PHÒNG KHO TRÊN GÁC
Laura E. Richards
( 1850 - 1943 )
Nữ tác giả người Mỹ Laura Elizabeth Howe Richards đã viết hơn chín mươi cuốn sách, nhiều trong số đó là những câu chuyện đạo đức đầy thú vị dành riêng cho trẻ em. Bà đã đoạt giải Pulitzer vào năm 1917, cùng với chị gái kiêm đồng tác giả của mình, Maud Howe Elliott, nhờ cuốn tiểu sử viết về mẹ họ, bà Julia Ward Howe (1819–1910), người được nhớ đến nhiều nhất với bài hát The Battle Hymn of the Republic – quốc ca tinh thần của quân Liên minh trong Nội chiến Hoa Kỳ. Richards là một trong những tác giả có mặt trong tuyển tập của chúng tôi về những người đoạt giải Pulitzer.
Richards lớn lên ở bang Massachusetts, trong một gia đình mà cả cha lẫn mẹ đều là những người theo chủ nghĩa bãi nô. Mẹ bà còn là một nhà thơ đấu tranh, người đã sáng tác nên bài hát chủ đề cho phe Liên minh trong cuộc Nội chiến Mỹ. Sau khi kết hôn, bà chuyển đến sống tại Gardiner, bang Maine để nuôi dạy ba người con. Điều này lý giải cho tình yêu của Richards dành cho mùa đông và sự gắn bó dịu dàng của bà với bang Maine, như được thể hiện trong câu chuyện mang màu sắc tích cực Maine to the Rescue. Bài thơ phi lý đầy hài hước của bà mang tên Eletelephony vẫn luôn làm say mê trẻ em và cả các bậc phụ huynh khi khám phá lại. Bài thơ này từng được chuyển thể và phát sóng trên chương trình thiếu nhi nổi tiếng Sesame Street.
Khi lòng nhân ái và dũng cảm tạo nên người anh hùng thầm lặng
Laura E. Richards, nữ nhà văn Mỹ nổi tiếng với các truyện kể giàu đạo đức và cảm xúc, đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc qua những câu chuyện giản dị nhưng mang tính nhân văn cao. Một trong số đó là truyện ngắn “The Shed Chamber”, kể lại trải nghiệm đầy kịch tính nhưng cũng vô cùng ấm áp của cô gái trẻ Nora trong một đêm mùa đông. Dưới vẻ ngoài nhẹ nhàng và giọng kể khiêm nhường, truyện khắc họa rõ nét những giá trị đạo đức cốt lõi: lòng tốt, lòng dũng cảm, sự tha thứ và tinh thần cộng đồng.
Ngay từ đầu truyện, Nora hiện lên là một cô gái hiền hậu, tận tâm với công việc chăm sóc gia đình bà Bowles – một phụ nữ bệnh tật, có chồng đi vắng và hai đứa con nhỏ. Sự chăm sóc của Nora không chỉ nằm ở việc nấu ăn hay quét dọn, mà còn thể hiện qua những hành động tinh tế: sắp xếp bữa tối chu đáo, trò chuyện nhẹ nhàng để an ủi người bệnh, và luôn tôn trọng không gian riêng của gia đình.
Cô không làm những điều lớn lao, nhưng chính sự dịu dàng, chu đáo ấy khiến nhân vật Nora toát lên vẻ ấm áp và nhân hậu. Trong hoàn cảnh xa lạ, cô vẫn hành xử như một thành viên trong nhà, điều đó chứng minh một tinh thần trách nhiệm đáng quý.
Tình huống bất ngờ xảy ra khi một cô gái tên Annie – người giúp việc cũ – quay trở lại với lý do lấy đồ bị quên. Bằng trực giác nhạy bén, Nora cảm thấy bất an trước nụ cười lạ của cô gái và quyết định theo dõi. Những gì cô nhìn thấy từ khe khóa đã xác nhận linh cảm của mình: Annie đang giúp một người đàn ông lẻn vào nhà qua cửa sổ, người này sau đó trốn trong chiếc rương lớn để chờ cơ hội ra tay.
Trong hoàn cảnh căng thẳng, Nora không hề hoảng loạn hay hoảng sợ. Trái lại, cô hành động nhanh chóng và quyết đoán: khóa chặt chiếc rương, giả vờ bình thản trước Annie, rồi lập tức chạy đi cầu cứu. Đặc biệt, cô luôn giữ bình tĩnh để không làm người bệnh hoảng hốt. Những hành động ấy chứng tỏ sự dũng cảm, thông minh và bản lĩnh vững vàng – phẩm chất làm nên một người anh hùng trong đời thường.
