vendredi 26 mai 2023

LÁ THƯ

 


LÁ THƯ

Truyện ngắn

DHUMKETU

( Nhà văn Ấn độ , 1892 - 1965 )

 


   DHUMKETU là bút danh của Gaurishankar Govardhauram, là nhà văn Ấn Độ, thường được xem như là một trong những người khai sáng loại hình truyện ngắn. Tác phẩm của ông thường có bút pháp gây xúc động, lãng mạn hoặc miêu tả đậm nét những cảm xúc của con người.

    Thuở nhỏ, ông đã phục vụ tại trường Virpar chỉ với mức lương 4 rupee mỗi tháng. Ông phải đọc nhiều tiểu sử, tiểu thuyết về đề tài lịch sử. Thói quen này khiến ông quan tâm sâu sắc đến văn chương. Ông bắt đầu làm thơ bằng tiếng Anh. 

     Năm 1908, ông chuyển đến Bilkha, nơi có một thư viện rất lớn, nhờ đó ông học thêm tiếng Phạn và tiếng Anh. Ông xin vào làm việc ở sở hoả xa trong một năm, sau đó xin đi dạy tại một trường tư thục. Thời gian này, hoạt động văn chương của ông bắt đầu phát triển.

    Tổng cọng ông đã viết 492 truyện ngắn. Tuyển tập truyện ngắn mang tên Tankha được xem như tiêu biểu cho văn chương thời bấy giờ, được xuất bản năm 1926, sau đó, tiếp tục xuất hiện các tập Tankha 2, 3 và 4 vào các năm 1928, 1932 và 1935.

   Ngoài truyện ngắn, ông còn viết tiểu thuyết, kịch, tiểu sử, phê bình, truyện thiếu nhi, tính ra hơn 250 tác phẩm đủ các thể loại.

    Năm 1935, ông được tặng giải thưởng Ranjitran Suvarna Chandrak, là giải thưởng cao nhất của văn chương Gujarati nhưng ông từ chối không nhận. Năm 1949, ông nhận giải thưởng Narmad Suvarna Chandrak về những hoạt động văn chương. Ông được vinh dự là đại diện của Ấn Độ góp mặt trong một ấn phẩm của Hoa Kỳ, nhan đề là “ Truyện ngắn từ nhiều đất nước “, một tuyển tập bao gồm truyện ngắn của 60 quốc gia.

     Truyện Lá thư ( The Letter ) giới thiệu dưới đây nằm trong số đó.




***



Trên bầu trời u ám lúc tờ mờ sáng, những ngôi sao vẫn còn chói rực, chẳng khác nào những ký ức vui vẻ làm bừng lên một cuộc đời sắp tàn. Một ông già đi bộ qua thành phố, thỉnh thoảng lại khép chặt chiếc áo khoác rách tả tơi để che chở cho cơ thể chống lại cơn gió lạnh như cắt luồn vào. Từ vài căn nhà biệt lập, vọng lại  âm thanh của những chiếc cối xay và giọng hát êm ái của những người phụ nữ đang làm việc, chính những âm thanh ấy giúp ông bước tiếp trên con đường hiu quạnh của mình. Ngoài tiếng chó sủa bất thường, tiếng những bước chân từ xa của một người thợ đi làm sớm hoặc tiếng rít của một con chim bị khuấy động giờ giấc, cả thành phố chìm trong cảnh im lìm như chết. Hầu hết cư dân đang thiêm thiếp trong vòng tay của giấc ngủ, một giấc ngủ mỗi lúc một say sưa hơn do cái lạnh dữ dội của mùa đông, bởi cái lạnh lợi dụng giấc ngủ để mở rộng sự thống trị của mình lên vạn vật, khác nào một người bạn xấu ru ngủ nạn nhân y chọn bằng những nụ cười âu yếm. Ông già thỉnh thoảng lại rùng mình, nhưng vẫn kiên trì theo đuổi mục đích, tiếp tục lê bước cho đến khi ra khỏi cổng thành hướng ra một con đường thẳng tắp. Dọc theo con đường này ông đi chậm hơn, tay chống cây gậy cũ kỹ.


Một bên đường là một hàng cây, bên kia là công viên của thành phố. Bây giờ thành phố tối hơn, cơn lạnh dữ dội hơn vì gió thổi dọc theo con đường trên đó chỉ có ánh sao mai yếu ớt rớt xuống như bông tuyết. Phía cuối công viên sừng sững một toà nhà tráng lệ, xây kiểu mới nhất, ánh sáng hắt ra qua những kẽ hở của các cửa lớn và cửa sổ đã đóng kín.


Ngắm kỹ cái vòm cổng gỗ của toà nhà này, ông già thấy tràn ngập niềm vui của người hành hương khi nhìn thấy đích đến của cuộc hành trình. Trên vòm cổng có treo một tấm biển với dòng chữ mới sơn: Sở Bưu Điện. Ông già lặng lẽ bước vào và ngồi bệt xuống hành lang. Tiếng nói của hai hay ba nhân viên đang bận rộn với công việc hàng ngày của họ loáng thoáng vọng ra qua các bức tường.

“ Đội trưởng cảnh sát” , một giọng nói lanh lảnh từ bên trong vọng ra. Ông già giật mình khi nghe tiếng nói, nhưng trấn tĩnh lại ngay để chờ đợi. Nhưng nếu không có niềm tin yêu đang sưởi ấm mình thì ông không thể nào chịu nổi cái lạnh như cắt da này.

Từng tên người được xướng lên từ bên trong khi viên thư ký đọc những địa chỉ bằng tiếng Anh trên những lá thư và ném cho những bưu tá đang đợi. Do nhiều năm hành nghề, ông rất thành thạo đọc rất nhanh các chức danh - Cục trưởng, Trưởng ban, Thủ thư - và ném những bức thư ra ngoài cho người đưa thư.

Trong chuỗi công việc đang diễn tiến thì một giọng nói đùa cợt từ bên trong vang lên: “ Bác đánh xe ngựa Ali! “

Ông già nhỏm dậy, ngước mắt nhìn lên trời, tỏ lòng biết ơn, bước tới gần đặt tay  lên cửa.

