = làm thế; mần răng = làm sao).

- « Tau ở nhà tau, tau nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói răng không đến/ đến thì mi nói đến mần chi /Mần chi tau đã mần chi được/ Mần được tau đã mần lắm khi (Nguyễn Công Trứ/ thư gởi bồ nhi)

Có một giai thoại: Một hôm ông nghè Tân đi thanh tra các hạt, nhân ghé vào một quán hàng, gặp một người đàn bà nhờ ông viết hộ một cái đơn khai để nộp tiền xin chôn trâu. Ông nghè Tân hỏi đầu đuôi mới rõ quan phủ nơi đó đã ra lệnh rằng hễ ai có trâu chết phải nộp 5 quan. Ông nghè liền viết hộ người đàn bà lá đơn như sau:

“Tôi là phận gái nữ nhi/ Có con trâu chết tôi đi trình ngài/ Vội vàng váy trụt đơn rơi/ Tôi mượn một người mần cái đơn ni/ Quan Tri kia hỡi quan Tri/ Xin quan chấp lấy đơn ni làm bằng/ Dù quan có hỏi mần răng/ Rồi quan cắn cỏ lạy thằng mần đơn”

Người đàn bà kia không biết chữ, cứ cầm cái đơn thẳng đến phủ. Quan phủ xem xong toát mồ hôi, hỏi cặn kẽ rồi cho lính đi dò xem ai là kẻ làm đơn. Đến khi biết tác giả bài thơ là quan thanh tra, quan phủ vội vàng đi đón rước rồi van lạy sói trán! Từ đó trong phủ nếu có trâu bò chết thì cứ cho chôn, phủ không dám vòi tiền nữa.(Trần Trung Viên/ Văn đàn bảo giám)

- Tay cầm quạt giấy che trăng/ Thiếp thương chàng vô tận, biết mần răng đặng chừ (=biết làm sao được bây giờ) (Ca dao)

- Ví dù đèn tắt đã có trăng/ Khổ em thì em chịu, biết làm răng đặng chừ ( Bài ca quê hương – Tố Hữu )

Đề cập đến cái hay, cái đẹp, cái tinh túy của tiếng Việt, ngoài chữ “làm thinh” nói ở đọan trên, chúng tôi xin nêu thêm một vài từ kết hợp với ‘làm’ nữa:

a/.- “Làm đôi” bao gồm hai nghĩa đối lập nhau:

- “Tách làm đôi” và “Gộp chung làm một” (một đôi) :

Cô kia cắt cỏ một mình/ Cho tôi cắt với chung tình làm đôi/ Cô còn cắt nữa hay thôi/ Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng” (Ca dao)

Tách làm đôi thì ta có hai phần, còn “làm đôi vợ chồng” thì lại hàm ý gộp lại.

b/.- Diễn tả một ý phủ định bằng một câu hỏi:

- Làm sao em hiểu được? có nghĩa là: Em không hiểu đâu.

“ Những lừa lọc làm sao Em hiểu được/ Lòng thơ ngây trong sáng ánh thủy tinh ( Đặng Lệ Khánh / Nhìn cung tên, nhớ Mỵ Châu)

c/ Những từ kết hợp “làm sao”, “làm cho”, “làm chi” là những từ thường được nhắc đến trên cửa miệng, do đó ta gặp nhiều trong ca dao, tục ngữ, và thơ văn:

* Làm sao = Cớ sao, tại sao: “Làm sao bác vội về ngay”(Nguyễn Khuyến/Khóc Dương Khuê)

* Làm sao = như thế nào: “Nơi ăn đã vậy, nơi nằm làm sao?” (Ca dao)

* Làm sao = làm thế nào, làm cách nào, liệu cách nào.