Khi mọi việc kết thúc, tên trộm bị bắt giữ nhờ sự trợ giúp của cha con nhà Brett, nhưng điều khiến người đọc xúc động chính là cách Nora nhìn nhận về Annie. Cô không trách móc, không vạch trần, mà ngược lại – đến thăm Annie nhiều lần, thấu hiểu hoàn cảnh của cô gái trẻ thiếu tình thương, và sau đó kết bạn với cô.
Hành động ấy thể hiện một trái tim bao dung và lòng tin vào sự cải hóa của con người. Nora không chỉ là người ngăn chặn một vụ trộm – cô còn là người cứu rỗi một tâm hồn lạc lối bằng tình bạn và sự cảm thông chân thành. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc nhất của truyện.
“The Shed Chamber” là một câu chuyện “nhỏ” – không có chiến trận, không có mất mát – nhưng lại lay động sâu xa bởi sự cao cả thầm lặng. Nora là một “người hùng đời thường” – cô hành động vì người khác, không cần vinh danh, không tìm kiếm công trạng. Hành động của cô âm thầm nhưng có sức lan tỏa mạnh mẽ.
Truyện cũng gửi gắm niềm tin vào sự tử tế và khả năng chuộc lỗi: Annie – cô gái từng sa ngã – cuối cùng cũng trở lại làm người tốt nhờ được trao cơ hội. Qua đó, tác giả khẳng định: “Điều tốt đẹp có thể nảy sinh ngay cả từ những điều tưởng chừng như tồi tệ nhất.”
“The Shed Chamber” không chỉ là một câu chuyện ly kỳ về lòng can đảm, mà còn là bài ca ngợi ca tình người, lòng bao dung và phẩm chất đạo đức của người phụ nữ. Trong xã hội hiện đại, khi nhịp sống trở nên gấp gáp và con người dễ trở nên vô cảm, những truyện như thế này nhắc nhở ta rằng: lòng tốt, sự thấu hiểu và dũng cảm luôn là những giá trị cần được giữ gìn và lan tỏa.
- * *
“Khi một cô gái lần đầu tiên rời xa nhà, cô ấy sẽ không ngờ lại nghe được câu: ‘Dũng cảm lên, cô gái can đảm!’”
“Ừ, các cậu biết không, hồi đó mình đã trả lời một mẫu quảng cáo trên tờ Người Bạn Nhà Nông, và đến giờ mình vẫn luôn thấy biết ơn vì đã làm vậy. Đó là mùa hè năm cha mình bị gãy tay, vụ khoai tây lại thất bại, mọi thứ ở nông trại như đều đi trật đường ray. Ở nhà đã có đủ chị em để lo công việc, nên mình nghĩ mình nên tìm việc ở bên ngoài nếu có thể. Mình đã thử chỗ này chỗ kia, nhưng đều không thành. Cuối cùng, mình để ý thấy một thông báo trên Người Bạn Nhà Nông, cũng giống y như cái thông báo mà Lottie vừa kể đấy: ‘Cần một cô gái đáng tin cậy, siêng năng, giúp việc nhà và trông trẻ. Gửi thư kèm giới thiệu tới A.B.C., Dashville.’ Mình bàn bạc với mẹ, và mẹ đồng ý; còn cha thì không mấy đồng tình, dĩ nhiên rồi; ông ấy luôn muốn tất cả chúng mình ở nhà, nhất là vào mùa hè. Tuy nhiên, ông vẫn bảo mình có thể tự quyết. Thế là mình trả lời thư, gửi kèm theo một lá thư giới thiệu của mục sư – người đã nói những điều tốt đẹp về mình. Mình còn gần như xấu hổ khi gửi bức thư ấy, vì ông ấy lúc nào cũng đối xử với mình tốt hơn mức bình thường; cứ như thể mình là con ruột của ông ấy vậy. Thế rồi họ viết thư bảo mình đến, và mình lên đường.