“ Xin mở cửa ra. “

“ Vâng, ai thế? “

“ Ông vừa gọi tên người đánh xe Ali, phải không ạ? Tôi đây. Tôi đến nhận thư, “

“ Thưa ông, đó là một thằng điên ngày nào cũng đến quấy rầy chúng tôi, đòi những lá thư không bao giờ tới. “, viên thư ký nói với ông chủ bưu điện.

Ông già chậm rãi trở lại chiếc ghế ông đã ngồi trong suốt năm năm nay.

Trước kia Ali từng là một thợ săn giỏi. Tay nghề càng cao thì cái thú đi săn của anh càng tăng, cho đến lúc anh không thể sống nổi một ngày mà không đi săn, cũng như một người nghiện hút mỗi ngày không rít một điếu thì không chịu nổi vậy. Khi Ali phát hiện một chú gà gô màu nâu đất, mà người khác không nhìn thấy, thì chú chim khốn khổ kia xem như đã nằm gọn trong túi xách của anh rồi. Đôi mắt tinh của anh nhìn thấy con thỏ rừng đang thu mình lại. Ngay cả khi những con chó không phát hiện ra những con vật khôn ngoan giấu mình trong bụi cây màu vàng nâu thì cặp mắt đại bàng của Ali lại có thể nhìn thấy đôi tai con vật, và chỉ trong thoáng chốc, nó đã chết. Ngoài những lúc này, thỉnh thoảng Ali còn đi với những người bạn đánh cá của mình.


Nhưng khi cuộc đời sắp xế chiều, ông bỏ hết thói quen cũ, bất ngờ chuyển sang ngả rẽ khác. Con gái duy nhất của ông là Miriam lấy chồng và bỏ ông mà đi. Cô đi theo một người lính đến trung đoàn của anh ta ở Punjab, và suốt năm năm qua ông không hề có tin tức gì của con gái, đứa con mà chỉ vì nó ông phải kéo lê cuộc sống vô vị này. Giờ đây ông hiểu được ý nghĩa của yêu thương và xa cách. Ông không sao có thể hưởng cái vui của một nhà thể thao, không thể cất tiếng cười trước nỗi kinh hoàng của chú gà gô con khi bị mất cha mẹ.

Tuy bản năng của người đi săn đã thấm tận xương tuỷ, nỗi cô đơn ấy đã đến với ông kể từ lúc Miriam bỏ đi, đến nỗi giờ này, quên cả thú đi săn của mình, ông thường trầm ngâm ngắm những cánh đồng trồng bắp xanh biếc. Ông suy nghĩ sâu xa và đi đến kết luận là toàn thể vũ trụ được xây dựng bằng tình yêu thương, và người ta không thể nào tránh được nỗi đau đớn của cảnh xa cách. Và hiểu được như thế, ông ngồi xuống dưới một gốc cây và khóc thảm thiết. Từ ngày hôm đó, hàng ngày ông thức dậy từ bốn giờ sáng để đi bộ đến bưu điện. Suốt đời ông chưa hề nhận được một lá thư nào, nhưng với tấm lòng thanh thản sùng đạo, nảy sinh từ hy vọng và niềm tin, ông vẫn tiếp tục và hôm nào cũng đến sớm nhất. 

Sở bưu điện, một trong những toà nhà buồn tẻ nhất thế giới, trở thành nơi hành hương của ông. Lúc nào ông cũng chiếm một chỗ riêng trong một góc đặc biệt của toà nhà này, và khi biết được thói quen ấy của ông, người ta đều cười ông. Những người đưa thư bắt đầu trêu chọc ông. Thậm chí không có thư của ông họ cũng đọc tên ông để thích thú nhìn ông nhảy ra chạy đến cửa. Nhưng với niềm tin vô hạn và lòng kiên nhẫn tuyệt đối, mỗi ngày ông vẫn đến và trở về tay không.

Trong khi Ali chờ đợi, những người liên lạc thường đến lấy thư, và ông thường nghe họ bàn tán về những vụ tai tiếng của các ông chủ. Những người liên lạc trẻ tuổi và lịch lãm này đầu quấn khăn sạch bóng, đi giày kêu kèn kẹt, bao giờ cũng hăng hái bày tỏ ý kiến của mình. Trong lúc đó cửa ra vào thường được mở toang và người ta thấy ông chủ bưu điện với cái đầu vừa tẻ nhạt vừa thiếu thần sắc như trái bí ngô, đang ngồi trên chiếc ghế bên trong. Chẳng có tí gì hoạt bát trong con người ông, những người như thế thường là những ông giáo làng, những thư ký công sở hoặc những người đưa thư.

Một hôm, ông có mặt ở đó như thường lệ và không rời khỏi ghế khi cánh cửa mở ra. 

“ Cảnh sát trưởng! “ viên thư ký gọi lớn, và một thanh niên nhanh nhẹn lên nhận những lá thư.

“ Đội trưởng!” Một người liên lạc khác đến, và viên thư ký, như một người đọc kinh Vệ đà, cứ nhắc đi nhắc lại mãi cả ngàn cái tên quen thuộc ấy.

Cuối cùng, tất cả ra đi hết. Ali cũng đứng dậy chào sở bưu điện cứ như nó chứa đựng những di tích quý báu, rồi đi ra, thân hình tiều tụy đáng thương, con người lạc hậu hàng thế kỷ.

  • Cái lão kia điên à ? ông chủ bưu điện hỏi.
  • Dạ thưa ông, ông nói ai? Ồ vâng, - viên thư ký trả lời, suốt năm năm nay, dù thời tiết thế nào lão cũng đến đây. Nhưng làm gì có thư nào đâu.
  • Điều đó tất nhiên rồi. Ai mà mất công viết thư cho lão mỗi ngày được.
  • Nhưng thưa ông, lão ta hơi hâm đấy. Ngày xưa lão phạm nhiều tội ác, có thể đã gây đổ máu nữa trong các thánh địa thiêng liêng nào đó và bây giờ phải trả giá đó thôi, người đưa thư nói thêm để lý giải cho nhận định của mình.
  • Những người điên thật là kỳ lạ, ông chủ bưu điện nói. 
  • Vâng, có lần tôi thấy một người điên ở Ahmedabad, hắn ta chẳng làm gì khác ngoài việc lấy đất đắp thành từng đống nhỏ. Còn một thằng khác có thói quen ra ngoài bờ sông đổ nước lên một hòn đá.
  • Ồ, thế đã ăn thua gì, một người khác xen vào. Tôi biết một người điên cứ đi đi lại lại suốt ngày, một tên khác cứ luôn miệng đọc thơ, người khác nữa thường tự tát vào mặt mình rồi lại rống lên khóc kêu rằng mình bị đánh.