- “Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm” (Ca dao)

- “Anh quê mùa, tay chân đen bùn lấm/ Làm sao thành hoàng tử đánh thức em…(Tràm Cà Mau / Em ngủ giấc thần tiên trên rơm)

* Làm sao = Gì, bao nhiêu

“Quan chẳng quan thì dân, chiếu trung đình ngất ngưởng ngồi trên, nào lềnh, nào trưởng, nào bàn ba, xôi làm sao, thịt làm sao, đóng góp là làm sao, một năm mười hai tháng thảnh thơi, cái thủ lợn nhìn thầy đã nhẵn mặt…”(Nguyên Công Trứ)


* Làm chi:

- “Chàng ơi phụ thiếp làm chi/Thiếp là cơm nguội đỡ khi đói lòng (Ca dao)

- “Mười lăm năm ấy bao nhiêu sướng/ Còn trách làm chi đứa bán tơ” (Từ Đạm / Thơ vịnh Kiều)

- “Tui không điên, cũng không hề bối rối / Ngó làm chi cho tủi nhục đau thương…” (Nguyễn Thị Hoàng / Chi lạ rứa)

- Làm chi cũng chẳng làm chi

Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao!

Làm sao cũng chẳng làm sao,

Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi! (Ca dao)

* Làm ghi :

- “Của tin gọi một chút nầy làm ghi”( Kiều )

- “ Trời cao biển rộng đất dày / Núi Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi” (Ca dao).

d/ Làm gì không phải chỉ có ý hỏi mà còn là :

* Chối bỏ, phủ nhận: Làm gì có!

* Thách thức: Làm gì nhau nào!

Có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ quen thuộc liên quan đến động từ làm này :

*Chín bỏ làm mười, dám làm dám chịu, ai làm nấy chịu, bụng làm dạ chịu, dám nghĩ dám làm :

Những năm gần đây ta hay gặp một thành ngữ chế diễu hạng người chỉ tay năm ngón, chỉ biết sai khiến hay xúi giục người khác làm, còn mình thì không dám làm hoặc làm không được: Dám (Giám) đốc chứ không dám làm

* Làm cỗ cho ma ăn : Làm khó nhọc để người khác hưởng.

* Quít làm cam chịu :Người nầy làm mà người khác lãnh hậu quả.

* Cưa sừng làm nghé : Làm ra vẻ còn tơ, còn trẻ.

* Làm bia đỡ đạn : Chịu búa rìu dư luận, chịu nguy hiểm thay người khác.

Chúng quen thuộc đến độ dễ dàng đi vào ngôn ngữ hàng ngày của mọi người.

Ta hãy nghe một ông chủ la rầy thuộc cấp của mình để thấy rõ điều đó :

“ Tôi đã bảo là cứ làm như tôi nói chứ đừng làm như tôi làm mà anh có nghe đâu. Nếu anh làm như tôi làm thì anh lên làm sếp cho rồi! Anh nên nhớ làm thì có chúa múa thì có trống mà anh làm vậy coi sao được, làm thử rồi làm thiệt, làm lui làm tới, làm đi làm lại, làm rồi làm nữa,làm mãi làm hoài mà cứ làm sai, làm hư, làm trái, làm thừa làm thiếu, làm quanh làm quất, làm tưới hột sen, chẳng có trách nhiệm gì cả. Lại còn dám nói “làm cho lắm tắm cũng ở truồng” nữa chứ! Nếu anh siêng năng chăm chỉ một chút thì có khi tôi cũng nghĩ lại mà chín bỏ làm mười. Đằng này anh là cái thứ làm thì ốm mà đâm cốm thì siêng. Thật là đồ làm dối, làm biếng, làm lấy có, làm cho có làm, làm lấy rồi, làm tào lao, làm qua quít, làm bỏ mứa, làm ẩu xỉ tả, làm ẩu làm tả, làm bậy làm bạ, làm cho có lệ, ăn vặt quen miệng làm biếng quen thân, làm qua loa, làm qua-loa-rờ-măng, làm như nhà trò giữ nhịp; người đâu mà ăn thì như rồng cuốn, nói như rồng leo, mà làm thì như mèo mửa. Lại còn làm bộ làm tịch, nào ai làm tình làm tội gì anh mà mỗi lần nói động tới là anh làm mặt sưng mày sỉa, anh làm mình làm mẩy; làm kinh doanh mà cứ như làm văn nghệ không bằng, việc cần làm anh không làm, anh đi làm chuyện ruồi bu, anh ra mặt dạy tôi phải biết làm việc thiện, phải biết làm phúc à? Thế anh không nghe người ta nói làm phúc phải tội, làm phúc quá tay ăn mày không kịp à? Thôi không nói nhiều. Làm trong giờ của nhà nước mà như thế thì kể từ nay anh phải làm thêm ngoài giờ, làm tăng ca, ăn đến nơi thì làm phải cho đến chốn, làm cho có mưa gió mà ăn chứ làm cái kiểu đó thì tôi biết ăn làm sao nói làm sao với cấp trên đây? Tôi nói vậy anh nghe lọt lỗ tai thì tốt, còn nếu anh muốn làm lại cuộc đời, muốn tìm nơi khác để làm quan rồi ngồi không mà ăn được lộc vua, ở chùa ăn được lộc phật, thì tùy anh, tôi không ép.”

