samedi 23 mai 2009

SƯƠNG KHÓI




1.- Điện cúp từ sáng sớm, lúc đầu giờ. Từ khi trường dời về đây, hôm nay là lần đầu tiên tôi thấy khu vực thuộc trung tâm thành phố lớn nầy bị cúp điện . Phòng làm việc của tôi nằm ở tầng lửng . Gọi là phòng làm việc cho “oai vệ” một chút, chứ thật ra trước đây chỗ nầy chỉ là một phòng ngủ 3x4 mét vuông, nếu tính cả phòng vệ sinh phía sau nữa thì “giang sơn tôi ngự trị” cũng chỉ rộng khoảng 16 mét vuông, nhưng cũng có cửa kính và cửa sổ để mỗi ngày tôi có thể nhìn xuống cầu thang hình xoắn ốc trống vắng tiếng chân và bóng người , để mà ngậm ngùi nhớ lại thời vàng son của trường những năm 1985 đến 1995, tức là từ 10 năm đến 20 năm về trước; có tủ âm tường đủ lớn để tôi có thể nhốt hết những đống hồ sơ giấy mỏng và vàng khè có số tuổi thọ xấp xỉ bằng thâm niên công tác của tôi tại trường nầy. Di chuyển từ trú sở cũ về đây, mọi thứ đều có thể vứt bỏ cho nhẹ bớt hành trang, nhưng hồ sơ kế toán thì không thể bỏ được, ít ra là đối với những hồ sơ trong vòng 10 năm trở lại đây :”thập niên thời hiệu” mà! Với lại, đối với hồ sơ kế toán, mọi thứ không phải chỉ là đống giấy tờ vô tri vô giác. Chúng biết nói cả đấy! Chúng có ngôn ngữ riêng của chúng mà chỉ có người trong cuộc mới đọc hiểu được. Chúng gắn liền với nhiều kỷ niệm khó quên của tôi.


2.- Tôi dò dẫm bước lên cầu thang và mở cửa phòng. Theo quán tính, tôi thò tay bật công tắc điện rồi sực nhớ ra, tôi cười thầm mình lẩm cẩm. Tôi bước ra sau mở toang cánh cửa phòng toilette để cho ánh sáng bên ngoài hắt vào phòng qua mấy ô kính mờ trên cao. Tôi ngồi vào bàn, bất động một lúc để cho cặp mắt có đủ thời gian làm quen với ánh sáng hắt hiu nhợt nhạt đang len vào phòng, thứ ánh sáng mà tôi vẫn thường thấy xuất hiện ở các bông gió trên bức tường trông ra đường phố mỗi buổi sáng khi những hồi chuông nhà thờ đột ngôït đánh thức tôi.

Tại thành phố nầy từ lâu mọi người đã quá quen với những lần cúp điện “ngang xương” như vậy . Người ta đón nhận sự kiện dó một cách thản nhiên và cam chịu,xem đó cũng giống như là một trong những hiện tượng tự nhiên của đất trời, như đang nắng chợt ào ào đổ mưa, đang sáng bỗng tối sầm…

Tôi không biết chừng nào có điện trở lại, tuy vậy tôi cũng không dám bỏ về. Nhưng tôi cũng không thể làm việc trong tình trạng không có điện được,huống chi phần lớn công việc của tôi là làm trên máy. Ánh sáng nhợt nhạt như thế nầy thích hợp cho sự mơ mộng hơn.

Sổ sách, hồ sơ, những bản thống kê, kế hoạch, báo cáo ,… tất cả những thứ khô khan và lỉnh kỉnh trước mắt tôi đây đã đeo bám lấy tôi ngày nầy qua tháng khác như một định mệnh u buồn, ảm đạm gần suốt nửa đời rồi !

Một cách máy móc tôi lật từng cái một đống hồ sơ trên bàn : Mắt tôi bỗng dừng lại một tấm hình phụ nữ để trong bìa “hồ sơ đang giải quyết”. Sực nhớ ra đây là ảnh nàng mà tôi đã in ra từ máy vi tính, tôi cầm tấm hình lên ngắm nghía : Vẫn khuôn mặt trái soan, tóc ngắn kiểu “Lollo úp vô”, chiếc mũi thẳng và kín, đôi môi mềm và thật ướt, còn đôi mắt thì phải nói là “buồn như cuộc đời”… nhưng sao hôm nay trông người trong ảnh có vẻ gì là lạ.Tôi nhớ lần đầu ngắm tấm ảnh nầy tôi chú ý ngay đến cặp mắt. Cặp mắt buồn u uất, vừa toát ra nét cương nghị của một phụ nữ biết tìm cách vượt qua những khó khăn của cuộc sống, vừa phảng phất vẻ yếu đuối nhi nữ thường tình. Tôi đã tự hỏi không biết khách má hồng nầy có gặp nhiều nỗi truân chuyên không đây?

Nhưng cái “vẻ là lạ” mà tôi chợt phát hiện khi ngắm nhìn tấm hình nàng hôm nay có lẽ là do cái dáng ngồi hơi nghiêng đầu, cằm tựa nhẹ vào hai bàn tay xếp chồng lên nhau, còn khuỷu tay thì chống xuống bàn. Dáng vẻ nầy thoạt đầu tôi cho là của một người đang trầm tư, nhưng hôm nay tôi lại thấy thoáng một chút tinh nghịch , cái vẻ tinh nghịch thường thấy nơi các cô gái thông minh và dạn dĩ. Tấm ảnh đó nàng đã gởi cho tôi qua thư điện tử, với lời rào đón kín kẻ như hàng rào kẽm gai nhưng rất chân tình, cởi mở : “Dặn dò anh, Vân biết là thừa : anh xem hình một mình thôi nhé . Vân biết gởi hình cho anh như thế nầy có thể bị hiểu lầm, nhưng… anh thông cảm là đủ!”

Lần đầu tiên tôi “biết mặt” nàng là như vậy đó. Còn trước đó, chúng tôi “gặp” nhau rất tình cờ. Nhân dịp nàng về thăm quê, có người gởi quà cho tôi nhờ nàng đem đến nhà. Nàng có đem quà về, nhưng không tìm gặp tôi để giao tận tay mà lại gửi ở nhà một người em họ của nàng trước khi trở lại nơi định cư. Thế rồi chẳng biết bằng cách nào nàng dò được địa chỉ “i-meo” của tôi để viết thư phân trần :”Vân làm mất tờ giấy ghi số nhà và số phone của anh nên đành quay về với sứ mệnh không hoàn thành nên lòng chẳng an… Vân với anh quả là chẳng có duyên gặp gỡ!” Thế rồi thư qua thư lại, cuối cùng tôi cũng nhận được gói quà, do em nàng đem đến nhà. Tôi ngạc nhiên nghe em nàng nói giọng Huế . Trong thư cám ơn, tôi viết thêm một câu thật lòng :” Xa Huế đã lâu , nay bỗng nhiên được nghe lại một giọng Huế đặc sệt, tôi thấy ấm lòng dễ sợ!”. Thế là nàng phúc đáp ngay :” Vân không phải người Huế đâu anh. Nhưng Vân biết tiếng Huế, biết nhiều nữa là đằng khác .Vân còn nói được giọng Huế … hơi trọ trẹ. Để Vân gởi anh đọc một bài viết của Vân đã được đăng trên các báo bên nầy. Anh đọc rồi sẽ hiểu tại sao Vân biết tiếng Huế , yêu tiếng Huế , thứ tiếng trước kia rất xa lạ đối với Vân, xa lạ đến nỗi Vân đã từng tuyên bố với bạn bè :

“ Ai ra xứ Huế thì ra ….. còn tôi thì không!”


Quả thật tôi không tài nào hiểu được sự tình cờ nào, cơ duyên nào đã khiến nàng nhanh chóng thay đổi thái độ từ thờ ơ với Huế đến chỗ có cảm tình với Huế , từ chỗ đang ngoảnh mặt quay lưng với Huế, đang dị ứng với Huế, bỗng trở nên ân cần, thân thiết, gần gũi với bất cứ ai, bất cứ cái gì , việc gì có dính dáng đến Huế, có liên quan xa gần đến Huế. Tôi chẳng hiểu tại sao bỗng dưng nàng say mê tìm đọc những sách báo viết về Huế, nàng cố gắng học thuộc những câu ca dao tục ngữ nói về con người Huế, tính cách Huế, sinh hoạt xã hội ở Huế v.v… Sau đó nàng tập ăn và tập nấu những món ăn Huế như bún bò giò heo, cơm hến, bánh tráng xúc mít trộn, vải trộn v.v… Chẳng bao lâu nàng đã trở thành một phụ nữ Huế, ít ra là dưới mắt bạn bè.