Rồi mọi người trong sở bưu điện bắt đầu bàn tán về bệnh điên. Những người công nhân có thói quen chốc chốc lại nghỉ ngơi bằng cách tham gia chuyện vãn dăm ba phút. Sau khi lắng nghe mọi người bàn tán, ông chủ bưu điện đứng dậy nói:

   “ Những người điên hầu như sống trong một thế giới do họ tạo dựng. Có lẽ đối với họ, chúng ta cũng là những người điên. Thế giới của người điên ít nhiều giống như thế giới của các nhà thơ, tôi nghĩ thế! “

    Nói xong những từ cuối cùng, ông cười to và nhìn một trong những người thư ký đã viết những câu thơ lãnh đạm. Rồi, ông bước ra ngoài. Sở bưu điện trở lại yên tĩnh.

   Trong vài hôm, Ali không đến sở bưu điện. Không có ai đủ cảm tình và hiểu biết để đoán ra lý do, nhưng mọi người đều tò mò muốn biết cái gì đã khiến ông ta không đến nữa. Cuối cùng, ông già lại đến, nhưng ông ta thở khó nhọc và trên khuôn mặt xuất hiện những dấu hiệu rõ ràng là ông đã gần đất xa trời. Hôm ấy, ông không kiềm chế nổi sự nóng ruột của mình.

   “ Thưa Ngài, ông nói khẩn khoản ngỏ lời với ông chủ bưu điện, ông có thư nào của con Miriam nhà tôi không? “

   Ông chủ bưu điện đang định về nông thôn, tỏ ra rất vội vã.

    - Ông anh ơi, ông quấy rầy quá rồi đấy! ông ta kêu lên.

    - Tên tôi là Ali, ông già lơ đãng trả lời.

   - Tôi biết, tôi biết. Bộ ông cho rằng chúng tôi đã ghi vào sổ cái tên Miriam của ông sao?

   - Thế thì xin người anh em ghi hộ vậy. Ghi như vậy sẽ có ích khi thư đến mà tôi không có đây. - Làm sao một người dân làng đã dành ba phần tư cuộc đời vào việc săn bắn lại hiểu được rằng cái tên Miriam chẳng đáng giá một xu đối với bất cứ ai ngoại trừ cha cô ta?


Ông chủ bưu điện bắt đầu nổi cáu.

   - Ông mất trí rồi hả? ông gào lên. Ông đi đi. Ông cho rằng thư của ông đến đây chúng tôi sẽ ăn mất à?

Và ông ta vội vã bước đi. Ali bước rất chậm ra ngoài, cứ vài bước lại ngoái nhìn sở bưu điện. Ông rưng rưng nước mắt vì tuyệt vọng, bởi vì sự kiên trì của ông đã cạn , tuy ông vẫn còn niềm tin. Tuy nhiên, làm sao ông còn hy vọng nhận được tin con gái?


Ali nghe tiếng chân một người thư ký từ đàng sau tiến về phía mình, ông quay lại.

   - Này, người anh em. Ông nói.

Viên thư ký ngạc nhiên nhưng là người lịch sự, anh ta nói:

   - Gì thế ông ? 

   - Đây, nhìn cái này đi. Ali lấy ra một chiếc hộp thiếc cũ kỹ, rồi dốc ra năm đồng tiền vàng vào tay viên thư ký đang trố mắt ngạc nhiên. Đừng hốt hoảng thế, ông nói tiếp. Chúng sẽ có ích cho anh, còn đối với tôi thì chúng se chẳng bao giờ có nghĩa gì nữa. Nhưng anh giúp tôi một việc được không?

   - Việc gì thế?

   - Anh có trông thấy cái gì ở trên kia không? Ali nói, chỉ tay lên trời.

   - Trời.

   - Thánh Allah ở trên đó, và có Người chứng giám, tôi đang tặng anh số tiền này. Khi thư của Miriam đến, anh phải chuyển cho tôi.

   - Nhưng đến đâu, tôi phải chuyển đến đâu ? viên thư ký vô cùng kinh ngạc hỏi.

   - Đến mộ tôi.

   - Cái gì ?

   - Vâng, Đúng như vậy. Hôm nay là ngày cuối cùng của đời tôi. Đúng là ngày cuối cùng, than ôi. Và tôi vẫn chưa gặp Miriam và cũng không có thư nào. 

Ali rưng rưng nước mắt khi viên thư ký chia tay ông chầm chậm, rồi bước đi với năm đồng tiền vàng trong túi.


Từ sau hôm ấy, không ai nhìn thấy Ali nữa, cũng không ai bận tâm hỏi han về ông già.

Tuy vậy, một hôm, ông chủ bưu điện gặp chuyện phiền muộn. Con gái ông ở một thành phố khác đang bị đau và ông đang sốt ruột chờ tin cô ấy. Chuyến thư được đưa vào và những lá thư đang nằm chồng lên bàn. Thấy một phong bì trông hình dáng và màu sắc như ông mong đợi, ông vồ ngay lấy. Bức thư ấy đề gửi cho Ali, ông thả xuống như thể bị điện giật. Tính kênh kiệu của một viên chức đã mất hẳn trong ông với nỗi buồn rầu lo lắng, và tính người của ông được bộc lộ. Ông biết ngay rằng đó là bức thư mà ông già tội nghiệp chờ đợi bấy lâu, thư từ Miriam con gái ông ta.

   “ Lakshmi Das! Ông chủ bưu điện gọi, đó là tên viên thư ký mà Ali đã cho tiền.