Và đây là câu nói lầm bầm của anh nhân viên khốn khổ : “Đúng là đồ làm lớn làm láo, ỷ thế làm ông chủ rồi tha hồ làm tàng, làm phách, làm ta đây, làm mặt làm mày, làm mưa làm gió, làm hùm làm hổ. Rõ ràng là giận ai đâu rồi đem mình ra làm cục kê, làm bia đỡ đạn. Tưởng ổng ăn nên làm ra, tay trắng làm nên sự nghiệp thì cũng biết nhón tay làm phúc làm phước với kẻ ăn người làm trong sở, nào dè… còn lâu ông ấy mới biết làm phúc: làm phúc nơi nao, cầu ao chẳng bắc. Thú thật là đã có lúc mình quyết làm cho ra lẽ, làm cho ra ngô ra khoai, bởi vì nghĩ mình đây: Vốn đã biết làm thân kẻ khó/ Có dám đâu đánh đọ với giàu (Bần nữ thán), nhưng lúc đói chẳng ăn vụng, lúc túng chẳng làm càn. Phải chi mình biếng nhác, trễ nãi làm hư việc của ổng thì mình cũng đành bụng làm dạ chịu, ai làm thì nấy chịu, vì xưa nay mình là kẻ dám nghĩ dám làm, dám làm dám chịu. Đằng này mình thấy mình vẫn luôn luôn làm tốt, thậm chí làm quá tải, lại còn làm dâu cả trăm họ mà ổng còn chưa vừa lòng. Mình làm vậy có khác chi làm đầy tớ không công. Ngày ngày làm như đánh vật, làm không kịp thở ăn chẳng kịp nhai ( Lục súc tranh công ), làm đổ mồ hôi sôi nước mắt, làm ngày làm đêm, làm thâu đêm suốt sáng, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, mình vẫn hiểu rằng tay làm hàm nhai tay quai thì miệng trễ nên luôn luôn làm cật lực, làm hết sức mình, lúc nào cũng vừa làm vừa học, đâu có như người ta làm chơi mà đòi ăn thiệt, làm chung mà đòi ăn riêng, làm khi lành để dành khi đau chứ đâu có làm đồng nào xào đồng đó, chẳng những một mình mình làm mà còn huy động cả nhà góp công góp sức nữa:

Thế mà cả gái trai già trẻ/ Đều còng lưng làm nghé làm trâu (Ca dao)

Thế mà đói vẫn hoàn đói. Thật là hay làm thì đói hay nói thì no. Ổng đã làm mặt lạ với mình, làm tổn thương lòng tự trọng của mình, nói những câu như giọt nước làm tràn ly, mình còn biết làm sao đây hở trời! Thật đúng là làm ơn mắc oán!


Một từ với 12 nghĩa ghi trong từ điển ( như đã nói ở phần đầu ) xem ra đã là nhiều. Vậy mà chịu khó tìm thêm một chút bài viết này đã ghi nhận trên 80 nghĩa và chắc chắn là chưa hết. Ai dám bảo là tiếng Việt nghèo ?

Thân Trọng Thủy