3.- Nói về sự thay đổi đó, trong một thư điện tử, nàng viết : “ Anh Trọng biết không, lúc trước Vân không ăn được nước mắm và không ăn được ớt đâu. Vân sợ ớt từ lúc còn bé cơ . Số là trong một bữa ăn,lúc ăn rau sống, chị của Vân đã cắn nhầm một trái ớt .Thật khủng khiếp. Cho đến bây giờ Vân vẫn còn nhớ rất rõ vẻ hoảng hốt cuống cuồng của chị lúc đó. Đang ăn, bỗng chị “ối” một tiếng rồi buông vội bát đũa , chạy như bị ma đuổi xuống bếp , ho sặc sụa.Vân lật đật chạy theo chị, không biết chuyện gì xẩy ra.Vẻ mặt của chị trông thật thảm thương , nước mắt nước mũi lòng thòng, mặt đỏ gay, miệng thì vừa xuýt xoa vừa kêu : nước! nước !Vân chẳng hiểu gì cả, nhưng khi mẹ Vân cuống quít bảo :” Mau rót cho nó một cốc nước, nó cắn phải trái ớt mọi đó” thì Vân mới biết sự lợi hại của những quả ớt bé tí tẹo kia.Từ đó chỉ mới nhìn thấy trái ớt thôi là Vân đã sợ rồi, có cho vàng cũng chẳng dám đụng tới!”

“ Còn nước mắm. Vân cũng không nhớ vì sao từ nhỏ Vân đã rất sợ nước mắm. Mâm cơm trong gia đình không bao giờ có chén nước mắm , vì hễ có mùi nước mắm là Vân hết muốn ăn cơm. Các món ăn đều được nêm bằng nước tương thay vì nước mắm. Nước tương thì Vân chịu được, không dị ứng. Trong bữa ăn ai cần nước mắm thì cứ việc xuống bếp mà tự phục vụ. Chẳng có ai phản đối hay phàn nàn gì về điều đó cả vì cả nhà ai cũng cưng chìu Vân . Lâu dần thành quen, hình như trong nhà không ai còn nhớ còn thèm món gia vị ấy nữa. Ba của Vân thường mắng yêu :” Nước mắm là món “quốc hồn quốc túy”mà con không dùng được, lớn lên chắc mày ở giá thôi con ạ” Lúc đó Vân mắc cỡ nên bỏ chạy không trả lời Ba.Nhưng tối đến nằm suy nghĩ, Vân thì thầm một mình :”Con thà ở vậy suốt đời chứ lấy chồng mà phải ăn nước mắm thì con không thể,con không chịu được đâu Ba ạ. Hoặc con ở giá, hoặc người nào muốn làm chồng con thì phải lập tờ cam kết suốt đời suốt kiếp không ăn nước mắm, thì con mới chịu lấy.”

Rứa mà, anh Trọng biết không, Vân đã ăn được nước mắm hơn 2 năm nay rồi. Hơn thế nữa, Vân còn ghiền nước mắm xắn ớt nữa đó.Anh muốn biết lý do à? Không nói cho anh biết đâu!”

“Không nói đâu” nghĩa là dần dà nàng nói hết! Khi yêu, hình như phụ nữ nào cũng tìm cách chia sẻ tâm sự với một người thứ ba mà họ tin cậy. Chưa thổ lộ được tâm sự thì ngủ chưa yên. Thổ lộ được rồi mới thấy thanh thản, thoải mái, thôi thì ca hát líu lo suốt ngày, lòng như mở hội.

Lý do nàng quay 180 độ từ chỗ đang sợ nước mắm trở thành thích ăn nước mắm thật ra chẳng có gì khó hiều. Chẳng có phép lạ nào ở đây cả. Cũng chẳng giống như trường hợp một anh kia – vốn rất ghét thịt cầy – vô tình ăn phải thịt cầy ngày nầy qua ngày khác mà cứ ngỡ là thịt dê, ăn riết đâm ghiền , đâu biết rằng đó chính là thịt “mộc tồn “ mà vợ anh nói dối là thịt dê để gạt anh (1).

Trường hợp của nàng không phải thế – không phải do phép lạ, cũng không phải bị ai gạt, ăn lâu rồi thành quen , hết dị ứng. Thế thì chỉ có một sức mạnh ghê gớm lắm mới có thể làm thay đổi con người nàng . Phải, đó là sức mạnh của tình yêu.

“Thương ai thương cả đường đi…”

Đường đi còn được thương lây, huống chi cái ăn cái uống!



(1) Câu chuyện đánh tráo khái niệm “dê” / “chó” nầy như sau : Có hai vợ chồng kia nhà nghèo, anh chồng thèm ăn thịt dê nhưng không có tiền mua. Chị vợ nghĩ ra cách làm thịt cầy cho chồng ăn, nhưng nói dối là thịt dê. Anh chồng khen ngon, đòi ăn “thịt dê”â mãi. Bữa nào không có thì thèm lắm, biểu vợ kiếm mua cho bằng được. Ít lâu sau, chồng hỏi :

- “Mình ơi, nhà ta nghèo khó, mình lấy đâu ra tiền mà ngày nào cũng đãi tôi thịt dê thế ? Chị vợ rơm rớm nước mắt :

- Em xin lỗi mình. Em đã nói dối. Em làm gì có tiền để mua thịt dê. Thịt cầy đó.

- Trời đất! Mình nói thật chứ?

- Thật đó ! Trước đây mình vẫn cho rằng ăn thịt cầy vừa tội lỗi, vừa kém văn minh, lại vừa tỏ ra mình quá tầm thường, quá thô tục trong cái ăn cái uống. Còn bây giờ mình nghĩ thế nào? Mai mình còn muốn ăn món “thịt dê” đặc biệt nầy nữa không?

- Có chứ! Ăn chứ ! Ngon mà ! Qua bàn tay nột trợ đảm đang của mình, món gì mà chẳng ngon ! Có dở cũng trở thành ngon ngay ! Thịt cóc cũng ngon!

- Mình chỉ được cái tài nịnh là không ai bằng !

- Còn cái tài ăn “thịt dê” nữa chứ !



4.- Trong một thư điện tử khác, Vân viết :” Thú thật với anh Trọng, Vân gặp Huy rất tình cờ, trong một buổi mạn đàm về văn chương. Thái độ nhã nhặn, cách ăn nói văn vẻ nhưng khiêm tốn của “anh chàng Huế” ấy khiến Vân chú ý. Rồi ngạc nhiên. Ngạc nhiên với chính mình. Thì ra cái mớ phương ngữ “răng mô ri tê” mà xưa nay Vân rất “dị ứng”, hôm nay nghe cũng chẳng đến nỗi nào! Cũng hay hay ! Nhất là qua giọng nói ấm áp gợi cảm kia, tiếng Huế nghe cũng “dễ thương” quá đi chứ ! Cuối buổi sinh hoạt, Vân cố chen lên đằng trước để trêu chàng Huế bằng một câu mà Vân cố ý phát âm các từ có dấu sắc, hỏi, ngã đều thành dấu nặng, nghe ngây ngô và khó chịu như người miền thượng phát âm tiếng Việt.

Thật không ngờ, chàng Huế chẳng mảy may để ý gì đến sự “chọc quê” của Vân mà chỉ mỉm cười rất hiền lành , không nói gì. Thú thật với anh, lúc đó Vân ức lắm. Không ngờ đàn ông Huế nghèo đến nỗi một câu nịnh đầm cũng không có !



“ Trở về nhà đêm hôm ấy Vân trằn trọc mãi. Từ khi bắt đầu “trổ mã” cho đến nay, chưa bao giờ Vân bị “coi thường” đến như vậy. Từ khi biết làm dáng, biết “điệu”, Vân đã quen với những sự săn đón, theo đuổi, mời mọc, chìu chuộng (và nhiều khi cả tán tỉnh nữa) của rất nhiều những chàng trai đã quen cũng như chưa hề quen biết . Dường như bất cứ ai hễ đã gặp Vân là đều muốn nhanh chóng “bắt được “ Vân ngay. Và mặc dầu với ai Vân cũng đối xử như nhau, rất chừng mực, rất dè dặt, tránh những cử chỉ hay lời nói thân mật tuy rất tự nhiên nhưng có thể gây ngộ nhận , thế mà Vân vẫn có cảm tưởng rằng người nào trong bọn họ cũng chủ quan cho rằng Vân đã là “của họ” rồi. Có người còn cư xử như muốn quản lý mọi giao thiệp của Vân nữa. Họ bảo Vân phải làm thế nầy, không được làm thế nọ. Vân thấy vừa tức cười vừa bực mình quá . Họ khiến Vân nghĩ đến mấy câu thơ của Nguyễn Bính :


…. Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười

Những lúc gần tôi

Và mắt chỉ

Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi…


Vân biết chỉ tại trời cho Vân có chút nhan sắc nhưng mọi chuyện xẩy ra khiến Vân e ngại. Vân nghĩ rằng có lẽ Vân sẽ phải khổ (hồng nhan đa truân mà!) và Vân cho rằng không ai thương yêu gì Vân đâu. Họ chỉ yêu bản thân họ đó thôi. Nói rõ hơn, họ chỉ theo đuổi Vân để thỏa mãn tính tự cao tự đại và bản năng muốn chinh phục của họ mà thôi.

Vì vậy, đối với mọi người, cho đến nay Vân chỉ đáp lại bằng một thái độ chừng mực, không quá thờ ơ lạnh nhạt để khỏi mang tiếng kiêu kỳ mà cũng không quá vồn vã thân mật để khỏi gây hiểu lầm tai hại. Nhiều khi lỡ nói với ai một câu thân mật hoặc vô tình nhìn ai hơi lâu một tí là cứ y như rằng câu nói ấy, cái nhìn ấy lập tức bị “giải mã “sai lệch ngay.Đàn ông là chúa ưa hiểu lầm , phải không anh? (không biết có anh trong số đó không nhỉ?)