“Các cậu à, thật sự rất khó khăn khi đến lúc phải rời khỏi nhà, thấy mẹ đứng ở ngưỡng cửa cố tỏ ra không lo lắng, còn cha thì bực bội, cứ nói rằng chuyện này là vô lý, rồi rằng ông sẽ không có ai hái táo cả. Dĩ nhiên, ông biết là mình hiểu ông nói thế vì không muốn mình đi. Và điều đó cũng khiến mình thấy an lòng, vì ít ra ông vẫn muốn mình ở lại. Hai chị Nell và Margie đã xếp hành lý cho mình, và các chị ấy phấn khích không kém gì mình, thậm chí có lúc còn ước được đi thay mình – nhưng chắc là không thật đâu. Rồi Joe huýt sáo gọi con ngựa già Senator, mình thì vẫy khăn tay, mẹ và hai chị thì vẫy tạp dề chào, và mình lên đường.
“Mình không thực sự thấy cô đơn cho đến khi tàu lửa rời ga, và mình không còn nhìn thấy Joe đứng vuốt bờm Senator và gật đầu với mình nữa. Lúc ấy, thế giới bỗng trở nên quá rộng lớn, còn Tupham Corner thì chỉ là một góc rất nhỏ. Mình không muốn kể nhiều về phần đó; rồi các cậu cũng sẽ tự hiểu thôi, khi lần đầu tiên rời xa mái nhà của mình.
“Chuyến đi dường như dài lắm, nhưng rồi cái gì cũng đến lúc kết thúc, và trời vẫn còn đủ sáng để mình nhìn thấy nơi ở mới khi đến nơi. Đó là một ngôi nhà dễ thương, dài và hơi quanh co, sơn màu vàng – điều đó càng khiến mình nhớ nhà hơn nữa. Có hai đứa trẻ đứng ở cửa, rồi ông Bowles bước ra, bắt tay mình và giúp mình mang đồ xuống. Ông ấy trông hiền hậu, điềm đạm, và ông bảo hai đứa nhỏ ra chào và bắt tay mình. Chúng còn rụt rè, đứng nép vào nhau và mút tay – mình hiểu cảm giác ấy lắm. Chính mình cũng muốn trốn đi khi ông dẫn mình vào nhà gặp bà Bowles. Ông nói bà ấy bị bệnh, không thể rời khỏi phòng được.
“Các cậu à, ngay khoảnh khắc mình thấy gương mặt nhợt nhạt nhưng dịu dàng ấy, với ánh nhìn đau đớn xen lẫn kiên nhẫn, mình biết ngay vì sao mình được mời đến. Mình nghĩ hai bên hiểu nhau ngay từ lần đầu gặp mặt – mình và bà Bowles. Bà nắm tay mình thật lâu, nhìn vào mắt mình, còn mình cũng nhìn lại bà. Bà chắc hẳn đã thấy mình thương cảm cho bà ra sao, và mình mong giúp đỡ được gì đó. Khi mình ra nhà bếp, mình nghe bà nói với một tiếng thở dài nhẹ: ‘Ôi John, em thật sự tin lần này là đúng người rồi!’ – Nghe vậy, các cậu hiểu không, mình càng quyết tâm hơn là sẽ không làm bà thất vọng!
“Cái bếp thì… thôi rồi các cậu ạ, bừa bộn đến mức không thể tả nổi. May là mình đã gặp bà Bowles trước, nếu không thì có lẽ mình đã bỏ chạy mất tiêu rồi. Cô bé lớn hơn – thật lạ khi nghĩ lúc đó mình còn chưa biết Barbara tên gì! – đi theo mình ra bếp. Chắc là bố nó bảo vậy. Con bé cứ nép vào tường, y hệt như mình ngày xưa lúc còn nhút nhát. Mình hỏi nó vài điều, hỏi mấy thứ ở đâu – mà chúng đúng là ở đâu cũng có, mà cũng chẳng ở đâu cả! Chưa từng thấy cái bếp nào như vậy! – con bé rút tay ra khỏi miệng, rồi chẳng mấy chốc, mình kể cho nó nghe về mấy con mèo vàng nhỏ ở nhà mình, thế là hai đứa thân nhau. Nó bảo đã có rất nhiều cô gái đến giúp việc, mà cô nào cũng tệ hơn cô trước. Nhà máy giày đã hút hết những người giỏi, chỉ còn lại những người vụng về. Cô giúp việc trước suýt làm chúng đói chết, lại còn hỗn láo với bà Bowles, người thì bẩn thỉu – thôi, không cần nói cũng biết rồi. Thật là xót xa khi thấy những đồ đạc tốt bị bỏ bê như thế; vì thật ra đồ đạc trong bếp đều tốt, chỉ là bẩn, hỏng và… ừ, phần đó thì kể làm gì cho thêm buồn.”