   “ Thưa ông, ông gọi gì vậy ? “

   “ Bức thư gửi chi Ali ông già đánh xe ngựa.Hiện nay ông ấy ở đâu ? “

   “ Thưa, tôi sẽ cố tìm. “


Suốt ngày hôm đó, ông chủ bưu điện không nhận được bất cứ thư nào gửi cho mình. Ông lo lắng suốt đêm và thức dậy lúc ba giờ sáng, ra sở ngồi. Khi Ali đến vào lúc bốn giờ sáng, ông tự nhủ, mình sẽ đích thân trao ông ta bức thư này.

 Bởi vì giờ này ông chủ bưu điện đã hiểu được tấm lòng Ali và tâm hồn ông. Chỉ sau một đêm khắc khoải chờ đợi tin con gái, lòng ông đã tràn ngập niềm cảm thông đối với ông già đã qua không biết bao nhiêu đêm suốt năm năm cũng trong sự khắc khoải như thế. Khi đồng hồ điểm năm giờ, ông nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ, ông đoan chắc đó là Ali. Ông vội đứng lên khỏi ghế, trái tim người cha đau khổ của ông đồng cảm với trái tim người cha đau khổ khác, và ông mở toang cửa.

   “ Vào đi, người anh em Ali. Ông kêu lên và đưa lá thư cho ông già khốn khổ hiền lành đang đứng phía ngoài, lưng còng vì tuổi tác. Ali chống gậy, mặt đầm đìa nước mắt như lúc viên thư ký chia tay ông. Nhưng nét mặt ông già trước kia khắc khổ, còn lúc này đã dịu đi với những nét vui  tươi. Ông ta ngước mắt lên và trong đôi mắt ấy có một ánh sáng kỳ dị đến nỗi ông chủ bưu điện lùi lại vì sợ hãi và kinh ngạc.


Lakshmi Das đến sở từ một hướng khác, đã nghe những lời của ông chủ bưu điện. 

   - Thưa ông, ai thế ạ? Cụ Ali à ? Anh ta hỏi.

Nhưng ông chủ bưu điện không để ý đến anh ta. Ông đang trợn tròn mắt nhìn vào lối cửa mà từ đó Ali đã biến mất. Ông ta có thể đi đâu nhỉ? Cuối cùng ông quay lại với Lakshmi Das. “ Phải, tôi vừa nói chuyện với ông Ali.”

   - Thưa ông, lão Ali đã mất rồi. Nhưng ông cứ đưa thư cho tôi.

   - Lạ thật, Chết khi nào ? Có chắc như thế không? 

   - Vâng, đúng thế, một người đưa thư vừa đến nói thêm vào. Ông ấy đã chết ba tháng rồi. Ông chủ bưu điện bàng hoàng. Lá thư của Miriam vẫn còn nằm gần cửa ra vào, hình ảnh Ali vẫn còn chập chờn trước mắt ông. Ông lắng nghe Lakshmi Das thuật lại cuộc gặp gỡ cuối cùng, nhưng vẫn không thể không ngờ vực gì về thực tế của tiếng gõ cửa và những giọt nước mắt của Ali. Ông bối rối. Có phải ông đã thực sự gặp Ali? Hay là trí tưởng tượng đã đánh lừa ông ? Hay lúc đó chỉ là Lakshmi Das ?


Công việc thường ngày lại bắt đầu. Viên thư ký đọc to các địa chỉ.  Cảnh sát trưởng . Đội trưởng cảnh sát. Nhân viên thư viện… và khéo léo ném những lá thư ra.

Giờ đây ông chủ bưu điện sôi nổi ngắm những phong thư ấy như thể mỗi bức chứa đựng những trái tim nóng hổi đang còn đập. Ông không còn nghĩ đến chúng như là những phong bì và những tấm bưu ảnh nữa. Ông nhận ra giá trị nhân văn thực sự của mỗi lá thư.


Chiều hôm đó,  người ta đã gặp Lakshmi Das và ông chủ bưu điện chậm rãi bước về phía mộ Ali. Họ đặt phong thư lên đó rồi quay trở về.


   -  Lakshmi Das, có đúng là anh đến sở đầu tiên sáng nay không ?

   - Vâng, đúng vậy, tôi là người đến đầu tiên.

   - Thế thì tại sao… Không, tôi không hiểu…

   - Cái gì ạ, thưa ông ?

   - Ồ, thôi, không sao cả. Ông chủ bưu điện đáp cụt lủn. Về đến sở, ông chia tay 

Lakshmi Das và bước vào. Trái tim người cha mới được thức tỉnh trong ông đang quở trách ông vì đã không hiểu được nỗi lo âu của Ali, bởi vì giờ đây chính ông sắp trải qua thêm một đêm trằn trọc lo âu nữa. Bị giày vò vì nghi ngờ và ân hận, ông ngồi xuống bên ánh than hồng đang toả sáng và chờ đợi.



THÂN TRỌNG SƠN

dịch và giới thiệu

( tháng 5/2023 ).

 

dimanche 14 mai 2023

ĐỐ TRĂNG MẤY TUỔI TRĂNG GIÀ

 


ĐỐ TRĂNG MẤY TUỔI TRĂNG GIÀ.



Đây là lời của nhạc sĩ Phạm Duy. Trước đó, ông đã đố lúa mấy cây, sông mấy khúc, mây mấy tầng. Lại đố ai quét sạch lá rừng, đố ai biết gió ở đâu nữa. Nhưng ông đố trăng mấy tuổi trăng già chỉ là “ để tôi lên tiếng mặn mà yêu em “.

Kiểu đố này cũng có thể gặp ngay trong ca dao:

   Đố ai đếm được lá rừng

   Đố ai đếm được mấy tầng trời cao

   Đố ai đếm được vì sao

   Đố ai đếm được công lao Mẹ, Thầy.


Đố và đáp trước đây vốn là một hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian khá phổ biến ở nông thôn, những lúc rảnh rỗi sau giờ lao động. Ai cũng biết, cũng thuộc vài ba câu đố hoặc được nghe người khác đố. Những người có học lại phát triển câu đố qua hình thức văn thơ, đố bằng nói lái, lấy truyện Kiều ra đố, đố chuyện lịch sử… Thiết nghĩ tìm hiểu kỹ hơn về câu đố hẳn sẽ có nhiều điều thú vị.


Nhưng trước tiên, câu đố là gì? Câu đố lúc nào cũng có hai vế, lời đố và lời giải. Đó là một cuộc chơi sử dụng hình ảnh, từ và ý nghĩa, là một hình thức chơi chữ, nhằm mục đích giải trí tinh thần, người chơi chủ yếu sử dụng trí tuệ, óc phán đoán, lý luận, đó là một bài toán văn học. Nói gọn lại, câu đố là một sinh hoạt trí thức, cuộc đấu trí thi đua vận dụng trí thông minh của cả người đố lẫn người giải.


Vấn đề tiếp theo là câu đố được sử dụng trong hoàn cảnh nào? Ít nhất phải có hai người, nhiều thì năm bảy người, không ấn định số lượng. Và hỏi đố nhau cũng tuỳ lúc, tuỳ nơi, có khi đang đi trên đường, khi làm việc ngoài đồng ruộng, lúc nhàn rỗi ngồi tụm năm, tụm ba trên phản, ngoài hè… ra câu đố giải trí. Hoàn cảnh phổ biến hơn cả là buổi tối, sau khi ăn cơm, chưa đi ngủ, khi trời lạnh hay mưa, không có sinh hoạt giải trí nào khác, trong gia đình đủ hạng tuổi ngồi với nhau nghe kể chuyện cổ tích hay ra câu đố. Có thể đố câu đã nghe, cũng có thể nghĩ ra câu đố mới.


Nhưng, hỏi và đố nhau với mục đích gì? Tất nhiên để giải trí, như đã thấy ở trên. Mà đâu phải giải trí tầm thường vì cả người đố lẫn người giải đều phải vận dụng trí thông minh, óc lý luận, cả kiến thức mới ra được câu đố hay hoặc có lời giải hợp lý. Câu đố còn có mục đích giáo dục nếu hỏi về kiến thức lịch sử, thậm chí hỏi về những đồ vật xung quanh… Cũng chính vì lý do đó mà câu đố rất đa dạng, thiên biến vạn hoá, tuỳ trường hợp mà đố mà giải. Để tiện việc giải câu đố, người hỏi lắm lúc phải xác định: Là cái gì, là con gì, là hiện tượng gì, là ai, v.v. Có lúc người ta ghi là xuất, hỏi về cây là xuất mộc, hỏi cỏ là xuất thảo, hỏi người là xuất nhân…


Dưới đây là vài dạng câu đố hay gặp:


1. Đố về nhân vật lịch sử:


  • Vua nào mặt sắt đen sì?

    Vua nào trong thuở hàn vi ở chùa?

          Đáp: Vua Mai Hắc Đế và Vua Lý Thái Tổ.

  •   Đông Du ai đã đưa người

      Còn ai đập đá giữa trời trơ trơ?

          Đáp: Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

  •   Đố ai nêu lá quốc kỳ

       Mê Linh đất cũ còn ghi muôn đời?

       Yếm, khăn đội đá vá trời 

       Giặc Tô mất vía rụng rời thoát thân ?

           Đáp: Hai bà Trưng

  •     Đố ai trên Bạch Đằng Giang

        Làm cho cọc nhọn dọc ngang sáng ngời

        Phá quân Nam Hán tơi bời

        Gươm thần độc lập giữa trời vang lên ?

           Đáp: Ngô Quyền.

  •     Đố ai nổi sáng sông, rừng

         Đã vui Hàm Tử lại mừng Chương Dương

         Vân Đồn cướp sạch binh cường

         Nồi bàng mai phục chặn đường giặc lui?

            Đáp: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

  •       Đố ai gian khó chẳng lùi

          Chí Linh mấy lượt nếm mùi đắng cay

          Mười năm Bình Định ra tay

          Thành Đông Quan, mất vía bầy Vương Thông?

            Đáp: Lê Lợi

  •       Muốn cho nước mạnh dân giàu

           Tâu vua xin chém bảy đầu mạt dân

           Mũ cao áo rộng không cần

           Lui về ẩn chốn lâm sơn một mình?

             Đáp: Chu Văn An

  •       Vì nhà vì nước giao tranh

           Thanh gươm, yên ngựa, phá thành đốc quân

           Sa cơ nào quản tấm thân

           Mặc voi dày xéo, chết gần chồng con?

             Đáp: Bùi Thị Xuân

  •       Phò vua trải đã ba triều

           Vào Nam, ra Bắc, một điều tập trung

           Bị thương, thuốc giặc chẳng dùng

           Nhịn ăn, tìm cái chết hùng mà vinh?

            Đáp: Nguyễn Tri Phương.


2.  Cũng có khi đố về những người nổi tiếng trong giới văn chương.


  •     Câu đố về Tương Phố, tác giả bài thơ nổi tiếng Giọt lệ thu:

          Chẳng có đỗ cũng thành tương

          Cũng mang ra khắp phố phường 

          Thu về nước mắt ròng ròng

          Có chồng rồi lại mất chồng như chơi 

          Gió mưa, sông nước sụt sùi

          Thế nhân quên cả giọng cười Xuân Hương.

 -      Quyết tâm rửa sạch quân thù

        Ô hô cặp mắt công phu lỡ làng

                  ( Nguyễn Đình Chiểu )

  •     Đem chuông lên đánh Sài Gòn

         Để cho nữ giới biết con ông đồ.   

                   ( Sương Nguyệt Anh )

  •     Cái ấm còn cả nguyên vòi

         Bày bán chợ đời chỉ thấy người coi

         Nếu đêm lên bán chợ trời

         Mấy nàng tiên nữ cũng cười không mua.

         Hỏi sao người đẹp ỡm ờ

         Thì ra toàn những tiên cô tiên khồng.

                  ( Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ).

  •       Ngậm tăm đứng ở phương Nam

         Giả danh giả nghĩa đá vàng Trần Châu

         Tiễn chồng chẳng biết đi đâu

         Đưa chồng khẩu trầu nước mắt chứa chan.

                   ( Á Nam Trần Tuấn Khải )


3. Những câu đố sử dụng nói lái không khó giải vì thường lời giải đã có sẵn :


- Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai

Bò la, bò liệt đố ai biết gì? - (đáp: khoai lang).