Thế mà…… anh Trọng ơi, Vân không ngờ lần nầy có một người chẳng thèm quan tâm gì đến Vân cả. Vân đứng sừng sững trước mặt anh ta mà anh ta coi như …khúc cây, hay cái cột. Thật không ngờ người mà Vân định chọc quê lại chẳng “quê” chút nào cả, mà chính Vân mới là kẻ bị “quê”.

“ Hôm đó Vân trở về nhà vừa hoang mang vừa buồn bực mà không rõ lý do. Vân trở nên hay gắt gỏng một cách vô lý với mọi người trong nhà và tự nhiên thấy không thích đi ra ngoài nữa . Suốt ngày Vân cứ thui thủi trong phòng, đến giờ cơm nghe mẹ gọi mới ra khỏi phòng.Nhưng cũng kể từ đó Vân cố học để mong trở thành một người Huế, hay ít ra để cho giống với mẫu người Huế, càng giống nhiều chừng nào tốt chừng đó. Anh có cười Vân không đó ?

“ Bẵng đi một thời gian, cho đến một hôm………

Hôm ấy hội tổ chức một buổi văn nghệ. Vân sẽ đóng góp một tiết mục đơn ca (vì là hoạt động từ thiện nên Vân không thể khước từ được). Vân hoạt động văn nghệ đã khá lâu và trong cái thành phố nhỏ bé nầy hình như hầu hết mọi người đều biết đến Vân như một phụ nữ có nhiều” nghề mọn riêng tay” : ca hát, sáng tác nhạc, làm thơ, viết truyện ngắn, … nói như một người bạn nhà báo “mâm nào cũng có Vân” . Rứa mà không hiểu sao hôm ấy trước giờ trình diễn Vân thấy hồi hộp dễ sợ. Vân có tâm trạng như một thí sinh lần đầu tiên tham dự hội thi. Có lẽ linh tính đang mách bảo cho Vân biết có một điều kỳ diệu nào đó sắp xẩy ra.

Quả nhiên đúng như vậy. “Điều kỳ diệu” là một mảnh giấy viết vội của Huy, do một cậu bé mang đến dúi vào tay Vân rồi bỏ chạy . Mảnh giấy vỏn vẹn chỉ có hai câu ngắn ngủi (mà sau đó Vân đã đọc đi đọc lại cả trăm lần không thấy chán). Câu thứ nhất Huy xin lỗi bận họp không đến nghe Vân hát được. Câu thứ hai nửa như dặn dò, nửa như kỳ vọng, nhưng rất thân thiết :” Gắng hát thật hay em nhé !”.Anh Trọng, nếu Vân nói rằng hôm ấy Vân đã không thể hát được, chứ đừng nói chi đến chuyện “hát cho thật hay”, thì anh có tin không?

Quả thật hôm ấy Vân đã cố gắng hết sức để bước lên sân khấu, nhưng khi cầm lấy micro Vân không còn nhớ gì để hát cả.Trước mắt Vân chỉ là hình ảnh một anh chàng Huế có khuôn mặt chữ điền với đôi mày rậm che khuất cặp mắt sâu hun hút, buồn da diết và xa xăm như cổ tích mẹ kể thời thơ ấu . Căp mắt có tia nhìn rất hiền lành nhưng lại làm cho Vân thấy bủn rủn . Vân ràn rụa nước mắt, thổn thức không nói được lời xin lỗi với khán thính giả. Vân chạy bay ra xe, phóng như điên như cuồng , bất chấp tiếng la ó của đám đông và sự hoảng hốt của ban tổ chức buổi diễn. Về đến nhà, Vân chạy biến ngay vào phòng, để nguyên quần áo trên người, sà xuống giường úp mặt vào gối khóc ngon lành như chưa bao giờ được khóc . Vừa sung sướng vừa mệt mỏi, Vân ôm trọn câu nhắn gởi “Gắng hát thật hay em nhé” đi vào giấc ngủ ………………

Ai ngờ đâu….. anh Trọng quí mến, anh có thể tưởng tượng nổi không, anh có thể ngờ được không: ngay khi Vân nghĩ là Vân đã gặp người trong mộng thì bất hạnh đã ập đến.Khi Vân vừa tìm được tình yêu, chưa kịp đưa tay ra để nắm bắt lấy nó thì tình yêu bỗng vuột mất, đã bay xa về nơi vô cùng vô tận, không còn cách nào tìm gặp lại được nữa, anh Trọng ạ.

Một đêm cuối tháng 7 dương lịch. Phải, cuối tháng 7, khoảng một tuần sau khi Vân nghe tin Huy về VN dự Festival Huế. Đêm hôm đó Vân nằm chiêm bao. Trong mơ Vân thấy Huy xuất hiện ở ngoài khung kính cửa sổ phòng Vân, đăm đăm nhìn Vân bằng một ánh mắt lạ lắm. Vân hoảng sợ định la lên nhưng không la được. Bóng Huy ở cửa sổ nhạt nhòa dần rồi mất hẳn , nhưng Vân còn kịp trông thấy một bàn tay đưa vẫy như muốn chào từ biệt. Vân giật mình tỉnh dậy, mồ hôi ướt đẫm cả người. Vân chạy đến cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời tối đen như mực, Vân chẳng thấy gì ngoài một đốm sáng đang bay vút về phía cuối trời. Vân nghĩ có lẽ đó là một vì sao băng , và Vân chợt rùng mình, cảm thấy lành lạnh nên vội đóng kín cửa sổ . Vân trở vào cố ngủ tiếp nhưng không tài nào ngủ đươc nữa. Lúc đó Vân không dám nghĩ đến một điều xui xẻo có thể đã hoặc sắp sửa xẩy ra với Vân. Vân thấy bồn chồn, bứt rứt thế nào ấy!

Những điều Vân lo lắng lại là sự thực, anh Trọng ạ. Tờ báo sáng hôm ấy đã cho Vân biết điều mà Vân không dám nghĩ tới và không dám tin :


“Tai nạn máy bay vừa xẩy ra hôm qua ở VN. Một chiếc Air bus chở 123 người gồm hành khách và phi hành đoàn từ thành phố D. đi S. đã rớt ở tại một vùng rừng rậm gần thị xã P. Hành khách trên máy bay gồm 2 người Anh, 7 người Hàn quốc, 1 người Nhật , 11 người Trung quốc , 6 người Pháp , 1 người Thái Lan, 1 người Malaysia, 15 người Mỹ gốc Việt, số còn lại là người Việt Nam. Phần lớn trong số họ là khách du lịch. Một số khác vừa tham dự Festival Huế trở về. Tất cả nạn nhân đều được ghi nhận là mất tích. Chưa rõ nguyên nhân xẩy ra tai nạn. Cuộc điều tra đang được nhà đương cuộc sở tại tiến hành.”

Anh Trọng, đó là sự nghiệt ngã của định mệnh phải không ?


5.- Trong lá thư điện tử cuối cùng gởi cho tôi, nàng cho biết nàng đã quyết định sẽ theo đoàn thiện nguyện trở về VN tìm đến các trại cùi để chăm sóc và an ủi những kẻ bất hạnh đang sống trong sự lãng quên của cuộc đời đầy phong ba bão táp nầy . Họ đang rất cần tình thương . Nàng viết :”Đây có thể là một chuyến đi dài ngày và như vậy chắc là Vân sẽ lỗi hẹn với anh. Sẽ không còn có dịp:


……Bên tách cà phê góc quán nhỏ,

Xin một lần trút hết những niềm riêng


như đã hứa .Nhưng dù sao thì Vân cũng đã trút gần hết nỗi niềm tâm sự với anh rồi . Vân chỉ xin anh, nếu có thể được, làm giúp Vân một việc. Tháng tới có người quen về VN. Vân sẽ gởi anh giữ giùm Vân cuốn nhật ký .Đến ngày giỗ đầu của Huy (chắc anh không quên : ngày 23 tháng 7)anh lên chùa V.P đường L.Đ.H quận 11 – Vân được biết tất cả 15 bình cốt của 15 Việt kiều tử nạn trong chuyến bay định mệnh ấy đều được đem về thờ ở chùa Huế nầy nếu thân nhân của họ không có quyết định khác – anh sẽ thắp giùm Vân 3 nén hương cúng anh ấy, xong thay vì đốt vàng mã, anh đốt giùm Vân cuốn nhật ký của Vân. Vân tin rằng ở bên kia thế giới, Huy sẽ đọc và sẽ thấu hiểu được nỗi lòng của Vân….”


Cuốn nhật ký ấy tôi đã nhận đươc. Nó được bọc cẩn thận trong bao bì nylon. Ngoài bìa màu đỏ có ghi nắn nót một câu tiếng la tinh :

“In imagine per transit homo”


Dưới hàng chữ là hai chữ cái V và H viết lồng vào nhau theo kiểu chữ gothique rất đẹp. Trên góc trái bìa tôi thấy có gắn một chiếc băng đen nhỏ hình bình hành, loại băng tang mà người ta thường cài trên ngực áo.