Mình hỏi khi nào thì mẹ cô bé ăn gì đó, và con bé bảo từ trưa đến giờ mẹ chưa ăn gì; mình biết điều đó không thể nào là cách chăm sóc một người bệnh được, thế là mình đặt ấm nước lên bếp và lục tìm quanh bếp cho đến khi thấy một cái tách và dĩa mình ưng ý, rồi mình tìm ra hộp đựng bánh mì – ôi trời ơi, cái hộp bánh mì ấy, các cậu ơi! Nhưng lớp mốc cạo đi là xong, bánh mì bên trong không đến nỗi nào; mình nướng một ít bánh mì, cắt bỏ viền cứng, và chỉ phết lên đó một chút xíu bơ; rồi mình nhờ Barbara mang vào cùng cái khay nhỏ, và bảo nó nhớ dặn mẹ ăn hết nhé. Mình nghĩ chắc bà sẽ dễ ăn hơn nếu là con gái mang vào, thay vì một người lạ, nhất là khi bà không có nhiều khẩu vị.
Các cậu thân mến, chỉ vài phút sau, con bé chạy ra, mặt mày rạng rỡ.
“Mẹ ăn hết rồi! Từng giọt luôn!” – nó reo lên. “Giờ mẹ đang ăn bánh nướng. Mẹ hỏi làm sao chị biết, rồi mẹ khóc, nhưng giờ thì mẹ ổn rồi. Con nghĩ bố cũng sắp khóc nữa đấy. Này!”
“Gì thế, em yêu?”
“Bố bảo Chúa đã gửi chị đến. Có đúng không?”
Mình chỉ gật đầu, vì lúc đó không thể thốt nên lời. Mình hôn con bé một cái rồi tiếp tục lau dọn. Các cậu à, đừng bao giờ thấy tiếc thời gian mình bỏ ra để học nấu ăn cho giỏi. Thức ăn chính là thứ giữ cho ta sống, và giờ đây – cũng như sau này khi ta trở thành người phụ nữ trưởng thành – chất lượng bữa ăn tốt hay dở đều phụ thuộc vào chính ta. Không đâu Sue, mình không định giảng đạo gì cả, nhưng mình sẽ không bao giờ quên ánh mắt và sự biết ơn của người đàn ông mệt mỏi ấy, cùng lũ trẻ đang đói lả khi ăn tối hôm ấy. Đó hoàn toàn là bữa tối kiểu mẹ nấu, từng miếng bánh bông lan đến món trứng chiên giăm bông. Mình tìm được khúc xương giăm bông trong một cái tủ tối tăm, phủ đầy mốc như ổ bánh, nhưng bên trong vẫn ngọt và thơm. Chỉ tiếc là mẹ không thể chứng kiến cảnh họ ăn bữa ấy.
Sau bữa tối, ông Bowles đến bắt tay mình. Lúc đó mình còn chưa biết ông ấy ít nói đến thế nào; nhưng mình thấy vui, dù cũng thấy lạ.
Tối đó mình mệt rã rời, và sau khi cho lũ trẻ đi ngủ, chắc chắn bà Bowles đã yên vị, có sẵn nước, bánh quy và cây nến bên cạnh – bà ấy ngủ rất kém – mình cũng mừng rỡ được lên giường. Barbara dẫn mình lên phòng, một căn phòng nhỏ xinh xắn với mái vát nghiêng và cửa sổ sát sàn nhà. Có hai cánh cửa, mình hỏi cửa kia dẫn đi đâu. Con bé mở ra và bảo: “Phòng kho ngoài hiên.” Mình nhìn qua vai nó, giơ nến lên, thấy một căn phòng rộng trống trơn, chỉ có vài cái rương lớn, không có đồ đạc gì ngoài một cái tủ áo cao. Mình thấy nơi đó có vẻ dễ mến, vì nó giống như phòng chơi trên gác nhà mình, nhưng mình mệt quá nên không có tâm trí khám phá, và ngủ thiếp đi chỉ sau mười phút kể từ lúc đắp chăn cho Barbara và hai bé Rob với Billy trong cái cũi đôi.