- Con gì ở cạnh bờ sông,

Cái mui thì nát cái cong thì còn - (đáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng)

- Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng - (đáp: ngón chưn cái)

- Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn - (đáp: con ngựa)

- Miệng bà ký lớn, bà ký banh

Tay ông cai dài, ông cai khoanh - (đáp: canh bí, canh khoai)

- Ông cố ngoài Huế ông cố ai. (đáp : cái ô )

- Ông đánh cái chen, bà bảo đừng. (đáp : cái chưn đèn - chen đừng ) .



4. Đố Kiều



Ai cũng biết Truyện Kiều. Có điều có thể ít người biết là truyện Kiều còn có thể đem làm câu đố nữa.

Thử nghe vài câu:


  • Này chồng, này mẹ, này cha, 

    Này là em rể, này là chị dâu 

            Là trái gì?

            ( đáp: trái đu đủ )


  • Người đâu gặp gỡ làm chi

    Trăm năm biết có duyên gì hay không. 

           ( đáp: trái mơ )


  • Trót vì tay đã nhúng chàm

    Cỏ phai mũ áo nhuộm non da trời. 

           ( đáp: thợ nhuộm )


Đố Kiều theo dạng đối đáp.


  • Truyện Kiều anh đã thuộc lòng

    Đố anh kể được hai dòng năm “ cho “

      Đáp: Làm cho cho mệt cho mê

               Làm cho đau đớn ê chề cho coi !


  • Tiện đây hỏi thật một điều

    Em đây chưa biết nàng Kiều ai sinh.

       Đáp: Hổ sinh ra phận thơ đào

              Nàng Kiều hổ đẻ chớ nào ai sinh.


  • Truyện Kiều anh thuộc đã làu

     Đố anh biết được cô nào sinh đôi.

         Đáp:  Đầu lòng hai ả tố nga

                   Hai con đầu cả… ắt là sinh đôi.


  • Truyện Kiều anh đọc đã nhiều

     Nhớ chăng đoạn nói nàng Kiều có mang.

          Đáp: Đầy sân gươm tuốt sáng loà

                   Thất kinh nàng chửa…. hẳn là có mang.


  • Rằng: Năm Gia Tĩnh triều Minh

               Thuý Kiều có lấy thương binh không chàng.

         Đáp: - Một tay trời bể ngang tàng

                 Kiều lấy Từ Hải rõ ràng thương binh.

                 -  Một tay gây dựng sơn hà

                 Lấy chàng Từ Hải đúng là thương binh.


  • Truyện Kiều anh đã thuộc làu 

    Đố anh kể được một câu bốn mình

          Đáp: Oan kia theo mãi với tình

                   Một mình mình biết, một mình mình hay.


  • Nỉ non căn vặn đến điều

    Tại sao lại bảo nàng Kiều sứt răng.

          Đáp: Hở môi ra cũng thẹn thùng

                   Sứt môi nàng sợ chúng trông bạn cười.


  • Thời Kiều đã có ngân hàng

     Em đây chưa kể xin chàng chỉ cho.

           Đáp:  Nhà băng đưa mối rước vào

                     Tiền nong thanh toán việc nào chẳng xong.

  •   Chày sương chưa nện cầu Lam

      Đố chàng Kim Trọng xưa làm nghề chi.

           Đáp:  Nàng ơi chớ hỏi thêm phiền

                    Xưa chàng Kim Trọng giáo viên vỡ lòng

                     Đề huề lưng túi gió trăng

                     Sau chân theo một vài thằng con con.


  •     Ai cắt buồng trứng đi rồi

        Mà còn đẻ giống sinh nòi hở em?

            Đáp:  Hoạn bà bà Hoạn chứ ai

                     Hoạn rồi mà vẫn sinh nòi Hoạn Thư.


  • Truyện Kiều có mấy chữ bông

     Anh mà kể được, tơ hồng xin trao.

         Đáp: Truyện Kiều có bốn chữ bông

                  Anh mà kể hết, nhớ không quên lời

                  Cỏ non xanh tận chân trời

                  Cành lê trắng điệm một vài BÔNG hoa.

                  Một vùng cỏ áy bóng tà

                  Gió hiu hiu thổi một và BÔNG lan.

                  Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng

                  Nách tường BÔNG liễu bay sang bên nhà

                  Dưới trăng Oanh đã gọi hè 

                  Đầu tường lửa lưu lập loè đâm BÔNG.

                  Hứa gì em có nhớ không.


  •     Bây giờ em đố một bài

         Anh mà giải được đôi hài em trao

         Truyện Kiều kể lại tiêu hao

         Hai câu anh kể làm sao hết Kiều?

    

            Em đố anh lại giảng ra

            Anh giảng chẳng được người ta chê cười 

            Đôi hài của đáng mấy mươi 

            Bây giờ anh giảng em thời đem ra:

            Trăm năm trong cõi người ta

             …

             Mua vui cũng được một và trống canh.


5. Đố mẹo, chơi chữ:


  • Con gì đầu dê, mình ốc?

           ( Con dốc ).

-  Tìm điểm sai trong câu: Dưới ánh nắng sương long lanh khoe sắc thắm

            ( Khoe sắc khoé ).

  • Từ gì mà 100% người Việt Nam đều phát âm sai?

             ( Từ “ SAI “ ).

  •   Tại sao khi bắn súng người ta lại nhắm một mắt?

             ( Vì nhắm cả hai mắt không nhìn thấy mục tiêu )

  •   Tại sao ăn trộm thường nhìn trước nhìn sau rồi mới chun vào nhà?

             ( Vì không thể nhìn hai hướng cùng một lúc được )

  •     Khi nào 5 chia 3 bằng 2?

             ( Khi ta làm sai )

  •   Lịch nào dài nhất?   Lịch sử
  •   Đường nào dài nhất?  Đường đời
  •   Xã nào đông nhất?    Xã hội.
  •   Quần nào rộng nhất?   Quần đảo.


  •   Bệnh nào bác sĩ bó tay?  Bệnh gãy tay.
  •   Bên trái đường có một căn nhà xanh, bên phải đường có một căn nhà đỏ.  Vậy nhà trắng ở đâu?     ( Bên Mỹ ).
  •   Tháng nào có 28 ngày? ( Tất cả các tháng )
  •   Tháng nào ngắn nhất?   ( Tháng ba, tháng tư ).
  •   Cái gì của người con gái lúc nào cũng ẩm ướt?   ( Cái lưỡi )
  •   Cái gì Adam có 2 mà Eva chỉ có 1?      ( Chữ A ).
  • Cái gì của người chồng mà người vợ thích cầm nhất?  ( Tiền lương )
  • Cái gì của người chồng mà chỉ người vợ mới dùng được?  ( Cái tên )
  • Cái gì đi thì nằm, đứng cũng nằm, nhưng nằm lại đứng? ( Bàn chân ).
  • Ở Việt Nam, rồng bay ở đâu và đáp xuống ở đâu? ( Bay ở Thăng Long và đáp ở Hạ Long ).
  • Cắm vào run rẩy toàn thân

     Rút ra nước chảy từ chân xuống sàn

     Hỡi chàng quân tử giàu sang

     Cắm vào xin chớ vội vàng rút ra.

        Là cái gì?   ( Cái tủ lạnh ).

  •   Ngả lưng cho thế gian nhờ

      Vừa êm vừa ấm lại ngờ bất trung.

           ( Cái phản )

  •     Việc mình không phải việc ai

       Nay làm không hết thì mai sẽ làm.

                ( Cái bàn -   Bàn tới bàn lui. )

  •   Khi xưa em trắng như ngà

       Bởi chàng ngủ lắm nên đà em thâm

       Lúc bẩn chàng đánh chàng đâm

       Đến khi rửa sạch chàng nằm lên trên.

               ( Cái chiếu )

  •     Thân em xưa ở bụi tre

        Mùa đông xếp lại mùa hè mở ra.

              ( Cái quạt )

  •     Mẹ không ý tứ vạy vò

        Đẻ con sao lại tréo giò lạ thay.

              ( Cái kéo )

  •     Có sống mà chẳng có lưng

        Có lưỡi có mũi mà không có mồm.

              ( Con dao )


6.     Đố chữ.


Ngày trước có nhiều câu đố chữ Hán, nay ít người biết nên bày ra đố chữ quốc ngữ:

  •   Hai người đứng bắt tay nhau

      Chạm trán chạm đầu mà chẳng chạm chân. - ( Chữ A ).

  •   Tôi là con bố mẹ bò

       Trước xê mà lại sau a mới kỳ.     ( Chữ B ).

  •     Bắc thang xem hát phường chèo

        Hỏi thang một nấc mà leo nỗi gì.  ( Chữ H )

  •     Có cây mà chẳng có cành

        Có trái cam sành lơ lửng trên không.  ( Chữ I ).

  •     Một ngang vắn, một sổ dài

        Cùng mình chết đứng, đố ngài đoán ra ( Chữ T ).

  •     Cái ly để giữa bàn tròn

        Để lâu coi lại vẫn còn như xưa ( Chữ Y - y nguyên ).

  •     Đầu bò mà gắn đuôi heo

        Ai mà thấy nó lăn queo tức thì

        Đầu trâu mà gắn đuôi nai

        Trơ trơ như đá không ai sợ nào (  Chữ Beo và chữ Trai )

  •     Con dê ăn cỏ bờ ao

        Be be dứt tiếng, té nhào giơ râu.  ( Chữ Dao ).

  •     Hai anh kèm một chiếc ghe

        Ở trên có sắc thè lè bụng ra.   ( Chữ Nghén ).



***

Câu đố rất phong phú và đa dạng, khó xác định ai là tác giả. Cùng lời giải là Mặt trời, có rất nhiều câu khác nhau.

  • Trên trời có một cái bông

     Mưa sa thì héo, nắng hồng thì tươi.

  •   Quê em ở thôn đông

      Em đi lấy chồng thôn Thượng thôn Tây

      Em thời lên xuống hàng ngày

      Nhìn em ai cũng mặt mày nhăn nheo.

  •   Bằng cái nồi rang

      Cả làng phơi thóc.

  •   Cái gì tròn vo tròn vỏ

       Không nhuộm mà đỏ

       Đi miết cả ngày

       Mà đứng một chỗ.

Nếu đố mặt trăng thì thay đổi một chút:

  •   Bằng trang cái dĩa

       Đêm xỉa xuống ao

      hay:

       Tròn như cái dĩa đêm xỉa xuống ao

       Một trăm cái cuốc mà đào chẳng lên.

  •   Vừa bằng cái vung

      Vùng xuống ao

      Đào chẳng thấy

      Lấy chẳng được.

  •   Mười lăm mười sáu tốt bông

      Đến ba mươi tuổi không chồng chết queo.

  •   Thuở bé em có hai sừng

      Đến khi nửa chừng thì lớn bụng ra

      Đến năm ba mươi tuổi già

      Em nhớ lúc cũ lại ra hai sừng.

  •   Đang xuân tôi mới lú sừng

      Lớn lớn lưng chừng lại rụng sừng đi

      Thần thông biến hoá một khi

      Hai sừng mọc lại như thì đang xuân.

Kết hợp quan sát thực tế với tưởng tượng mới nghĩ ra những câu đố như thế. Nếu không cho lời đáp trước e cũng không dễ đoán ra.

Vài câu đố sau đây không cho lời giải trước để thử tài người đọc:

  •   Cong cong như thể cây cung

      Ai lên cửu trùng mà muốn bắc thang.

  •   Sinh ra liền, tử đi liền

      Sinh ra các xã, các miền đều trông.

      Sinh ra không chú không o

      Sinh ra một nó nằm co một mình.

  •   Xanh xanh đỏ đỏ vàng vàng

      Bắc cầu thiên lý, nằm ngang một mình.

   Cả ba câu đó đều có lời giải là Cầu vồng.

   Ngoài ra còn có câu đố về rừng ( Bao nhiêu thú dữ đều ở trong lòng ), về núi ( Sừng sững mà đứng giữa trời

        Trời xô không đổ, trời dời không đi )

Lại có những câu nếu không nói trước là đố về cái gì thì khó mà giải ra:

  •   Trên lông, dưới lông, tối lồng làm một.

  hay:

  •   Sông tròn vành vạnh, nước đục lờ lờ

      Cỏ mọc trên bờ, thằng bé đứng chơi ở giữa.

  •   Con gì có đuôi có lông

      Trẻ già trai gái đều cùng mang theo.

Cả ba câu đều đố về con mắt đó.


Bên trên chỉ là những điều ghi nhận về Câu đố, không thể nào kể hết, nói hết được.


Tuy nhiên, sẽ là thiếu sót nếu không nói thêm rằng Câu đố không phải chỉ người Việt Nam chúng ta mới có. Ai biết tiếng Pháp cũng biết trong ngôn ngữ đất nước hình lục giác cũng có câu đố, họ gọi là devinette, cũng thú vị không kém.

  • Qu’est - ce qui voyage dans le monde entier tout en restant dans un coin? ( Cái gì đi khắp thế giới trong lúc vẫn ở yên trong góc. Đáp là con tem ( un timbre )
  • Qu’est-ce qui augmente mais ne diminue jamais ? ( L’âge )

     Cái gì tăng mà không bao giờ giảm ? ( Tuổi ).

  • Qu’est-ce qui ne peut pas parler mais répond quand on lui parle? ( L’écho ).  Cái gì không nói được nhưng khi ta nói thì biết trả lời ( Tiếng vọng ).
  • J’ai un chapeau mais pas de tête, j’ai un pied mais pas de chaussures. Qui suis-je ?  ( Un champignon ) 

     Tôi có mũ mà không có đầu, có chân mà không có giày. Tôi là ai? ( Nấm).

  •   Qu’est-ce qui a des pieds mais ne marche pas? ( Une chaise )

      Cái gì có chân mà không đi được? ( Ghế )

  •     Quand je mange, je grossis, quand je bois, je meurs. Qui suis-je ? Le feu.

       Khi tôi ăn, tôi mập ra, khi tôi uống, tôi chết. Tôi là ai? ( Lửa. )


Cũng có những câu đố phải đọc và hiểu ngay trong tiếng Pháp, không thể dịch được:

  • Qu’est-ce qui se trouve une fois dans une minute, deux fois dans un moment, mais jamais dans une heure? ( La lettre M ). ( Chữ M . Có một chữ trong minute, hai trong moment còn heure thì không có chữ nào. )
  • Qu’est- ce qui est à la fin d’un arc en ciel? ( La lettre L. )
  • Quel mot contient une lettre? ( Enveloppe )

    Đây là cách chơi chữ. Lettre có nghĩa là chữ cái, cũng có nghĩa là bức thư. Enveloppe có nghĩa là phong bì.

  •   Je suis Franck, mais je ne suis pas Franck. Qui suis-je ? ( Son chien ).
  • Đây cũng là chơi chữ, suis có nghĩa là “ là “, cũng có nghĩa là đi theo.
  • Je suis le commencement de tout et la fin de tout.  .Qui suis- je? ( La lettre T ) . Chữ T bắt đầu và kết thúc chữ Tout.


Tương tự như thế, trong tiếng Anh câu đố được gọi là Riddle.


  • What has many teeth but can’t bite? ( A comb ).

   Cái gì có nhiều răng nhưng không cắn được? ( Cái lược ).

  • What has words but never speaks? ( A book ).

   Cái gì có nhiều từ mà không nói được ? Cuốn sách.

  • What can fill a room buts takes up no space? ( Light. )

   Cái gì có thể tràn đầy căn phòng nhưng không chiếm chỗ? ( Ánh sáng).

  •   What is always in front of you but can’t be seen? The future.
  • What has a neck but no head ? ( A bottle )

        Cái chai có cổ mà không có đầu.


Và cũng có những câu đố không dịch được, chỉ hiểu trực tiếp qua tiếng Anh thôi.

  • Where does today comes before yesterday? ( The dictionary ). 

   ( Trong từ điển, today có trước yesterday ).

  •   What building has the most stories?  ( The library )

      Đây là chơi chữ: story, stories vừa có nghĩa là tầng lầu, vừa có nghĩa là câu chuyện.

  •   What is 3/7 chicken, 2/3 cat, and 2/4 goat? ( Chicago ).

       ( Lấy 3/7 chữ chicken tức là chi … )

  •   What word is pronounced the same if you take away four of its five letters?    ( Queue ).  Queue và Q đọc giống nhau.
  •     What is the longest word in the dictionary?  

           smiles, because there is a mile between each S.

         Chữ smiles là chữ dài nhất vì hai chữ S cách nhau tới một dặm ( mile ).


***

Đến đây có thể kết luận: Câu đố là một trò chơi ngôn ngữ khá thú vị, không của riêng một dân tộc nào. Truy tìm nguồn gốc sâu xa nhất có lẽ phải dẫn tới câu đố từ thần thoại Hy lạp, thường được gọi là énigme de Sphinx. “ Con vật gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều đi ba chân ? “ Lời giải là con người. Nhỏ phải bò, hai tay và hai chân. Lớn đi vững trên hai chân. Về già chống gậy mới đi được, xem như là ba chân.

Sphinx tức là Nhân sư, một động vật thần thoại được thể hiện như một con sư tử nằm với một cái đầu người. Nhân sư được cho là kẻ gác cửa vào thành Thebes Hy lạp, và đưa ra một câu đố bí hiểm cho ai muốn vào thành. Đó là câu đố bên trên. Nhân sư bóp cổ ăn thịt tất cả những người không thể trả lời. Chỉ có Oedipus giải được và trả lời là con người.

Câu chuyện kể tiếp rằng khi bị giải đố, Nhân sư tự lao mình xuống thềm đá và chết. Và cũng từ đó Oedipus có thể được công nhận là một nhân vật giúp tạo ra sự chuyển tiếp giữa việc thực hành tôn giáo cũ đại diện bởi cái chết của nhân vật Nhân sư, và sự trỗi dậy của giá trị mới, các vị thần Olympia.


Câu chuyện thần thoại về câu đố của Sphinx góp thêm phần thú vị cho những ghi nhận về câu đố Việt Nam. Mong rằng bài viết trên 3600 chữ này cũng mua vui được dăm ba phút cho người đọc bốn phương.



THÂN TRỌNG SƠN

( tháng 5 / 2023 )