Cầm cuốn nhật ký trong tay tôi thấy ngậm ngùi. Tôi rất muốn giở ra đọc nhưng tôn trọng sự riêng tư của nàng, tôi không dám.

Tôi nghĩ đến đôi mắt buồn u uất và tự hỏi không biết giờ nầy nàng đang làm công tác từ thiện trong trại cùi nào : Qui Nhơn, Huế hay ở tận miền Bắc xa xôi?

Miệt mài với công việc, liệu nàng có thể quên được mối tình vừa thầm lặng vừa sôi nổi đó không? Điều nầy tôi không biết. Nhưng có điều tôi biết chắc chắn là mai mốt đến ngày 23 tháng 7 tôi có thể lên chùa V.P, có thể thắp nhang tưởng niệm, nhưng tôi sẽ không thể cúng Huy và đốt cuốn nhật ký của nàng tại chùa như nàng dặn. Vì một lý do thật đơn giản : Huy không có tên trong số 15 người có cốt thờ ở chùa. Huy cũng không có tên trong danh sách 123 nạn nhân vụ rớt máy bay ngày 23 tháng 7 định mệnh.

Huy có về VN, có ra Huế dự Festival nhưng anh đã không vào D. cùng ngày với nhóm 15 Việt kiều và do đó không đi cùng chuyến bay với họ. Anh đã nán lại H. 1 ngày để liên hệ với nhà xuất bản T.H bàn về việc cho ra đời tập truyện ngắn thứ hai của anh. Tập truyện có tựa đề : “Tìm về kỷ niệm”

Tôi biết tin nhà văn Phan Tường Huy thoát chết khi Vân đã lên đường thực thi nhiệm vụ thiêng liêng cao quí của nàng. Tôi suy nghĩ mãi về việc có nên tìm cách báo cho Vân biết tin Huy còn sống không. Cuối cùng tôi quyết định giữ im lặng. Có lẽ như vậy sẽ tốt hơn. Cho Vân và cả cho Huy.

*

*

Ngày đã sắp hết mà điện vẫn chưa có . Tôi khép cửa phòng để ra về, lòng cảm thấy bồi hồi như vừa khép lại vĩnh viễn một câu chuyện tình không có khởi đầu cũng chẳng có kết cuộc, nhưng mà đẹp và thật buồn, buồn như cuộc đời !



THÂN TRỌNG THỦY

Trung thu năm Giáp Thân




LỊCH SỬ VÀ HUYỀN THOẠI TRONG CA DAO


A.- Ca dao là những câu hát lưu hành trong dân gian .Ca dao thường tả tính tình, phong tục của người bình dân nên còn được gọi là phong dao. Cũng như tục ngữ, ca dao không rõ ai là tác giả. Có lẽ lúc đầu có một người nào đó do xúc cảm mà làm ra, rồi vì lời hay, ý đẹp nên câu hát được phổ biến rộng rãi trong dân gian và truyền tụng cho đến ngày nay.


Về hình thức, ca dao được đặt theo mấy thể văn thuần Việt: lục bát (và biến thể), song thất lục bát (và biến thể), nói lối, hoặc có khi gồm cả hai hay ba lọai trên.

Về kết cấu, ca dao được đặt theo ba thể: phú, tỉ và hứng, hoặc có khi gồm cả hai hay ba thể trên.

Về ý nghĩa, ca dao có thể được chia làm nhiều lọai:

- Những câu hát của trẻ con (như bài “Thằng bờm có cái quạt mo…”)

- Những bài ru trẻ (như bài “Em tôi buồn ngủ buồn nghê/con tằm đã chín con dê đã muồi…”)

- Những câu nói về công việc làm ăn của dân quê

- Những câu nói về tín ngưỡng dân gian

- Những câu luân lý và tâm lý người đời

- Những câu hát về tình yêu và đời sống lứa đôi

- Những câu liên quan đến lịch sử

- V.v…

B.-Bài viết nầy chỉ nói đến một số câu ca dao liên hệ đến lịch sử (và dã sử) nhà Nguyễn, đặc biệt là những câu mà nhiều nhà sưu tập chưa thống nhất với nhau về ý nghĩa.

Câu 1: .- Kim Long có gái mỹ miều,

Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi.


Câu trên ám chỉ vua Thành Thái thường lên Kim Long tìm người đẹp. Kim Long là tên một cái làng nằm ở tả ngạn sông Hương, nơi có các phủ đệ của họ hàng bên ngọai các vua Nguyễn. Có lẽ nhờ nguồn nước mát ngọt của sông Hương và nhờ những vườn cây ăn trái xum xuê bốn mùa mà con gái Kim Long hầu như ai cũng “mỹ miều”.Thuở nhỏ tôi thường nghe kể rằng đêm đêm vua Thành Thái phi thân qua bức tường cao của hoàng thành rồi thẳng đường lên Kim Long. Thuở ấy tôi (cũng như nhiều thiếu niên đồng trang lứa) còn nghe nhiều chuyện khác về vua Thành Thái mà chúng tôi rất ngưỡng mộ, nhưng khi lớn lên một chút, biết suy nghĩ, chúng tôi hiểu rằng đó chỉ là chuyện thêu dệt, huyền thọai. Còn sự thật được nghe kể lại thì thế nầy: Thời đó, Vĩnh Quốc Công Nguyễn Hữu Độ có phủ ở Kim Long, sát bờ sông Hương. Ông có ba người con gái xinh đẹp, một gả cho vua Đồng Khánh, một gả cho em vua Hàm Nghi (Ưng Quyến), còn người con thứ ba chưa chồng tên là Nguyễn Hữu Thị Nga rất mỹ miều nên vua Thành Thái hay đi xe song mã đến nhà chơi. Sau đó, cô Nga được vua đưa vào cung , phong làm huyền phi, sinh được hai người con.Tương truyền câu ca dao trên là do chính miệng vua Thành Thái nói ra, xuất phát từ lúc vua đến nhà ông Nguyễn Hữu Độ lần đầu tiên.

Câu 2.- Rù đầu giả dại làm ngây,

Khôn kia dễ bán dại nầy mà ăn.

Câu ca dao nầy thoạt nghe cứ tưởng là nói về chuyện đời thường hoặc nói đến thế thái nhân tình, ai ngờ lại có dính dấp đến lịch sử. Nó ám chỉ chuyện Nguyễn Hòang giả điên.

Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) là con thứ hai của Nguyễn Kim. Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Nguyễn Kim cùng một số cựu thần của nhà Lê chạy vào Thanh Hóa. Năm 1533 Nguyễn Kim tôn lập Lê Ninh lên ngôi, tức Lê Trang Tông . (1533-1548). Năm 1545 Nguyễn Kim bị một tướng trá hàng của nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Sau khi Nguyễn Kim chết, rể là Trịnh Kiểm chuyên quyền cậy thế, giết hại con trưởng của Nguyễn Kim (và là anh vợ Trinh Kiểm) là Nguyễn Uông để thâu tóm hết quyền hành về tay mình. Dĩ nhiên Trịnh Kiểm còn muốn trừ khử cả Nguyễn Hoàng nữa.

Cậu ruột của Nguyễn Hoàng là Thích Quận Công Nguyễn Ư Dĩ biết rõ lòng dạ của Trịnh Kiểm nên khuyên Nguyễn Hoàng nên cầu cứu với bà chị là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, chính phi của Trịnh Kiểm. Bà nầy lập mưu, bắt Nguyễn Hoàng giả điên rồi xin với Trịnh Kiểm cho em mình vào trấn trị ở Thuận Hóa và Quảng . Trịnh Kiểm nghĩ rằng hai xứ ấy là nơi rừng thiêng nước độc, đang có quân nhà Mạc,”ta cứ cho hắn đến , kể như mượn tay nhà Mạc để trừ khử đi, ta vừa tránh được hậu họa, lại vừa tránh được tiếng không biết dùng người’’, bèn ưng thuận. Trịnh Kiểm liền tâu vua phong cho Nguyễn Hoàng làm Thái Úy Đoan Quốc Công, giữ chức trấn thủ Thuận Hóa. Thế là kế giả điên của Nguyễn Hoàng thành công. Từ chức vụ Trấn thủ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng trở thành người khai sáng ra triều đại nhà Nguyễn sau nầy ở trong .

Câu 3.- Ăn sung nằm gốc cây sung,

Lấy chồng thì lấy, nằm chung không nằm.


Trong thời gian cụ Phan Bội Châu bị Pháp giam lòng ở Huế (1925 – 1940), người ta nghe nhắc đến câu ca dao trên, nghĩ rằng đó là tâm sự của cụ. Quả thật, hồi đó cụ chủ trương chính sách Pháp Việt đề huề nên nhiều người đâm ra hoài nghi. Để đánh tan sự ngờ vực đó,cụ đã mượn câu ca dao trên làm đầu đề cho một bài thơ Đường như sau:


Thời thế xui nên giả vợ chồng,

Lấy anh chưa dễ đã nằm chung.

Ừ chơi cho nó toi đồng bạc,

Há để cho ai nếm má hồng.

Cười gượng lắm khi che nửa mặt,

Khóc thầm vì nỗi khác hai lòng.

Bao giờ duyên mới thay duyên cũ,

Thỏa thuận cùng nhau tát bể đông.