Nếu mình kể hết về những ngày đầu tiên ấy thì chắc phải mất cả tuần; nhưng thật ra, điều mình muốn kể là một chuyện đặc biệt thôi, chỉ là có quá nhiều kỷ niệm ùa về khiến mình bị cuốn đi. Chỉ vài ngày sau, mình đã thấy mình như thuộc về nơi đó, gần như là ở nhà. Họ là kiểu người khiến mình cảm thấy được trân trọng, không chỉ vì công việc mình làm. Bà Bowles luôn là người bạn thân nhất của mình sau người thân trong gia đình; chỉ mất một ngày là chúng mình đã thấu hiểu nhau, và dần dần, mình còn biết bà cần gì trước cả khi bà nhận ra điều đó.
Đến cuối tuần, ông Bowles nói ông cần đi công chuyện vài hôm, và hỏi bà có thấy an tâm ở nhà với mình và lũ trẻ không, hay ông nên mời em trai đến ngủ lại trong nhà.
“Không đời nào!” – bà Bowles đáp – “Em sẽ thấy an toàn khi có Nora ở đây, chẳng khác nào có cả một trung đoàn canh gác; mà còn thấy yên tâm hơn ấy chứ!” – bà cười nói thêm.
Thế là quyết định xong, hôm sau ông Bowles đi, mình hoàn toàn phụ trách cả nhà. Mình đoán là mình cũng thích cái trách nhiệm đó nữa. Mình hỏi bà Bowles xem mình có thể đi khắp nhà để kiểm tra cửa nẻo không, và bà bảo: “Tất nhiên rồi.” Mấy cửa sổ phía trước chỉ là cửa sổ bình thường, khá cao so với sàn nhà; nhưng ở phòng kho trên hiên và phòng mình thì cửa sổ nằm sát sàn, và theo mình thấy thì không có cách nào thực sự chắc chắn để khóa chúng lại. Tuy nhiên, mình không muốn làm bà lo, và đó là cách họ vẫn dùng bấy lâu. Giá mà mình biết trước…
Tối hôm ấy, sau khi lũ trẻ đã ngủ, mình đọc sách cho bà Bowles một giờ, rồi đi pha ít cacao cho bà; bà ngủ ngon hơn nếu uống chút gì ấm trước khi ngủ. Lúc đó khoảng chín giờ. Mình vừa bước vào bếp và chuẩn bị bật đèn thì nghe tiếng cửa mở khe khẽ.
“Ai đó?” – mình hỏi.
“Chỉ là em thôi.” – một giọng con gái đáp lại.
Tôi thắp đèn lên và thấy một cô gái tầm tuổi tôi, xinh xắn và ăn mặc lòe loẹt. Cô ấy nói mình là người đã rời khỏi nhà vài ngày trước, quên một món đồ và muốn lên phòng kho lấy lại. Tôi bảo cô đợi một lát rồi đi hỏi bà Bowles. Bà nói được, Annie có thể lên. “Annie cẩu thả và hỗn láo,” bà nói, “nhưng tôi nghĩ con bé không có ý xấu. Nó có thể lên lấy đồ.”
Tôi quay lại báo lại cho cô gái, và cô ta mỉm cười gật đầu. Tôi không thích nụ cười ấy, không rõ vì sao. Tôi định đi cùng cô ta, nhưng cô ta quay lại, nói khá gắt rằng mình đã sống ở nhà này ba tháng rồi, không cần ai chỉ đường cả. Tôi không muốn tự ý, nên để cô ta đi. Nhưng ngay khi nghe bước chân cô ta vang lên trên phòng tầng trên, có gì đó trong tôi cứ thúc giục, thúc giục tôi phải lên theo, dù tôi không muốn. Tôi cố cưỡng lại, tự nhủ là mình đang tưởng tượng vớ vẩn vì lo lắng, nhưng không ích gì – tôi phải lên lầu.
Tôi đi nhẹ nhàng, giày không phát ra tiếng. Phòng tôi lúc đó tối om, vì tôi đã đóng chớp khi ánh nắng buổi chiều tràn vào gay gắt. Nhưng một vệt sáng mảnh như ngón tay trải dài trên bóng tối – tôi biết trăng đang rọi vào cửa sổ phòng kho. Tôi đã làm một việc chưa từng làm trong đời – ánh trăng bạc ấy xuyên qua lỗ khóa, và như kéo tôi lại gần. Tôi quỳ xuống, nhìn qua khe.