Đọc bài thơ, ta hiểu ý cụ muốn thanh minh rằng chính sách Pháp Việt đề huề chỉ là chủ trương bất đắc dĩ, chứ thực tình cụ không muốn hợp tác.

Hiểu ngụ ý của câu ca dao rồi, hẳn chúng ta sẽ không còn cười cô gái kỳ khôi : lấy chồng mà không muốn nằm chung với chồng sao được?

Câu 4.- Chiều chiều ông ngự ra câu,

Cái ve, cái chén, cái bầu sau lưng.


Câu nầy có hai cách giải thích:

- 1)-Vua Duy Tân giả vờ đi câu để gặp gỡ hai ông Thái Phiên và Trần Cao Vân mưu việc lớn. Việc không thành, hai ông Thái Phiên và Trần Cao Vân bị xử tử, còn vua Duy Tân thì bị đi đày.

- 2)-Chữ “ngự” có hai cách dùng: cách thứ nhất chỉ việc làm của vua, vua ăn thì gọi là ngự thiện, vua đi săn gọi là ngự lạp, vua đi đánh giặc gọi là ngự giá thân chinh…; cách dùng thứ hai chỉ chức quan làm việc cho vua như ngự y, ngự sử v.v.. Nếu chữ “ngự” trong câu trên ám chỉ vua, thì chỉ có hai ông vua có đi câu: vua Duy Tân (câu ở Hậu Hồ trong đại nội) và vua Tự Đức (thường câu ở hồ sen trong lăng Tự Đức – vua chưa băng hà nhưng đã xây lăng, chú thích của TTT). Gán chữ “ngự” cho vua nào cũng không ổn cả, vì hai lẽ: thứ nhất theo một vị bô lão cho biết, lúc ông còn nhỏ nghĩa là lúc chưa có vua Duy Tân thì ông đã nghe câu đó rồi; thứ hai nếu bảo “ông ngự” chính là vua Tự Đức thì cũng không ổn vì người ta nói “vua ngự’’chứ không ai gọi vua là “ông” cả. Còn nếu nói rằng chữ “ngự” ám chỉ mấy ông ngự y hoặc ngự sử lại càng không ổn, vì mấy ông nầy chỉ là những ông quan nhỏ, không ai đặt thành câu hát làm chi!

Tôi không tán thành ý kiến đó, bởi vì nếu thế sao ta còn nghe truyền tụng câu sau đây:


Chiều chiều ông Lữ đi câu,

Bỏ ve, bỏ chén bỏ bầu ai mang.


Ông Lã Vọng (Khương Tử Nha) đời nhà Chu, học rộng nhưng không ra làm quan, năm 80 tuổi vẫn còn ngồi câu cá ở bờ sông Vị Thủy. Một hôm Chu Văn Vương đi săn gặp ông ngồi câu cá, biết ông là người có tài liền mời về tôn làm quân sư.

Vậy khi còn ngồi câu cá, ông Lã (hay ông Lữ cũng rứa) chưa là ông quan chứ khoan nói đến quan to hay quan nhỏ, can cớ chi người đời đặt câu hát?

Nhưng thôi, đó là chuyện bên Tàu, tôi chỉ nhắc câu ca dao nầy để nêu giả thuyết rằng biết đâu câu “chiều chiều ông ngự ra câu…”là do câu “chiều chiều ông Lữ đi câu…” đọc trại ra chăng?


Câu 5.- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,

Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai.

hoặc : Chiều chiều lại nhớ chiều chiều chiều,

Nhớ người đãy gấm khăn điều vắt vai.

“Người quân tử khăn điều vắt vai” là ai?


Có 3 lời giải đáp:

a)- Đó là mẫu người đàn ông thời xưa: Trang phục của đàn ông ngày trước khi đi ra ngoài đường là đầu chít khăn đóng, che dù đen, mình mặc áo dài trắng hay áo lương đen, quần dài trắng, chân đi guốc hay giày hạ, vai mang một cái đãy bằng vải trong đựng giấy tờ, thơ phú hay các đồ dùng cá nhân.

b)-Đó là An Phong Công Hồng Bảo, con trưởng của vua Thiệu Trị: Hồng Nhậm (Tự Đức) là con thứ hai của vua Thiệu Trị nhưng lại được nối ngôi, Hồng Bảo vì quá uất ức và không cam chịu ngai vàng tuột khỏi tay mình nên âm mưu cướp lại .Sự việc bị phát giác, ông bị Tự Đức giam vào ngục, sau đó ông tự tử trong ngục. Xác ông bị đem vùi chôn nơi bụi tre, mấy đứa con của ông cũng bị bắt giam, người con trưởng bị đổi ra họ Đinh là họ mẹ.

Cảm thương Hồng Bảo bị chết thảm nên thầy học cũ của ông là Tương An Quận Công mới làm câu ca dao trên.

c)-Đó là vua Hiệp Hòa: Theo cụ Tùng Lâm – một thâm nho ở Huế - thì câu trên là của công chúa Đông Xuân (con vua Thiệu Trị) đặt ra để tưởng nhớ vua Hiệp Hòa bị hai quyền thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường sát hại.Lúc còn là hoàng tử (Văn Lãng Quốc Công Hồng Dật), ông hay mang cái đãy gấm đựng điếu thuốc vấn sẵn móc bên nút áo và cái khăn điều vắt bên vai để lau nước trầu ở miệng. Ông hay đi dạo vào buổi chiều và thường đến chơi với công chúa Đông Xuân. Vua Thiệu Trị có tất cả 64 người con, 29 hoàng tử và 35 công chúa. Hồng Dật là hoàng tử thứ 29 (không biết năm sinh),còn công chúa Đông Xuân tên thật là Gia Phúc, sinh năm 1847, là công chúa thứ 35. Năm bà 16 tuổi, vua Tự Đức gả bà cho Nguyễn Lâm, con trai danh tướng Nguyễn Tri Phương. Năm 1873 Nguyễn Lâm tử trận, bà còn rất trẻ. Không rõ hoàng tử Hồng Dật thường đến chơi với bà lúc bà đã có chồng hay trước lúc đó, nhưng điều đáng nói là quan hệ giữa bà và ông anh nầy không thấy có điều tiếng gì đáng chê trách, trong lúc đó giữa bà và một ông anh khác ( cùng cha khác mẹ) là Gia Hưng Vương Hồng Hưu thì xẩy ra chuyện lọan luân khiến cho dư luận đương thời lên án nặng nề còn triều đình thì kết tôi. Ông bị đưa đi an trí ở Lao Bảo, còn công chúa Đông Xuân thì bị phế làm dân thường và bị đổi qua họ mẹ là họ Hồ.Trong thời gian vua Đồng Khánh lên trị vì, bà tỏ ra ăn năn hối cải, một mực thờ chồng nuôi con, cả lưỡng cung và nhà chồng đều thương tình nên vua cho phục hồi công chúa, nhưng đổi sách phong lại là Phục Lễ Công Chúa (phục lễ = trở lại với lễ).

Trong 3 câu giải đáp, có lẽ câu thứ ba hợp lý hơn cả.

Câu 6.- Gió đưa cây cải về trời

Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.


Câu nầy cũng có 3 lối giải thích khác nhau:

a)-Ám chỉ vua Lê Chiêu Thống và bà hoàng thái hậu chạy qua Tàu. Bà phi Nguyễn Thị Kim theo không được nên trở về quê.

b)- Ám chỉ 20 vạn quân Tàu bị vua Nguyễn Huệ đánh cho tan tác (về trời), còn Lê Chiêu Thống thì bị chê cười (chịu lời đắng cay).

c)- Ám chỉ bà Lê Thị Răm và con bà là Nguyễn Phúc Cải. Lê Thị Răm quê làng An Hải, Hội An. Nguyễn Ánh và cô Răm đã yêu thương nhau từ năm cô 15 tuổi/16 tuổi ta (1775) chèo đò chở công tử Ánh (lúc đó 13 tuổi/14 tuổi ta) đi thăm đảo Yến ở Cù Lao Chàm. Năm 1776, chúa Nguyễn Phúc Thuần bị Nguyễn Huệ đánh chiếm Quảng Nam doanh, liền đem Nguyễn Ánh vượt biển chạy vào Gia Định. Nguyễn Huệ lại đem quân đánh đuổi chúa Nguyễn chạy vào Định Tường, rồi giết Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên. Nguyễn Ánh chạy thoát. Cô Răm vượt biển chạy theo tiếng gọi của tình yêu và đến năm 1778 thì họ có với nhau đứa con trai đầu lòng đặt tên là Nguyễn Phúc Cải. Sau khi xưng vương ở Gia Định, Nguyễn Ánh đổi tên bà Răm là Phi Yến phu nhân, đổi tên Cải là Nguyễn Phúc Hội An, để kỷ niệm nơi gặp bà Răm lần đầu tại Cù lao Chàm (tức đảo yến, Hội An).Năm 1783 Nguyễn Ánh lại bị Nguyễn Huệ đánh đuổi, phải chạy ra Côn Đảo, lính tráng thuyền bè tan tác cả. Nguyễn Ánh bảo vợ là Phi Yến trao con trai là Hội An (lúc đó 5 tuổi / 6 tuổi ta) cho Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) đem qua Pháp làm con tin để xin cầu viện. Bà Phi Yến không chịu liền bị Nguyễn Ánh giam vào hang đá vắng vẻ ở hoang đảo Cỏ Ống..Chú bé Hội An khóc lóc đòi mẹ làm cho Nguyễn Ánh rất tức giận. Ông thét lớn:”Mi muốn theo mẹ mi thì tau cho mi xuống âm phủ để mi theo mẹ mi!”Thế là ông sai ném Hội An (tức Cải) xuống biển. Dân làng vớt xác Cải lên chôn cất tử tế.Ít lâu sau quân Tây Sơn vây đánh Côn Đảo, Nguyễn Ánh chạy thóat khỏi đảo, bỏ lại bà vợ trong hang sâu. Dân làng dò la cứu bà ra và làm cho bà một căn nhà nhỏ bên mộ con bà. Nhưng một hôm bà bị tên chủ làng là Biện Thi lẻn đến nhà hãm hiếp.Ngay đêm đó bà treo cổ tự tử. Chuyện thảm thương như vậy nhưng sách ‘’Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả” không hề ghi tên bà phi Lê Thị Răm tức Phi Yến, cũng không nói gì đến hoàng tử Cải tức Hội An. Tên mẹ con bà chỉ còn được nhắc đến qua câu ca dao:

Gió đưa cây cải về trời

Rau răm ở lại chịu lời đắng cay

mà ai đó đã sửa lại thành: “Gió đưa cây cải về trời,

Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”

cho phù hợp với nội dung câu chuyện.

Đối chiếu với lịch sử ta thấy nếu câu chuyện “rau răm và cây cải”là chuyện thực thì Nguyễn Phúc Cải sinh cùng một năm với Nguyễn Phúc Cảnh. Theo chuyện nầy năm 1783 Nguyễn Ánh dự tính gởi Cậu Cải cho Giám mục Bá Đa Lộc đem qua Pháp làm con tin thì theo sử sách, hoàng tử Cảnh cùng Giám mục Bá Đa Lộc lên tàu qua Pháp ngày 25 tháng 1 năm 1784.Vậy có thể hiểu rằng sau khi tính chuyện gởi hoàng tử Cải đi theo Giám Mục Bá Đa Lộc không xong, Nguyễn Ánh mới đưa hoàng tử Cảnh thay thế vai trò con tin. Nghe có vẻ trùng khớp về thời gian, nhưng có một nhân chứng quan trọng không nên bỏ sót. Đó là Giám Mục Bá Đa Lộc. Nếu Cậu Cải và Bà Răm là hai nhân vật có thực thì Giám Mục Bá Đa Lộc ắt phải biết, phải nhớ vì Giám Mục là người được Nguyễn Ánh gởi gắm cậu Cải. Thế sao không ai tìm thấy vết tích gì về bà Răm và Cậu Cải trong những bài vở, sách báo viết về Giám Mục Bá Đa Lộc?

Xin tạm kết thúc câu chuyện nầy cùng với nỗi thắc mắc còn đeo đẳng.


THÂN TRỌNG THỦY


Tài liệu tham khảo:


1.- Ca dao xứ Huế bình giải của Ưng Luận, Sở VHTT Thừa Thiên Huế,1999

2.-Giai thọai dã sử Việt của Nguyễn Khắc Thuần, NXB Trẻ, 2000

3.- Việt Sử Giai Thoại của Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo Dục, 2002.

4.- Từ Điển Thành ngữ, Tục ngữ, Ca dao Việt của Việt Chương, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2003.

5.- Chuyện Kín Cấm Thành của Mai Thanh Hải,NXB Văn Hóa Thông Tin, 2008

6.- Công Chúa Việt ,NXB Thanh Niên, 2006

7.-Việt Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm, Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục xuất bản, 1941

8.- Giai thọai Làng Nho của Lãng Nhân,NXB Văn Học, 2001

9.- Trang web NetCodo

10.-Ca dao Tục ngữ Việt của Hà Phương Hoài, trang web e.cadao.com

11.- Bài viết về “Cây cải về trời” của Hoàng Long Hải-Tuệ Chương, vietno.com.

12.- Bài viết”Công chúa lấy chồng” của Võ Hương An.




Ghi chú : Một bạn đọc có ý kiến :


Bài khảo cứu rất công phu.
Đề nghị tác giả viết thêm huyền thoại về câu đố sau đây:
Trái chi nho nhỏ dễ thương/
Mắc hai chứng bịnh cũng liều đánh Tây.


Xin mời đọc tiếp bài sau đây, nói về Huyền thoại trận Mù U :


Huyền thoại trận Mù-u

Võ Hương-An

Thập niên 1960, Nhật Bản có một cuốn phim đen trắng rất nổi tiếng, phim Rashomon, Lã Sinh Môn. Phim nổi tiếng không vì tài tử xuất sắc, tiếng tăm gạo cội, cũng không vì hình ảnh đẹp, dàn dựng công phu tốn kém, mà vì cốt chuyện thâm thúy. Dưới cổng Rashomon một chiều mưa tầm tã, mấy người trú mưa cùng kể về một vụ án mạng nhưng không ai giống ai, vậy thì sự thật ở chỗ nào? Thế mới biết bắt đúng sự thật không phải dễ, huống hồ là sự thật lịch sử, những việc khi chúng ta nói tới đã cách chúng ta biền biệt cà hàng chục, hàng trăm hay hàng ngàn năm. Tam sao thất bản, nếu có, cũng là chuyện thường, nhất là khi người kể, người viết không nắm bắt được dữ kiện, lại phóng chiếu câu chuyện bay bổng theo trí tưởng tượng của văn chương. Tôi nhớ đến những hòn bi mù-u thời thơ ấu và trận giặc mù-u lãng đãng mây khói trong không khí cổ tích.

Lần đầu tiên được thoát khỏi sự canh chừng của mệ ngoại để theo lũ bạn hàng xóm mặc quần xà-lỏn, quẹt mũi ngang, chạy rông từ xóm Tả Tam trong Thành Nội (Huế) lên Cầu Đất, ra đường Ngọ Môn (23 tháng 8), đường Cột Cờ (Ông Ích khiêm), lượm trái mù u về làm bi để đánh bi mo, đánh đáo, quả là một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Con nít, đứa nào lại không thích đánh bi, nhưng tiền đâu để mua bi thủy tinh như tụi con nhà giàu? Những trái mù u chín vàng, rụng xuống cỏ, lâu ngày mưa nắng làm cho lớp vỏ ngoài tróc đi, còn lại cái hột tròn có vỏ cứng, con nhà nghèo lượm về làm bi, tuy không đẹp như bi thủy tinh nhưng chơi cũng hết ý như ai. Khi tôi vỗ vào hai cái túi áo cổ kiềng đầy mù-u để khoe thành tích phiêu lưu với mệ ngoại, bà bình luận ngay:

-Hồi xưa, mấy ông tướng của mình dùng mù-u ni để đánh trận với Tây đó. Giết Tây chết như rạ.

Nghe chuyện lạ, tôi hỏi ngay:

-Bộ mấy ông dùng mù u làm đạn để bắn Tây hả mệ?

-Không, nghe kể là mấy quan tướng của mình thấy Tây không có đầu gối (?!), khi đi, hai chưn cứ thẳng băng như cột tre, nếu ngã té chắc chắn không đứng dậy được. Bởi rứa, mấy quan tướng sức dân nạp mù-u, rồi sai quân rải ra đầy đường. Tây đi giày, đạp nhằm mù-u, trượt té, nằm thẳng cẳng. Quân mình phục sẵn, tha hồ đổ ra đánh giết, Tây thua.

Lớn lên, cũng có lúc nghe một đôi người cao giọng kể về thành tích trận mù-u đánh Tây, nhưng khi hỏi đó là trận nào, xảy ra ở đâu, thì không người nào nói cho ra vạch. Đọc trong sử, cũng không thấy có chỗ nào nhắc đến vụ mù-u, lòng cứ vẩn vơ thắc mắc, chuyện đánh giặc giữ nước mà nghe như đùa. May mắn, về sau chuyện này lại được học giả Thái Văn Kiểm nhắc đến trong cuốn Cố Đô Huế rất nổi tiếng của ông.

“Ngày nay trong văn chương bình dân còn truyền lại câu ca dao:

Văn Thánh trồng thông

Võ Thánh trồng bàng

Ngó vô Xã Tắc: hai hàng mù u

“Câu này nhắc lại lại một chiến công dưới thời vua Tự Đức. Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã tắc, bèn lấy trái mù u đổ ra đầy đường. Quân Pháp đi giày da, đạp lên mù –u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy ra đánh xáp lá cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì vậy mới gọi là trận giặc mù u. Ngày nay, hai bên đường xã tắc, còn hai hàng mù- u (callophylum) cao ngất nghểu thỉnh thoảng rụng trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang sử oanh liệt.”(Thái Văn Kiểm, tr.3)

Đã gọi là “trang sử oanh liệt” thì người dân nào lại không lấy làm hãnh diện về sự nghiệp giữ nước của tổ tiên mình, huống chi đối với tôi, là người địa phương, nơi diễn ra chiến tích đó. Phải tìm hiểu thì hãnh diện mới có căn chứ. Nhưng…vậy mà không phải vậy.

Thời Tự Đức, Pháp đánh Huế mấy lần?

Nước Pháp liên minh với Tây Ban Nha, mở đầu cuộc xâm lăng Việt Nam lần đầu tiên vào ngày 1/9/1858 tại Đà Nẵng, dưới thời vua Tự Đức (trị vì :1847-1883). Năm 1862, sau khi mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường), triều đình Huế phải ký Hòa ước Nhâm Tuất, nhường ba tỉnh đã mất cho Pháp. Từ đó cho đến khi băng hà vào năm 1883, vua Tự Đức còn ký thêm một hòa ước nữa, đánh dấu thêm một bước thụt lùi của nền độc lập. Đó là Hòa ước Giáp Tuất ký năm 1874, sau khi thất thủ thành Hà Nội lần thứ nhất vào năm 1873, tướng thủ thành là Nguyễn Tri Phương bị thương, bị bắt nhưng đã can trường nhịn đói chịu đau mà chết; thêm vào đó lại mất thêm mấy tỉnh miền trung du.

Lịch sử cho thấy trong suốt thời gian vua Tự Đức trị vì, quân Pháp chưa bao giờ tấn công Huế - ngay cả tấn công cửa Thuận An, cổng ngỏ vào Huế, cũng chưa, nói chi tới việc quân Pháp vô trong kinh thành, rồi tiến lên đàn Xã Tắc giữa hai hàng mù-u để rồi bị phục binh của ta đánh giết!

Nhà Nguyễn lập ra đàn Nam Giao để tế Trời, (Hiệu Thiên Thượng Đế) lập ra đàn Xã Tắc để tế thần Đất. (Hai chữ xã-tắc cũng chỉ về đất nước, sơn hà xã tắc). Vì vậy, thuở xa xưa bên Tàu, hễ chiếm được đàn xã tắc của nước nào có nghĩa là làm chủ được nước đó, nhưng đến thời Tây qua xâm lăng Việt Nam thì đâu có cần làm vậy. Tây không cần chiếm đàn Xã Tắc hay đàn Nam Giao, lại còn ủng hộ việc tế đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, mà Việt Nam vẫn bị mất nước non cả trăm năm! Đàn Xã tắc chưa bao giờ là một mục tiêu quân sự trong suốt quá trình xâm lăng của Pháp ở Việt Nam.

Có hay không trận mù-u? Một chút lịch sử

Vậy thì không có trận mù-u?

Có chứ. Nhưng không phải như Hương Giang Thái Văn Kiểm đã dẫn. Nó thuộc về một biến cố khác, không ở dưới thời vua Tự Đức, mà cũng không dính líu gì đến đàn Xã Tắc. Nó là một phần nhỏ trong biến cố thất thủ kinh đô năm Ất Dậu, 1885, thời vua Hàm Nghi (1884-1885). Tôi xin trích của Trần Trọng Kim môt đoạn sử sau đây để bạn đọc có chút ý niệm về biến cố:

“ [1884] Nhưng ở các nơi, những quan cũ ta còn chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế đủ mọi đường. Tháng 9 năm Giáp Thân (1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức [thân phụ vua Thành Thái] giam vào nhà tối, không cho ăn uống để chết đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai ông ấy lại mộ quân tập lính và lập đồn Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy, phòng khi có việc gì thì đem quân ra đó để chống nhau với quân Pháp. Cũng vì các ông ấy có ý muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đã chiếm giữ Mang Cá ở thành Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.

Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ. Bấy giờ sự hòa ước với Tàu đã xong, bởi vậy thống tướng mới định vào Huế bắt Triều đình ta phải chịu quyền bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội đã nói chuyện với các người Pháp và những người Nam ra làm quan với Pháp, đã biết tình hình ở trong Huế là thế nào. Đến ngày 19 tháng 5 thì

thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đình cử hai quan đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón thống tướng ở cửa Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đòi hai quan phụ chính sang bên Khâm sứ để định việc vào yết kiến vua Hàm Nghi.

Hai ông ấy lúc bấy giờ còn đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay mình cả, mà thấy thống tướng làm sự đường đột như thế, cũng đã tức giận lắm…Ông Tường thì là một tay giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng biến, cho nên lúc ấy chỉ có một mình ông Tường sang ra mắt quan thống tướng De Courcy mà thôi, còn ông Thuyết thì cáo bệnh không sang.Thống tướng thấy vậy, bảo đau cũng phải khiêng sang.Tôn Thất Thuyết thấy quan Pháp ra oai như thế, phần thì tức giận,

phần thì sợ, lại nhân lúc bấy giờ mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng đấy là điềm trời xui khiến bèn quyết ý sửa soạn để đánh nhau.

Thống tướng De Courcy định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi, thì phải mở cửa chính, không những chỉ để quan nước Pháp đi mà thôi, nhưng lại phải để cả quân lính cùng đi vào cửa ấy. Triều đình thấy điều ấy trái với quốc lễ, xin để thống tướng đi cửa giữa, theo như sứ Tàu ngày trước, còn quân lính thì xin đi cửa hai bên, thống tướng nhất định không

chịu.

Trưa hôm 22 các quan ở CơMật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định cho xong việc đi cửa chính, cửa bên, nhưng thống tướng De Courcy không tiếp. Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật sang tặng thống tướng, thống tướng cũng khước đi không nhận. Các quan thấy thống tướng làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ý tứ gì mà khinh mạn Triều đình đến như thế. Tôn Thất Thuyết càng thấy thế càng lấy làm tức giận, thôi thì sống chết cũng liều một trận, họa may trời có giúp kẻ yếu hèn gì chăng? Ấy là lúc tướng sĩ lúc bấy giờ ai cũng tưởng như thế, cho nên mới định đến nửa đêm khởi sự phát súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá [VHA nhấn mạnh]

Chiều hôm ấy thống tướng làm tiệc đãi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, thì súng ở trong thành nổ ra đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân Pháp thấy bất thình lình nửa đêm quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế nào, chỉ yên lặng mà chống giữ. Đến sáng ngày 23 [4/7/1885] mới tiến lên đánh, thì quân ta thua chạy.”

Quân Pháp phản công bằng hai mũi: mũi thứ nhất, phát xuất từ Mang Cá; mũi thứ hai từ Tòa Khâm, băng qua sông Hương. Cả hai mũi đều nhắm Đại Nội làm mục tiêu. Khoảng 7 giở rưỡi sáng, vua Hàm Nghi và tam cung lục viện thoát ra Đại Nội bằng cửa Chương Đức ở phía tây, rồi sau đó ra khỏi kinh thành bằng Cửa Hữu, bắt đầu một cuộc hành trình đầy gian nan. Tám giờ sáng, quân Pháp treo cờ trên Kỳ đài trước Ngọ Môn, họ hoàn toàn làm chủ kinh đô và họ không đụng gì đến đàn Xã Tắc.

Nhân chứng hiếm hoi của trận mù-u

Sử ghi vắn tắt về biến cố Ất Dậu, thì làm sao biết được mù-u đã được sử dụng ở đâu và khi nào? Ngày nay, khó ai trả lời được câu hỏi này nếu tác giả Lô Giang Tiểu Sử đã không chịu khó ghi lại đôi dòng cho con cháu trong nhà. Lô Giang Tiểu Sử là hồi ký của cụ Thượng thư hưu trí Nguyễn Văn Mại, hiệu Tiểu Cao, viết bằng chữ Nho, đã được con trai là ông Nguyễn Hy Xước dịch ra Việt ngữ năm 1947, in ronéo, lưu hành nội bộ gia đình. Một vài thân hữu của gia đình may mắn được đọc hồi ký này, đã nhận ra rằng ngoài chuyện cũ của cá nhân và gia đình được ghi lại, Lô Giang Tiểu Sử còn là một nguồn sử liệu hữu ích vì chứa đựng nhiều chi tiết liên quan tới lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX; vì vậy, bản phóng ảnh Lô Giang Tiểu Sử cũng được lưu hành giữa một số người nghiên cứu sử xuất thân từ Huế. Cụ Tiểu Cao đỗ Phó bảng khoa thi Hội năm Ất Dậu (1885). Ngày 15 tháng Năm (âm lịch) vào thi Đình, đang chờ kết quả thì xảy ra biến cố thất thủ kinh đô vào sáng ngày 23 tháng Năm, Ất Dậu (4/7/1885).

Xin mời bạn đọc vui lòng xem bản đồ in kèm bài này để nắm vững những địa danh được nói đến, để thấy sự việc rõ hơn.