Căn phòng rộng lớn sáng trắng dưới ánh trăng; những chiếc rương to trông như thú vật phục dọc tường. Annie đứng giữa phòng, như đang chờ hay lắng nghe điều gì. Rồi cô ta cởi giày, bước đến một cửa sổ và mở ra. Tôi đã khóa nó rồi, nhưng cái chốt đã cũ và cô ta biết mẹo mở. Một khoảnh sau, một cái đầu đàn ông đen sì nhô lên qua bậu cửa thấp. Tim tôi như ngừng đập. Cô ta giúp hắn leo vào mà không phát ra tiếng động nào. Hắn chắc đã trèo lên từ cây du lớn mọc sát tường nhà. Họ thì thầm với nhau một lúc, nhưng tôi không nghe được gì.
Người đàn ông đi tất, mặt xấu xa, thô lỗ, nhưng cũng có vẻ đẹp kiểu gì đó. Tôi thấy cô gái có vẻ sợ hãi, mà cũng vui nữa; hắn có vẻ đang tâng bốc cô ta, và một lần hắn vòng tay ôm hôn cô ta. Cô ta đến mở tủ quần áo, nhưng hắn lắc đầu; rồi cô ta mở chiếc rương tuyết tùng lớn, hắn gật đầu, đo đạc rồi chui vào ngồi. Rương sâu
đến mức hắn có thể ngồi yên ổn khi đóng nắp. Annie đóng lại, rồi lại mở ra lần nữa.
Tôi đã thấy đủ rồi. Tôi rón rén xuống cầu thang khi nghe cô ta đi về phía cửa; khi cô xuống đến nơi, tôi đang khuấy nồi ca cao trên bếp, quay lưng lại cô. Cô vòng qua, chìa ra một gói đồ và nói mình phải đi. Tôi cố giữ mặt trong bóng tối, vì sợ không thể giữ vẻ bình thản; nhưng tôi nói nhỏ nhẹ, hỏi cô đã tìm được đồ chưa, và chúc cô ngủ ngon tử tế nhất có thể. Trong đầu tôi thì rối loạn, và tim đập mạnh đến mức tưởng cô ta nghe được. Trong nhà có nhiều đồ bạc, và tôi biết ông Bowles mới rút tiền từ ngân hàng để đóng bảo hiểm nhân thọ.
Tôi lắng nghe bước chân cô ta biến mất, mãi đến khi cô ta đã rẽ ở góc đường xa, tôi vẫn đứng yên, không nhúc nhích. Nhưng khi tôi không còn nghe tiếng gì nữa, như có luồng sức mạnh dâng lên trong tôi, và tôi biết mình phải làm gì. Giày tôi không phát ra tiếng. Tôi len lén lên lầu, qua phòng tôi rồi vào phòng kho. Các cô gái ơi, căn phòng nằm đó, trống trải, sáng bạc dưới ánh trăng, khiến tôi thoáng nghĩ chắc mình đã mơ mọi chuyện.
Khoảng cách từ chỗ tôi đứng đến rương tuyết tùng như dài nửa dặm. Khi tôi bước đến, một tấm ván kêu lên dưới chân, và tôi nghe – hay tưởng mình nghe – tiếng sột soạt khẽ từ trong rương. Tôi bắt đầu ngân nga một giai điệu, rồi giả vờ tìm đồ trong các rương, mở ra đóng lại. Đến gần rương kia, tôi nhanh tay khóa lại. Rồi, các cô gái, tôi chạy! Tôi biết cái khóa ấy chắc chắn và rương làm từ gỗ cứng nặng; hắn sẽ mất khá lâu để phá ra, dù có mang theo đồ nghề gì đi nữa. Tôi lao xuống cầu thang một hơi, cầu nguyện sao cho mình giữ được giọng không lộ vẻ lạ với bà chủ đang ốm.
“Bà Bowles ơi, bà có phiền nếu cháu ra ngoài một lát không ạ? Trăng đẹp quá, cháu muốn đi dạo một chút, nếu bà không cần gì.”
Bà nhìn ngạc nhiên, nhưng dịu dàng nói được chứ, chỉ cần đừng đi xa quá.