Ngay từ ngày 22 tháng 5, cống sĩ [1] Nguyễn Văn Mại đã ghi nhận rằng :

“Lúc đó, ta vào thi Đình xong, cùng với anh Trần Đào Tiềm đến Bộ Lễ để chờ kết quả kỳ thi, thì thấy trong thành [kinh thành], từ Trấn Bình Đài [Mang Cá] cho đến Lục Bộ, hai bên đường đều đào hào, lính các trại đều mang gươm súng sẵn sàng, trước các trại lính đều chất đầy những thùng chứa cột chuối để phòng bị. Hai bên đường từ Trấn Bình Đài mà ra chất đầy những đống trái bàng và mù - u ”(VHA nhấn mạnh) (tr. 35)

…“ 7 giờ đêm hôm ấy, trước khi giao chiến thì Tôn Thất Thuyết mật phái một toán quân đến vây Tòa Sứ, còn quân lính trong thành đều chủ lực về mặt bắc Trấn Bình Đài, và để lại trại không. Đến giờ bắt đầu giao chiến, quân ta bắn trước mà quân Pháp chỉ bắn trả mà thôi… Trong thành, quân ta bắn tiếp vào Trấn Bình Đài từ 8 giờ đêm cho tới 1 giờ sáng, nghe trong đài ít bắn ra, quân ta áp vào và la to: đã áp vào Trấn Bình Đài rồi. Tiếng la như sấm. Không ngờ khi quân ta bắn thì quân Pháp đều núp xuống hầm để đợi, chỉ thỉnh thoảng bắn trả ít thôi. Đến 3 giờ sáng quân Pháp nghe chừng quân ta bắn sưa ra và sắp áp vào Trấn Bình Đài thì họ vùng dậy bắn cả một loạt, quân ta thuốc đạn ít, không địch nổi, đua nhau mà chạy, quân Pháp đuổi theo và bắn chỉ thiên.”

“Quân ta nghe tiếng súng không biết ngã nào, đạp nhau mà chết trong hào hoặc giữa đường, người trước bước trên mù-u té ngã, người sau đạp lên mà chết hàng ngàn. Trước kia đào hào, rải mù-u lên đường, chủ ý là để hại quân Pháp, mà hóa ra làm hại quân ta. Tại các cửa thành, trai gái già trẻ, người mang của, kẻ bế con, tranh nhau mà ra, người trước ngã, người sau đạp lên, thây liệt đầy đường…” (tr. 35-36)

Những dòng vắn tắt của Tiểu Cao đã làm sáng tỏ những điểm sau:

- Quả thật có trận mù –u xảy ra vào đêm 22 rạng ngày 23/5 Ất Dậu, 1885;

- Nơi chiến trận xảy ra là quãng đường từ Mang Cá đến Đại Nội (đường Đinh Tiên Hoàng ngày nay) đoạn gần Mang Cá. Không dính gì đến Xã Tắc.

- Trong trận này, quân Việt không những dùng mù-u mà còn dùng cả trái bàng như một phương tiện hỗ trợ hành quân chiến đấu để hại quân Pháp .

Mù-u và trái bàng không hại được quân Pháp mà chỉ làm hại quân Việt vì lính Pháp đi giày đinh, đạp nát mu-u và trái bàng dễ dàng, còn quân dân Việt thì đi chân đất ,đạp nhằm mù u và trái bàng, té ngã, bị dẫm đạp mà chết, chưa nói chi tới tên bay đạn lạc. Tất cả ngoài dự liệu của các quan tướng. Rõ ràng là không có một chiến thắng vinh quang nào như đã được kể lại theo truyền thuyết.

Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù-u nghĩa là sao?

Khi đã biết sự thật như đã trình bày thì có thể thấy được rằng giải thich về ý nghĩa của câu hát dân gian Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù-u như Hương Giang Thái Văn Kiểm đã viết là nặng phần tưởng tượng hơn thực tế đã diễn ra.

Vậy thì toàn bộ câu hát chỉ là những câu tả cảnh thôi sao? Rất có thể.

Văn Thánh tức Văn Miếu, xây dựng vào năm Gia Long thứ 7 (1808), thờ Khổng Tử và các danh Nho. Khuôn viên trồng đầy thông.

Võ Thánh tức Võ Miếu, xây dựng năm Minh Mạng thứ 16 (1835), thờ Khương Tử Nha và các danh tướng Trung Hoa và Việt Nam. Trong khuôn viên miếu này người ta trồng cây bàng. Cả hai miếu đều nằm về tả ngạn sông Hương, cách chùa Thiên Mụ về phía tây không bao xa.

Trong khi đó, đàn Xã Tắc lại đặt trong Kinh thành, bên phía tay phải của Đại Nội, trên đường Trần Nguyên Hãn ngày nay, xưa gọi là đường Xã Tắc. Đàn này lập ra năm Gia Long thứ 5 (1806) để thờ các thần chủ về đất đai (Thái Xã Thần) và mùa màng (Thái Tắc Thần). Trong một nước lấy nông nghiệp làm gốc thì đất đai và mùa màng là sự sống còn của quốc gia. Trong khuôn viên Xã Tắc người ta trồng ba thứ cây, là thông, xoàimù-u. Con đường đi vào Xã Tắc cũng trồng mù-u nên mới có câu hát trên.

Ta hãy xem người xưa đánh giá ba loại cây này như thế nào. Đại Nam Nhất Thống Chí chép:

-Tùng (thông): Bản Thảo nói rằng tùng là đàn anh trong các loài mộc, cho nên viết theo chữ công, lại nói tùng già thì dư khí kết thành phục linh một nghìn năm thì nhựa nó kết thành hổ phách. Nay ở đàn Nam Giao, các sơn lăng, núi Ngự Bình các nơi thông mọc thành rừng…(tr.352)

- Cây mù-u: Nam mai, hoa như hoa mai trắng, quả tròn như ngón chân cái, ép dầu, trị vết đao thương, thắp đèn kiến gián không ăn. Cây cong queo bền chắc, nhà nước hay trồng để dùng làm tay cong và bánh lái ở thuyền.(tr.360)

-Cây bàng: Sơn phong, thân cây cao lớn, cành lá mọc thành tầng, hình vòng tròn như hình tán lọng; sau tiết sương giáng lá biến thành sắc đỏ, như lá cây phong, nên gọi là sơn phong. Nay trồng nhiều ở các cung điện, phủ, thự (tr.365)

Khi nghe câu hát:

Văn Thánh trồng thông,

Võ Thánh trồng bàng,

Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù-u

Tôi có hỏi Thầy tôi, tức bố tôi, tại sao lại trồng mấy thứ cây đó mà không trồng thứ khác? Ông cụ đủng đỉnh trả lởi:

- Đền miếu, cung điện hay chùa chiền phải trồng cây và phải lựa thứ thích hợp để trồng thì cảnh quang mới đẹp đẽ trang nghiêm. Ở đây , các cụ xưa lại muốn chơi chữ. Văn Miếu là nơi văn học thì phải tinh thông nghĩa lý văn chương sách vở, nên trồng thông để ngụ ý nhắc nhở người đi học. Còn võ miếu là nơi tượng trưng cho việc dụng binh thì phải luận bàn kế hoạch cho chu đáo nên trồng bàng. Riêng Xã Tắc là nơi giao tiếp với đất trời, mà thiên địa mịt mù nên mượn mù-u để tượng trưng.

Tôi phải cảm ơn Thầy tôi, đã giải thích điều này, ít nhiều cũng có lý, và không làm méo mó lịch sử. Đúng hay sai, tùy bạn đọc thẩm định, và nếu được nghe một kiến giải khác hợp lý hơn, ý nghĩa hơn, thì thật là quí báu vô cùng. Riêng tôi, thấy trong hướng giải thích này nổi rõ cái phong vị Huế trong việc chơi chữ. Người Huế phát âm không chuẩn như người Bắc. Không phân biệt các âm hỏi, ngã (ví dụ: nghĩ ngợi và nghỉ ngơi); không phân biệt các âm cuối có g hay không g, vì vậy mới dám “cả gan” cho “luận bàn” nghe không khác “cây bàng”!

Còn tại sao người ta trồng xoài cùng với thông và mù-u trong khu Xã tắc? Khi theo bạn bè “thám hiểm ”, tôi không thấy cây xoài, có lẽ đã chết tiêu đâu mất, vì là cây ăn quả nên dễ bị hại. Bởi vậy tôi không biết để đem ra hỏi Thầy tôi. Khi lớn lên, đọc Đại Nam Nhất Thống Chí, mới biết đàn Xã Tắc có trồng xoài như một lại cây chính thức, thì không biết hỏi ai nữa. Lúc rảnh , rỉ rả đọc lại ĐNNTC, mục Thổ sản, mới thấy lý do tại sao các cụ xưa lại chọn cây xoài để trồng nơi này. Sách này xếp quả xoài là một “phẩm quí ở phương Nam”. Và ghi nhận: “Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quí Đôn chép rằng : Tục truyền năm nào xoài sai quả thì ngũ cốc mất mùa, xoái ít quả thì ngũ cốc được mùa. Ứng với thời tiết cũng có nghiệm.” (tr.301). Hèn gì! Xã Tắc là nơi thờ thần chủ về đất đai mùa màng. Muốn biết về mùa màng trong năm được hay mất mà đem ra hỏi thần cũng khó, chi bằng trồng cây xoài, cứ trông quả nhiều quả ít thì biết. Cây xoài trở thành khí cụ dự báo mùa màng của triều đình!

VÕ HƯƠNG-AN

01/2008

Tài liệu tham khảo

-Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha Văn Hoá Bộ QGGD, Saigon, 1960, bản in lại ở Mỹ không đề năm

-Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại, Lô Giang Tiểu sử, bản dịch của Nguyễn Hy Xước, bản in ronéo, lưu hành gia đình.

-Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, bản dịch Viện Sử Học, Tập I, nxb Thuận Hóa, 1997



[1] Người dự thi Hội và thi Đình