Tôi cảm ơn bà, bước nhẹ nhàng ra tới cuối lối vườn – rồi tôi chạy! Các cô gái ơi, tôi không ngờ mình có thể chạy đến thế! Dường như tôi không còn thân xác nữa – tôi như cơn gió bay đi. Con đường trôi đi dưới chân tôi, và trong suốt lúc đó tôi chỉ thấy hai hình ảnh hiện rõ trong đầu – gã đàn ông mặt ác đang loay hoay mở khóa rương, và người phụ nữ hiền hậu đang ngồi dưới nhà với quyển Kinh thánh trên đầu gối. Vâng, tôi cũng nghĩ đến lũ trẻ, nhưng tôi tin rằng không ai – dù là kẻ ác nhất – lại muốn hại một đứa bé. Và tôi cứ chạy!
Tôi đến căn nhà đầu tiên, nhưng biết ở đó chỉ có hai bà già nhút nhát. Nhà kế tiếp có hai người đàn ông – George Brett và cha anh.
Vâng, Lottie ơi, chính là George của tôi, dù khi đó tôi chưa từng thấy anh. Anh mới từ trường đại học về chưa lâu. Lần đầu tôi thấy anh là hai phút sau đó, khi tôi gần như lao vào vòng tay anh lúc anh vừa bước ra khỏi cửa. Tôi còn nhớ rõ dáng anh trong ánh trăng – cao lớn, mạnh mẽ, mắt ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi chắc trông mình lúc đó như một bóng ma. Tôi gần như không nói nổi, nhưng bằng cách nào đó vẫn khiến anh hiểu được.
Anh quay lại gọi to cha mình, và ông vội chạy ra. Rồi anh nhìn tôi: “Cô có chạy nổi quay về không?”
Tôi gật đầu. Không thở ra hơi nhưng tôi biết mình vẫn còn sức chạy.
“Thế thì đi!”
Các cô gái ơi, chạy cùng người ấy thì tôi thấy dễ dàng hơn gấp bội. Giữa bao nhiêu lo lắng và mệt mỏi, tôi vẫn nhận ra dáng anh chạy rất nhẹ nhàng, còn chân tôi thì như có cánh trở lại. Có lúc tôi thở dốc, và anh nắm tay tôi khi chạy, nói: “Can đảm lên, cô gái dũng cảm!” Chúng tôi chạy tay trong tay, và tôi không hề chùn bước nữa. Sau lưng, tiếng chân ông Brett vang lên, không xa. Ông là người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, nhưng không theo kịp chúng tôi.
Khi gần tới nhà, tôi thì thầm: “Im lặng nhé, bà Bowles không biết gì cả.”
Anh gật đầu, và chúng tôi lẻn vào bằng cửa sau. Chỉ trong chớp mắt, anh đã cởi giày và leo lên cầu thang sau như một con mèo, tôi theo sát sau lưng. Khi chúng tôi bước vào phòng kho, nắp chiếc rương tuyết tùng bật mở.
Tôi nhìn thấy ánh mắt đen dữ tợn lóe lên, và hàm răng trắng nhởn như sói nhe ra. Không một tiếng động, George Brett lao qua tôi như gió; cũng không một tiếng động, tên trộm nhảy ra nghênh chiến. Trong ánh trăng trắng toát, tôi thấy họ ghì chặt lấy nhau, quấn vào nhau như thể chỉ là một khối. Rồi một màn sương mờ che lấp mắt tôi, và tôi không còn thấy gì nữa.
Tôi nghĩ mình không thật sự ngất đi; chắc chỉ vài phút sau là tôi tỉnh lại. Nhưng khi mở mắt ra, tôi thấy George đang quỳ gối, đè đầu gối lên ngực tên trộm, ghì hắn xuống, và ông Brett đang đảo mắt nhìn quanh căn phòng, giọng khô khốc: “Giờ thì dây phơi nhà Tunkett đâu rồi, để trói gã này?”
- Còn cô gái thì sao? Annie ấy? Ôi các cô gái ơi, cô ấy còn trẻ quá! Cô ấy đúng bằng tuổi tôi, và không có mẹ. Hôm sau tôi đến thăm cô ấy, rồi sau đó là nhiều ngày nữa. Giờ thì chúng tôi là bạn thân. Cô ấy đã trở thành một cô gái tốt, điềm đạm và đứng đắn; và không ai biết cả - không ai ngoài hai chúng tôi và hai người kia - rằng cô ấy đã từng ở trong căn phòng kho ấy.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch và giới thiệu
Tháng 6 / 2015
Nguồn:
https://americanliterature.com/author/laura-e-richards/short-story/the-shed-chamber/
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire