samedi 23 février 2019

TÔI CHỈ MUỐN GỌI ĐIỆN THOẠI THÔI






Truyện ngắn
Gabriel Garcia Marquez
Nhà văn Colombia
(1928-2014)



Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên ( Je ne voulais que téléphoner ) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả ( Sole Vina a Hablar por Teléfono ) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi. 

Viết vào tháng 4/1978, truyện kể về một ca sĩ trẻ đẹp trên đường lái xe giữa sa mạc phải dừng lại vì xe hỏng. Cô quá giang một chiếc xe buýt để tìm nơi gọi điện thoại báo tin về nhà. Số phận đẩy đưa cô vào một trại tâm thần, trở thành bệnh nhân bất đắc dĩ, và ở mãi luôn nơi ấy. Truyện có nhiều tình tiết xen kẽ hư cấu với hiện thực, ly kỳ, kinh dị, kiểu Edgar Allan Poe, bất ngờ, biến hoá, kiểu Guy de Maupassant.

Đây là một trong mười hai truyện của tuyển tập “ Mười hai truyện ngắn phiêu lãng “ ( Doce cuentos peregrinos ), bản dịch tiếng Pháp: Douze contes vagabonds, bản tiếng Anh: Strange Pilgrims, Những người hành hương kỳ lạ. 
Sách được xuất bản năm 1992, gồm những truyện tác giả đã sáng tác rải rác trong 18 năm trước đó, một số là truyện kể đã in báo, có truyện vốn là kịch bản phim.

Hãy nghe Marquez chia sẻ quan niệm sáng tác của mình:

«  Nỗ lực để viết một truyện ngắn cũng vất vả như cố gắng để khởi đầu một tiểu thuyết. Bởi lẽ, trong chương đầu tiên của tiểu thuyết, mọi điều cần được xác định ngay: cấu trúc, văn điệu, bút pháp, ngữ điệu, độ dài, và đôi khi cả tính cách của nhân vật. Tất cả những gì tiếp theo chỉ là niềm vui được viết, niềm vui thân thiện và cô đơn nhất của con người, và nếu không dành cả phần đời còn lại để chữa đi chữa lại tác phẩm, chính là vì phải tự đặt cho mình sự câu thúc khắt khe để kết thúc, chẳng kém gì sự đòi hỏi gắt gao phải bắt đầu nó. Ngược lại, truyện ngắn chẳng có khởi đầu, cũng chẳng có kết thúc, nó có vận hành hay không, thế thôi. Và nếu nó không vận hành trót lọt thì kinh nghiệm bản thân cũng như kinh nghiệm nhiều người khác chỉ ra rằng trong đa số trường hợp, tốt hơn hết là viết lại từ đầu, hoặc ném truyện đó vào sọt rác. Có ai đó, tôi không nhớ tên, đã diễn đạt ý trên bằng một câu an ủi: Người ta đánh giá một nhà văn hay qua những gì họ đã xé bỏ hơn là qua những thứ họ in ra. » ( Trích lời tựa ).

Một số truyện đã viết, Marquez để lạc hay bỏ quên đâu đó, sau viết lại, có thể đã khác đi so với bản thảo đầu tiên, rồi gom góp lại đem in. Bằng cách này hay cách khác, tất cả tác phẩm của Marquez đều trung thành với khuynh hướng “ hiện thực kỳ ảo “ làm nên tên tuổi cho nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động chính trị người Colombia, viết bằng tiếng Tây Ban Nha, được dịch, được đọc khắp các châu lục.

Ngoài truyện ngắn, Marquez còn được nhắc tên với các tiểu thuyết nổi tiếng như Trăm năm cô đơn, Tình yêu thời thổ tả... Viện Hàn lâm Thuỵ Điển đã trao tặng ông Giải Nobel Văn học năm 1982, vì “ những tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó tưởng tượng và hiện thực hoà vào nhau trong một vũ trụ thơ phong phú, phản ánh cuộc sống và những xung đột của cả một châu lục.”







Buổi chiều có mưa xuân, Marcia de la Cruz Cervantes đang một mình lái chiếc xe thuê được đi về Barcelone , xe bỗng bị hỏng hóc nơi sa mạc Monegros. Nàng lúc ấy hai mươi bảy tuổi, một phụ nữ Mexico xinh đẹp và nghiêm túc, mấy năm trước đã từng là một nghệ sĩ ca nhạc nổi tiếng.
Nàng kết hôn với một nhà ảo thuật mà nàng gặp hôm đi thăm thân nhân ở Saragosse về. Sau cả tiếng đồng hồ vẫy tay vô vọng đón các xe hơi xe tải  đang vùn vụt lướt qua mãi cho đến khi người tài xế một chiếc xe tải xơ xác thương tình dừng lại. Thế nhưng anh ta báo ngay cho nàng biết là anh sẽ không đi xa lắm. 
“ Vâng, không sao, Maria nói, tôi chỉ cần đến nơi nào có thể gọi điện thoại thôi.”
Đúng như vậy, bởi nàng cần báo cho chồng biết là nàng không thể về nhà trước bảy giờ tối. Mặc một chiếc áo khoác kiểu sinh viên, chân mang dép đi biển vào giữa tiết tháng tư, nàng trông giống con chim nhỏ ướt nhẹp, và sự việc làm nàng bối rối đến độ quên lấy chìa khoá xe mang theo.

Một phụ nữ vẻ dáng nhà binh nhưng cử chỉ dịu dàng ngồi cạnh tài xế đưa cho nàng một khăn mặt và tấm chăn, rồi thu xếp cho nàng đến ngồi bên cạnh. Lau mặt qua loa, Maria ngồi xuống, quấn người trong chăn và cố gắng châm một điếu thuốc nhưng diêm quẹt của nàng bị ướt. 
Người phụ nữ ngồi bên cạnh vội mồi lửa cho nàng và hỏi xin một điếu trong số những điếu thuốc còn khô. Trong khi hai người hút thuốc, Maria bỗng thấy thèm chia sẻ tâm sự và lên tiếng hơi cao giọng để át tiếng mưa và tiếng lọc cọc của chiếc xe. Người phụ nữ đặt ngón tay lên môi ra dấu ngắt lời nàng:
“ Họ đang ngủ.” Bà thì thầm.

Maria nhìn qua vai bà ta và thấy xe buýt đầy nghẹt những những người đàn bà thuộc nhiều lứa tuổi và thân phận không giống nhau, họ đang ngủ, trùm kín trong những chiếc chăn giống của nàng. Vẻ yên tĩnh của họ lan sang nàng, Maria co người lại trên ghế, thả hồn theo tiếng mưa rơi đều đặn. Khi nàng tỉnh giấc, trời đã tối, cơn bão đã dịu lại, biến thành một cơn mưa bụi lạnh buốt. Nàng không có chút khái niệm nào về thời gian thiếp ngủ bao lâu, cũng không rõ đang ở nơi đâu. Người bên cạnh thì vẫn tỉnh táo.
“ Ta đang ở đâu vậy?”, Maria hỏi.
“ Chúng ta đã đến nơi.” Người bên cạnh trả lời. 

Chiếc xe buýt đi vào cái sân lát gạch của toà nhà to lớn âm u, trông giống như một tu viện cổ nằm trong một khu rừng với những cây cổ thụ. Hành khách trên xe, được ngọn đèn trong sân soi sáng lờ mờ, vẫn ngồi bất động cho đến khi người phụ nữ dáng vẻ nhà binh ra lệnh đi xuống bằng cách nói thô lỗ như hay dùng ở trường mẫu giáo. Họ đều đã luống tuổi, di chuyển trong sân tối chậm rãi, tưởng chừng như những hình ảnh trong mơ.  Maria xuống xe sau cùng, nàng nghĩ rằng mấy bà kia là những nữ tu. Nàng đổi ý kiến ngay khi thoáng thấy nhiều người đàn bà khác mặc đồng phục đến đón họ trước cửa xe buýt, trùm lên đầu họ những chiếc chăn cho khỏi ướt, và cho họ xếp hàng một, không nói gì mà điều khiển ra lệnh cho họ bằng cách vỗ tay đều đặn, kiên quyết. Maria chào từ biệt và xin gởi lại tấm chăn cho người ngồi cạnh ban nãy, nhưng bà bảo nàng cứ giữ lại để trùm đầu khi băng qua sân rồi hãy trả lại cho phòng trực.
“ Ở đây có điện thoại không? “ Maria hỏi.
“ Tất nhiên là có. Họ sẽ dẫn cô đến chỗ điện thoại . “ bà ta trả lời.
Bà hỏi xin Maria một điếu thuốc nữa, nàng đưa hết cho bà tất cả số còn lại trong gói thuốc ẩm ướt. “ Đi đường chúng sẽ khô dần”, nàng nói. Đứng trên bậc lên xuống, bà ta vẫy tay chào và nói lớn: “ Chúc may mắn.” Xe buýt chạy đi, không để nàng có thì giờ nói thêm gì khác.

Maria chạy về hướng cửa lớn của toà nhà. Một bà quản giáo vỗ tay cố ngăn nàng lại rồi hét lên đầy tức giận: “ Dừng lại! Tao bảo dừng lại! “ Maria hé tấm chăn trùm đầu ra nhìn, thấy đôi mắt lạnh như băng và ngón tay trỏ lạnh lùng chỉ nàng đi vào hàng. Nàng tuân lệnh. Khi vào bên trong tiền sảnh, nàng tách ra khỏi nhóm và hỏi người gác cửa điện thoại chỗ nào. Một trong những quản giáo vỗ nhẹ vào lưng bảo nàng trở vào hàng và nhỏ nhẹ nói:
“ Phía này, cưng ạ, điện thoại ở phía này.”

Maria đi cùng mấy người đàn bà dọc theo một hành lang tối tăm rồi bước vào một phòng ngủ chung, nơi đây các bà quản giáo thu lại chăn mền và chỉ giường nằm cho mỗi người. Có một bà khác, Maria thấy có vẻ nhân đạo hơn và ở cấp cao hơn, quan sát hàng người, đối chiếu danh sách với tên từng người ghi trên những miếng bìa đính vào vạt áo những người mới tới. Khi dừng lại trước mặt Maria, bà tỏ vẻ ngạc nhiên thấy nàng không mang bất kỳ thẻ nhận diện nhân dạng nào.

“ Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi”, Maria nói với bà.
Nàng giải thích vắn tắt với bà là xe của nàng bị chết máy dọc đường. Chồng nàng, người làm trò ảo thuật biểu diễn trong các tiệc liên hoan, đang chờ nàng ở Barcelone, nơi họ có ba cuộc biểu diễn tối hôm đó. Nàng muốn báo cho chồng biết không đến kịp để đi cùng. Đã gần bảy giờ tối. Giờ này chồng nàng chuẩn bị ra đi, nàng e rằng chồng sẽ huỷ bỏ mọi chuyện vì nàng về trễ. Bà quản giáo tỏ vẻ chăm chú nghe nàng nói.
“ Tên cô là gì?” bà hỏi.

Maria nói tên nàng và thở phào nhẹ nhõm, trong khi bà quản giáo dò đi dò lại nhiều lần trong danh sách mà không thấy tên. Lo lắng, bà hỏi một bà quản giáo khác, bà ta cũng chẳng nói gì, chỉ nhún vai.
“ Nhưng tôi đến chỉ để gọi điện thoại thôi mà.” Maria biện bạch.
  • “Được rồi, cưng ạ, bà bề trên bảo nàng trong khi đẩy nàng về giường bằng một sự dịu dàng chẳng giấu vẻ dứt khoát. Nếu con ngoan, con sẽ được phép gọi điện thoại cho bất cứ ai con muốn. Nhưng không phải ngay bây giờ mà ngày mai.” 

Một ý tưởng vụt qua đầu Maria, nàng chợt hiểu vì sao những người đàn bà trên xe buýt di chuyển như đang lượn lờ dưới đáy hồ cá. Họ đã bị cho uống thuốc an thần, và toà nhà tăm tối kia, với tường đá dày và cầu thang giá lạnh, thực tế là một bệnh viện dành cho nữ bệnh nhân tâm thần. Nàng hoảng loạn chạy ra khỏi hành lang phòng ngủ, tuy nhiên, trước khi chạy đến cửa, nàng bị một bà quản giáo khổng lồ mặc bộ đồ xanh của thợ cơ khí  ngáng chân chặn lại và giữ nàng nằm bất động trên sàn bằng một đòn mãnh liệt. Maria hoảng sợ chết điếng người, dáo dác nhìn quanh.
“ Ôi, lạy Chúa”, nàng nói. “Tôi thề có hương hồn mẹ tôi là tôi đến chỉ để gọi điện thoại thôi.”
 Chỉ cần nhìn vào nét mặt của mụ quỷ ám mặc đồ thợ máy kia, vốn được mệnh danh là Herculina vì thân hình quá khổ, Maria cũng đủ hiểu là mọi van nài đều vô ích. Mụ ta được giao đảm nhận những ca khó khăn, và hai bệnh nhân bị nhốt đã bị cánh tay gấu bắc cực của mụ ta siết cổ chết, cánh tay đã thành thạo trong việc giết chết người do bất cẩn. Trường hợp thứ nhất đã được kết luận là do tai nạn. Còn trường hợp thứ hai, sự việc lộ liễu hơn, mụ ta bị khiển trách và cảnh báo rằng nếu việc tương tự xảy ra thì sẽ bị điều tra cặn kẽ hơn. Tuy nhiên dư luận cho rằng con cừu lạc loài kia thuộc về một gia đình danh tiếng, sau lưng mụ là một loạt những tai nạn đáng ngờ từng xảy ra tại các bệnh viện tâm thần ở Tây Ban Nha.

Đêm đầu tiên, để nàng ngủ yên, người ta đã tiêm một liều thuốc an thần. Khi cơn thèm thuốc lá đánh thức nàng dậy trước khi trời sáng, nàng thấy cổ tay và khuỷu chân bị cột vào thành giường. Nàng la hét, nhưng chẳng ai đến. Buổi sáng, trong khi ở Barcelone chồng nàng không tìm thấy dấu vết của nàng, thì ở đây nàng được dẫn đến nhà thương vì  bị phát hiện nằm bất tỉnh trong đống rác rưởi bẩn thỉu.
Nàng không biết mất bao lâu mới tỉnh lại. Thế giới bây giờ đối với nàng là thiên đường tình yêu, và nơi chân giường nàng, một ông già to lớn với những bước đi trên lòng bàn chân, với nụ cười tin cậy, đã mang lại cho nàng niềm vui sống chỉ bằng vài cử chỉ gọn gàng. Đó là giám đốc bệnh viện.

Trước khi giải thích mọi chuyện cho ông, trước cả khi lên tiếng chào hỏi, nàng xin ông điếu thuốc. Ông trao cho nàng một điếu đã đốt và tặng nàng luôn cả gói còn đầy. Maria không cầm được nước mắt.
“ Con cứ việc khóc đi, ông nói, giọng vỗ về. Nước mắt là phương thuốc hiệu nghiệm nhất.”

Maria trút niềm tâm sự không e dè, trước đây nàng chưa hề làm được điều đó với những người tình một đêm trong khoảng thời gian trống rỗng sau khi làm tình. Vừa nghe nàng nói, vị bác sĩ dùng mấy ngón tay vuốt nhẹ tóc nàng, xếp lại gối nàng nằm cho dễ thở hơn, hướng dẫn nàng những bí quyết thoát khỏi hoang mang với sự khôn ngoan dịu dàng từ trước đến nay nàng chưa hề mơ tới. Đó là lần đầu tiên trong đời nàng biết được điều kỳ diệu là được một người đàn ông toàn tâm toàn ý thông cảm lắng nghe mà không mong được đền bù là lên giường với nàng. Sau một tiếng nói hết mọi điều, nàng xin phép ông được gọi điện thoại nói chuyện với chồng.

Bác sĩ đứng lên với tất cả vẻ trịnh trọng đúng đẳng cấp. “ Chưa phải lúc, nữ hoàng của tôi ạ, ông nói, tay vỗ nhẹ má nàng với vẻ âu yếm nàng chưa hề biết được, mọi việc phải đúng lúc chứ.” Ra đến cửa, ông chúc phúc cho nàng với cung cách nhà tu hành trước khi biến mất mãi mãi.
“ Hãy tin tưởng nơi tôi “, ông bảo nàng.

Cùng chiều ngày hôm đó, người ta ghi tên Maria ở bệnh viện tâm thần với số thẻ mang theo ghi chú ngắn gọn về sự bí ẩn nơi nàng xuất phát và những hồ nghi về lai lịch. Bên lề còn chua thêm nhận xét của bác sĩ giám đốc: hay quậy phá.

Đúng như Maria tiên liệu, chồng nàng đã rời căn hộ khiêm tốn của họ ở khu Horta trễ nửa giờ để đi đến ba buổi biểu diễn đã ấn định. Sau hai năm họ tự nguyện chung sống rất hoà hợp, đây là lần đầu tiên nàng không đúng giờ, và anh nghĩ lý do là những cơn mưa dữ dội đã đổ xuống cả vùng suốt những ngày cuối tuần. Trước khi ra khỏi nhà, anh ghim một bức thư ngắn chỉ rõ lộ trình đêm đó.

Ở nơi biểu diễn thứ nhất, mấy đứa trẻ cải trang thành những con kangourou, anh không thực hiện tiết mục hay nhất với những con cá vô hình, vì không có nàng làm trợ diễn. Buổi diễn thứ nhì tại nhà một bà già chín mươi ba tuổi ngồi xe lăn, bà tự hào đã ăn mừng ba mươi sinh nhật sau cùng bằng cách mời ba mươi nhà ảo thuật khác nhau. Anh quá bối rối vì sự vắng mặt của Maria nên không tập trung diễn những trò đơn giản nhất được. Buổi diễn thứ ba, như thường lệ, tại một quán cà phê trên đường Rambla, anh đã thực hiện chẳng hay ho gì trước một nhóm du khách người Pháp, họ không thể tin những điều nhìn thấy vì họ vốn không tin ma thuật. Cứ sau mỗi cuộc diễn anh lại gọi về nhà, với hy vọng nàng sẽ trả lời, nhưng chỉ hoài công. Cuối cùng, anh không kìm được nỗi lo lắng là có điều gì bất trắc xảy đến cho nàng.

Trên đường về nhà trên chiếc xe tải nhỏ được trang bị để làm sàn diễn, anh nhìn thấy vẻ huy hoàng của mùa xuân nơi những cây cọ dọc đường Gracia và rùng mình với hình ảnh thê lương của thành phố nếu không có Maria. Hy vọng cuối cùng của anh vụt tắt khi nhìn thấy bức thư nhỏ vẫn còn đính nơi cửa. Anh hoảng loạn đến nỗi quên cả việc cho mèo ăn.

Giờ đây, khi viết lại câu chuyện này, tôi chợt nhận ra là tôi chưa hề biết tên anh ta, bởi vì ở 
Barcelone, người ta chỉ biết anh ta qua nghệ danh: ảo thuật gia Saturno. Anh là người tính bốc đồng, khó ưa trong giao tiếp xã hội, trong khi Maria lại có những đặc điểm mà anh thiếu, nàng rất tinh tế và duyên dáng. Chính nàng đã dẫn dắt anh trong cái cộng đồng khá bí hiểm kia, nơi không người đàn ông nào lại có ý tưởng sau nửa đêm lại bật điện thoại hỏi bạn xem có biết vợ mình ở nơi đâu không. Saturno đã làm thế ngay khi hai người mới về ở khu này, và anh không muốn nhắc chuyện đó nữa. Và thế là đêm hôm đó anh gọi điện thoại đến Saragosse và một bà ngoại còn ngái ngủ bình thản trả lời anh là Maria đã bỏ đi ngay sau bữa ăn trưa. Anh chỉ chợp mắt được đâu khoảng một tiếng lúc rạng sáng. Anh trải qua một giấc mơ lộn xộn, trong đó anh thấy Maria mặc áo cưới tả tơi, lốm đốm vết máu, và anh bừng tỉnh với niềm tin thảm hại rằng nàng đã bỏ anh lần nữa và vĩnh viễn để mặc anh giữa cuộc đời mênh mông này mà không có nàng bên cạnh.

Trong vòng năm năm qua, nàng đã bỏ ba người đàn ông, trong đó có anh. Nàng đã bỏ anh ở Mexico sáu tháng sau khi hai người gặp nhau, giữa lúc cả hai đang ngập tràn hạnh phúc điên rồ trong một căn phòng ở Colonia Anzures. Một sáng kia, sau một đêm hoan lạc ngông cuồng, lúc thức dậy anh không còn thấy nàng bên cạnh. Nàng đã để lại tất cả những gì mình có, kể cả chiếc nhẫn cưới của cuộc hôn nhân trước, cũng như một bức thư trong đó nàng nói là không thể sống được với những dằn vặt của cuộc tình phóng túng này. Saturno nghĩ là nàng trở về với người chồng đầu tiên, một bạn học cũ thời trung học nàng đã lén gia đình kết hôn khi còn vị thành niên, rồi bỏ rơi để đi theo  người khác sau hai năm chung sống không tình yêu. Nhưng không phải thế: nàng quay về nhà bố mẹ và Saturno đã tìm gặp để đem nàng về bằng bất cứ giá nào. Anh đã năn nỉ nàng đủ điều, đã thề hứa mọi thứ, nhưng vấp phải một sự quyết đoán không lay chuyển. Nàng bảo anh : “ Có những tình yêu lâu bền, những cuộc tình khác thì không.”, rồi kết luận tàn nhẫn: cuộc tình này không thể bền chặt được! “ Anh đành đầu hàng tính không khoan nhượng của nàng. Ấy vậy mà, trong buổi sớm mai của ngày lễ Các Thánh, khi anh trở về căn phòng đơn côi của mình sau một năm cố tìm quên lãng, anh lại thấy nàng nằm ngủ trên chiếc ghế nơi phòng khách với vòng vương miện hoa cam trên đầu và tà áo cưới dài thậm thượt của những cô dâu trinh trắng.

Maria kể anh nghe sự thật. Vị hôn phu mới của nàng, một người goá vợ không con, có vị trí tốt, tuyên bố sẵn sàng tổ chức kết hôn ở nhà thờ, nhưng lại bỏ nàng lẻ loi trong bộ áo cưới trắng đứng chờ trước bàn thờ làm lễ. Bố mẹ nàng quyết định cứ tiến hành cuộc lễ và nàng cũng diễn trò, nhảy múa, ca hát, uống rượu thật nhiều trong tâm trạng hối hận đau xót muộn màng, rồi đến nửa đêm bỏ đi tìm Saturno. 

Anh không có nhà nhưng nàng cũng tìm được chìa khoá nơi chậu hoa ở hành lang, chỗ  họ thường cất giấu. Lần này, chính nàng là người đầu hàng vô điều kiện: “ Rồi sẽ kéo dài bao lâu đây? “ , anh hỏi nàng. Thay lời đáp, nàng đọc câu thơ của Vinicius de Moraes: “Bao lâu ta vẫn chung tình,
Cuộc tình đôi lứa sẽ thành thiên thu.”
Hai năm sau, tình yêu hai người vẫn mặn nồng.

Maria ngày càng chín chắn hơn. Nàng khước từ giấc mộng thành diễn viên và phục tùng anh trọn vẹn, trên giường ngủ cũng như trong công việc. Cuối năm ngoái, họ đã tham dự đại hội ảo thuật gia ở Perpignan và lúc về ghé qua Barcelone. Họ rất thích thành phố này, sống ở đó tám tháng, kiếm đủ tiền để mua một căn hộ trong khu vực mang đầy tính cách xứ catalan của quận Horta. Căn hộ ở nơi ồn ào, không có người giúp việc nhưng khá rộng đủ chỗ cho năm đứa trẻ. Họ sống hạnh phúc nơi này, cho đến cái ngày cuối tuần nàng thuê chiếc xe để lái về Saragosse thăm gia đình, hứa là sẽ quay lại vào bảy giờ tối thứ hai. Đến rạng sáng ngày thứ năm, nàng vẫn bặt vô âm tín.

***

Ngày thứ hai sau đó, hãng bảo hiểm chiếc xe được Maria thuê gọi điện thoại đến hỏi tin tức về nàng. “ Tôi không hay biết gì hết, Saturno nói. Hãy tìm cô ấy ở Saragosse.” Rồi anh gác máy. Một tuần sau, một nhân viên cảnh sát mặc thường phục đến nhà và cho biết chiếc xe được tìm thấy chỉ còn khung sườn trên con đường mòn không xa Cadix, cách nơi Maria bỏ lại nó chín trăm cây số. Viên cảnh sát muốn hỏi xem nàng có thể cung cấp chi tiết về vụ trộm này không. Saturno đang bận cho mèo ăn, anh chẳng buồn nhìn lên mà đáp thẳng thừng rằng đừng mất thì giờ vô ích, vợ anh đã bỏ anh đi và anh hiện không rõ cô ấy đi với ai, hay đi đâu. Anh nói quả quyết đến mức viên cảnh sát cảm thấy lúng túng và ngỏ lời xin lỗi. Vụ việc được xếp lại.

Nỗi lo sợ có thể Maria lại bỏ rơi anh lần nữa cứ ám ảnh Saturno vào dịp lễ Phục sinh, ở Cadaqués, nơi Rosa Régas đã mời hai người đến chơi thuyền buồm. Trong quán Maritim, một quán rượu ồn ào dơ bẩn, nơi lui tới của “ phái tả thiêng liêng “ trong buổi xế chiều của chế độ độc tài Franco, chúng tôi gồm hai mươi người ngồi chen chúc nơi chiếc bàn sắt chỉ đủ chỗ cho sáu người. Sau khi hút sạch gói thuốc thứ hai trong ngày, Maria hết diêm quẹt. Một cánh tay khẳng khiu, rắn rỏi, mang vòng đồng kiểu La Mã, vẹt lối qua đám đông ồn ào đến mồi lửa cho nàng. Nàng nói cảm ơn mà không thèm nhìn, nhưng Saturno, ảo thuật gia thấy hắn ta. Đấy là một gã thiếu niên xương xẩu, nhẵn nhụi, xanh mét, bím tóc đen đuôi ngựa buông thả xuống đến ngực. Các cánh cửa của quán rượu cố che chắn ngọn gió bấc mùa xuân, hắn chỉ mặc bộ đồ ngủ vải thô và mang guốc của nông dân. 

Họ chỉ gặp lại gã đó vào cuối mùa thu trong một tiệm ăn hải sản ở Barcelone, hắn vẫn mặc áo khoác bằng sợi bông thô, tóc bện dài thay cho bím đuôi ngựa. Hắn chào cả hai người như thể là bạn cố tri, và cái cách hắn ôm hôn Maria và cách nàng hôn đáp trả khiến Saturno điếng người, tin rằng thế nào họ cũng đã gặp nhau mà anh không hề hay biết. Vài hôm sau, anh tình cờ nhìn thấy một cái tên lạ và số điện thoại do tay Maria ghi trong sổ điện thoại, và sự sáng suốt nghiệt ngã của lòng ghen tuông đã cho anh thấy người đó là ai. Lai lịch của kẻ tiếm vị là đòn quyết định: hai mươi hai tuổi, con trai duy nhất một gia đình giàu có, hoạ sĩ trang trí cho những của hàng thời trang, nổi danh là dân lưỡng tính, mọi người đều biết rõ trong giới trai bao của những phụ nữ có chồng. Tuy vậy, Saturno vẫn kềm chế cho đến một tối Maria không về nhà. Rồi anh bắt đầu gọi điện thoại cho gã trai trẻ kia, gọi mỗi ngày, hai, ba tiếng một lần, từ sáu giờ sáng cho đến rạng sáng hôm sau, sau đó bất cứ lúc nào ở gần điện thoại là anh gọi. Không ai trả lời lại càng khiến anh đau đớn dằn vặt hơn.

Ngày thứ tư, một bà người Andalouse trả lời là bà chỉ đến đó làm việc nhà. “ Ông ấy đi rồi”, bà nói thêm, kiểu mơ hồ khiến anh càng điên tiết. Saturno không cưỡng lại sự cám dỗ muốn hỏi xem cô Maria có ở đó không.
“ Không có cô Maria nào ở đây cả, ông ạ, bà kia trả lời. Ông ấy độc thân.”
“ Tôi biết rồi, anh nói. Cô ấy không ở đó, nhưng thỉnh thoảng có đến, phải vậy không? “ 
Bà ta nổi cáu:
“ Mẹ kiếp. Ai ở đầu dây vậy?”
 Saturno gác máy. Sự không thoải mái của bà đó có vẻ củng cố thêm lòng nghi ngờ của anh nay là sự xác tín dứt khoát. Những ngày tiếp theo anh gọi cho tất cả những người quen ở Barcelone, lần lượt theo thứ tự A B C trong danh bạ. Không ai cho anh thông tin nào, nhưng mỗi cuộc điện thoại chỉ làm nỗi đau khổ của anh thêm trầm trọng bởi vì sự ghen tuông điên loạn của anh đã nổi tiếng trong đám thức đêm xấu nết của “ phái tả thiêng liêng “, bọn chúng đáp lời anh bằng mọi lời trêu chọc chỉ để làm anh khổ sở. Lúc này anh mới thấy mình cô đơn biết nhường nào trong thành phố xinh đẹp, bốc đồng và khó hiểu này, ở đây anh sẽ chẳng còn tìm lại được hạnh phúc. Đến rạng sáng, anh cho mèo ăn, dằn lòng tránh ý định tìm cái chết và cố quên Maria.

***

Hai tháng sau, Maria vẫn chưa thích ứng được với cuộc sống ở bệnh viện tâm thần. Nàng sống sót nhờ cố nhấm nháp phần ăn đựng trong khay gắn chặt với chiếc bàn to bằng gỗ thô, mắt nhìn chăm chú vào phiến đá khắc hình tướng Franco đang trùm lên phòng ăn u ám kiểu Trung cổ. Ban đầu, nàng từ chối tham dự những giờ khắc tôn giáo theo cái thông lệ vô hồn, kinh sáng, kinh trưa, kinh chiều, cũng như các lễ khác chiếm hầu hết thời gian. Nàng khước từ chơi bóng trong sân, không chịu làm hoa giả nơi xưởng thủ công, trong khi một nhóm người ẩn cư khác thích thú nhiệt tình. Nhưng đến tuần lễ thứ ba, nàng bắt đầu làm quen với đời sống nơi nhà kín đó. Các bác sĩ nói, ban đầu ai cũng thế, cuối cùng  sớm hay muộn đều hoà nhập vào cộng đồng cả thôi.

Việc thiếu thuốc lá ban đầu nguôi ngoai nhờ có một quản giáo bán cho với giá đắt như vàng, rồi trở lại hành hạ nàng khi số tiền ít ỏi mang theo vơi dần. Nàng tự an ủi bằng cách hút những điếu thuốc quấn bằng giấy báo do những người nội trú khác tự chế ra bằng những mẩu thuốc lượm trong thùng rác. Nỗi ám ảnh thuốc lá đối với nàng cũng tệ hại như ám ảnh về chiếc điện thoại. Mấy đồng tiền lẻ nàng kiếm được bằng cách làm hoa giả cũng chỉ mang lại mấy phút thoải mái ngắn ngủi.

Điều đau khổ nhất là nỗi cô đơn lúc về đêm. Nhiều người cũng không ngủ được trong bóng tối lờ mờ như nàng, nhưng chẳng ai dám làm gì bởi luôn có những quản giáo canh chừng nơi cửa lớn khoá chặt và xích kỹ. Tuy thế, một đêm, buồn phiền quá mức, nàng lên tiếng hỏi, giọng hơi to để người nằm giường bên nghe được:
“ Chúng ta đang ở đâu đây? “
Người bên cạnh đáp, giọng trầm, tỉnh táo:
“ Dưới đáy địa ngục.”
“ Họ bảo đây là xứ của dân Maures “, giọng một người khác từ xa vang lên cả phòng ngủ. Điều đó có thể đúng, vì mùa hè, khi trăng tròn, người ta có thể nghe tiếng chó tru về hướng biển.”

Có tiếng xiềng xích chạm nhau nghe tiếng mỏ neo thuyền, cửa mở. Người gác cửa khắc nghiệt, sinh vật duy nhất còn có vẻ sinh động trong cõi im lặng bao trùm, bắt đầu đi từ  đầu này đến đầu kia phòng ngủ. Maria run rẩy: chỉ nàng biết tại sao.

Ngay tuần đầu tiên khi nàng vào dưỡng đường này, mụ quản giáo trực đêm đã trắng trợn đề nghị nàng đến ngủ với mụ trong phòng trực. Mụ ta đi thẳng vào vấn đề với phương pháp cụ thể đầy tính mua bán: đổi tình lấy thuốc lá, sô cô la, hay bất cứ thứ gì. Mụ hổn hển nói: “ Cô em sẽ có mọi thứ. Em sẽ là bà hoàng của ta.” Trước sự khước từ của Maria, mụ đổi chiến thuật, nhét những bức thư ngọt ngào dưới gối nàng, trong áo nàng, ở cả những nơi bất ngờ nhất. Thư khẩn cầu thiết tha có thể làm xiêu lòng cả sỏi đá. Cái đêm xảy ra biến cố nơi phòng ngủ, cách đây hơn một tháng, nàng hầu như chấp nhận đầu hàng.

Khi biết chắc là những người cùng phòng đã ngủ say, mụ quản giáo đã tiến đến gần giường của Maria, thì thầm vào tai nàng mọi lời khiêu dâm êm ái, trong khi hôn vào mặt nàng, cổ nàng tê cứng vì kinh hoàng, tay nàng co quắp lại, chân nàng rã rời. Sau đó, cho là Maria tê liệt không phải vì sợ mà đó là sự thoả thuận kín đáo, mụ cố làm tới. Maria lật tay đánh mụ ta bật sang giường bên cạnh. Mụ quản giáo giận dữ ngồi dậy giữa đám đông nhốn nháo những người cùng phòng hoảng loạn.
“ Đồ chó cái, mụ gào lên. Mày với tao sẽ mục rữa trong cái ổ bẩn thỉu này cho đến lúc mày phát điên lên vì tao.”

 Mùa hè đến đột ngột không báo trước vào ngày chủ nhật đầu tiên của tháng sáu, nhiều biện pháp khẩn cấp được áp dụng vì những người ở trong bệnh viện tâm thần ngột ngạt cởi bỏ các áo choàng vải ngay giữa buổi lễ. Maria vui vẻ chứng kiến cảnh các người bệnh này chổng mông bị đám quản giáo rượt đuổi trong gian giữa và các phía hai bên. Trong đám lộn xộn đó, nàng cố tự bảo vệ khỏi những cú đánh vô tội vạ, rồi chẳng biết do đâu nàng bỗng thấy một mình nơi một văn phòng bỏ trống có tiếng chuông điện thoại reo liên tục. Maria nhấc máy không cần cảnh giác và nghe thấy một giọng nói vui vẻ từ xa có vẻ nhại tiếng đồng hồ báo giờ:
“ Bây giờ là bốn mươi lăm giờ, chín mươi hai phút và một trăm lẻ bảy giây.”
“ Nhảm nhí”, Maria nói.

Nàng mỉm cười gác lại máy. Trước khi rời căn phòng, nàng chợt nhận ra mình đã bỏ lỡ cơ hội hiếm có. Nàng quay sáu chữ số, lo lắng, vội vàng đến độ không chắc là mình bấm đúng số. Nàng chờ đợi, tim đập thình thịch, nghe âm thanh khao khát, buồn bã của tiếng chuông đổ quen thuộc, một hồi, hai hồi, ba hồi, và cuối cùng là giọng nói của người nàng yêu thương trong căn nhà của nàng nay vắng nàng.
“ Allô? “ 
Nàng phải chờ vài phút cho ngấn nước mắt nơi cổ họng tan đi mới lên tiếng:
“ Anh ơi, anh yêu dấu ơi”, nàng thở dài.
Nàng thổn thức. Ở đầu dây bên kia, một thoáng im lặng bàng hoàng rồi một giọng nói cháy bỏng vì ghen tuông vọt ra thành lời:
“ Đồ đĩ thoả!”
Và anh gác máy.

Cùng tối hôm đó, trong cơn mê sảng cuồng loạn, Maria giật tấm bảng đá khắc hình tướng Franco ra khỏi tường, cố hết sức ném mình vào cửa kính nơi khu vườn, ngã xuống, bê bết máu. Nàng vẫn còn nổi giận chống chọi những người bảo vệ cố khống chế nàng, nhưng không thành công, cho đến khi nhìn thấy mụ Herculina đứng nơi khung cửa, tay khoanh lại, nhìn nàng trừng trừng. Maria buông vũ khí. Mặc dù vậy, bọn họ vẫn kéo nàng đến khu dành cho bệnh nhân nguy hiểm, quật ngã nàng bằng một vòi nước lạnh giá và chích vào chân nàng một mũi thuốc tê. Chân bị sưng nặng khiến nàng không bước đi được, Maria nhận thức rằng giờ này không có gì mà nàng không dám làm để thoát khỏi cảnh địa ngục này. Tuần kế tiếp, khi trở về phòng ngủ, nàng rón rén đến gõ cửa phòng mụ quản giáo trực đêm.

Maria đưa trước cái giá là mụ quản giáo phải đưa tin cho chồng nàng. Mụ ta đồng ý, với điều kiện là chuyện trao đổi này phải được giữ kín. Mụ chỉ thẳng tay vào mặt nàng:
“ Nếu có ai biết chuyện này, mày sẽ chết.”

Nhờ như vậy mà ngày thứ bảy sau đó ảo thuật gia Saturno lái chiếc xe làm xiếc đến chỗ bệnh viện tâm thần sửa soạn ăn mừng đón Maria trở về. Đích thân giám đốc bệnh viện đón anh nơi văn phòng, một nơi sạch sẽ, ngăn nắp như một tàu chiến, và đưa cho anh bản tường trình đầy tình cảm về tình trạng sức khoẻ của vợ anh. Không ai biết được nàng đã từ đâu đến, bằng cách nào và lúc nào bởi vì thông tin đầu tiên liên quan đến việc nàng đến ở nơi đây  là giấy nhập viện chính thức trong sổ sách mà chính ông đã đọc cho người khác ghi sau khi thăm khám nàng. Một cuộc thẩm tra ngay trong ngày hôm đó cũng không đưa đến đâu. Dù sao, điều làm cho ông giám đốc thắc mắc là làm sao Saturno biết được vợ mình đang ở đâu. Saturno cố bảo vệ cho bà quản giáo.
“ Công ty bảo hiểm chiếc xe cho tôi biết “ , anh nói.
Ông giám đốc hài lòng nói: 
“ Tôi không hiểu mấy hãng bảo hiểm làm sao mà chuyện gì cũng biết.”
Ông liếc nhìn qua tập hồ sơ trên bàn làm việc và kết luận:
“  Điều chắc chắn là tình trạng cô ấy rất trầm trọng.”
Ông sẵn sàng chấp thuận, với tất cả thận trọng cần thiết, cho anh được thăm viếng nàng với điều kiện là ảo thuật gia Saturno hứa, vì lợi ích của vợ mình, sẽ tuân thủ cách ứng xử mà ông sẽ báo cho anh. Nhất là cách đối xử với nàng để tránh cho nàng những cơn cuồng nộ điên cuồng ngày càng thường xuyên và nguy hiểm hơn.

“ Thật kỳ lạ, Saturno nói. Đúng là cô ta dễ nổi nóng nhưng cô biết kềm chế mà.”

Vị bác sĩ làm một động tác thông thái: “ Có những lối cư xử vẫn tiềm tàng trong nhiều năm, và rồi bất chợt bùng nổ lên một lúc nào đó.” May mắn là cô ấy đã đặt chân đến đây, bởi vì chúng tôi chuyên trị những ca đòi hỏi sự điều trị cứng rắn.” Để kết thúc, ông nêu nhận xét về chuyện Maria luôn ám ảnh kỳ lạ về chiếc điện thoại.

“ Anh nhớ canh chừng cô ấy cẩn thận, “ ông nói.
“ Bác sĩ đừng lo, Saturno vui vẻ trả lời. Việc này thì tôi rành lắm. “

Phòng thăm viếng, kiểu nửa nhà tù nửa nhà nguyện, trước kia là của tu viện cũ. Việc Saturno vào đến đây không gây ra một sự bùng nổ niềm vui mà cả hai trông đợi. Maria đang đứng giữa phòng, cạnh chiếc bàn nhỏ với hai ghế và một lọ hoa trống rỗng không cắm hoa. Với chiếc áo khoác tơi tả màu dâu và đôi giày bẩn thỉu ai đó thương tình cho nàng, rõ ràng là nàng đang chờ đợi ra đi. Nơi góc tường. Herculina đang đứng khoanh tay, gần như vô hình. Maria vẫn bất động khi thấy chồng đi vào, thêm nữa, khuôn mặt còn vết sẹo của mảnh kính khiến nàng chẳng lộ vẻ cảm xúc. Họ hôn nhau, nụ hôn theo thói quen.
“ Em thấy sao? “, anh hỏi nàng.
“ Em rất vui vì rốt cuộc anh đã đến, anh yêu ạ. Ở đây, là chết chóc.”
Họ không kịp ngồi xuống. Nghẹn ngào trong nước mắt, Maria kể cho anh nghe những khổ nhọc của cảnh giam giữ, sự dã man của các quản giáo, thức ăn ghê tởm, những đêm dài vô tận với nỗi kinh hoàng khiến nàng không chợp mắt được.
“ Em không biết đã ở đây bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm, nhưng mỗi ngày luôn tồi tệ hơn hôm trước. Và, hắt tiếng thở dài với cõi lòng tan nát, nàng nói thêm, em tưởng em sẽ không còn là mình nữa.”
“ Mọi chuyện qua rồi, anh bảo nàng, ngón tay vuốt nhẹ những vết sẹo mới trên gương mặt nàng. Mỗi thứ bảy anh lại sẽ đến. Thường xuyên hơn cũng được nếu giám đốc cho phép. Em thấy đó, mọi việc sẽ tốt đẹp dần thôi.”

Nàng  đưa đôi mắt kinh hoàng chăm chú nhìn thẳng vào mắt anh. Saturno cố vận dụng tài năng của ảo thuật gia. Bằng một giọng trẻ thơ của lời nói dối, anh nói lại, nhẹ nhàng hơn, những dự đoán của vị bác sĩ. “ Tóm lại là vài hôm nữa em sẽ hoàn toàn bình phục. “. 
Maria hiểu hết mọi chuyện.

“ Lạy Chúa, nàng kinh hoàng thốt lên. Bộ anh cũng nghĩ là em điên sao? “
“ Sao em lại nghĩ đến điều đó, anh nói, cười gượng. Nhưng sẽ tốt hơn cho mọi người nếu em ở lại đây ít lâu nữa. Tất nhiên là trong những điều kiện tốt hơn.”
“ Nhưng em đã nói với anh là em đến đây chỉ để gọi điện thoại thôi mà, ” Maria nói.

Anh không biết phản ứng thế nào nỗi ám ảnh kinh hoàng của nàng. Anh nhìn mụ Herculina. Nhân tiện mụ ta chỉ đồng hồ ra dấu giờ thăm viếng đã hết. Maria thoáng thấy dấu hiệu, trừng mắt nhìn, mụ ta có vẻ sẵn sàng tấn công. Lúc đó, nàng bá cổ chồng, hét lên như một người điên thực sự. Anh tìm cách tránh ra, với tất cả yêu thương sẵn có, và để mặc nàng cho mụ Herculina đang nhảy xổ túm lấy nàng từ sau lưng. Không để nàng có thì giờ chống cự, mụ tát mạnh bằng tay trái, rồi kẹp cổ nàng trong đôi tay rắn như thép và hướng về ảo thuật gia Saturno mụ thét lớn:
“ Cút đi! “


Saturno hoảng hốt bỏ chạy.
Tuy nhiên, thứ bảy sau đó, hoàn hồn từ cú sốc của cuộc viếng thăm đầu tiên, anh vẫn đến bệnh viện tâm thần, mang theo con mèo được cho mặc trang phục giống anh: bộ quần áo chẽn đỏ vàng kiểu ảo thuật gia vĩ đại Leotardo, mũ nhọn, và áo khoác phồng lên như để bay. Anh đỗ chiếc xe làm xiếc nơi sân nhà tu và thực hiện buổi diễn tuyệt vời suốt ba tiếng đồng hồ, các bệnh nhân tâm thần, từ trên ban công, hào hứng xem với những tiếng hò hét
rộn rã và tràng vỗ tay cổ vũ không đúng lúc. Tất cả họ đều ra xem, chỉ trừ Maria không chịu tiếp chồng, thậm chí không ra ban công xem anh diễn. Điều đó đối với Saturno là nỗi đau xé lòng.
“ Đó là một phản ứng thông thường, bác sĩ giám đốc nói. Mọi chuyện sẽ qua thôi.”

Nhưng không qua được. Sau nhiều nỗ lực bất thành để gặp lại nàng, Saturno cố tìm cách để nàng chịu nhận một bức thư, vậy mà vẫn không được. Nàng không thèm mở ra và trả lại thư cả bốn lần, cũng không nói gì thêm. Saturno đầu hàng, nhưng vẫn tiếp tục gởi thuốc lá đến phòng trực bệnh viện, chẳng cần biết chúng có đến tay nàng không, cho đến khi thực tế đã khiến anh gục ngã.

Rồi, không ai có tin tức gì về anh nữa, chỉ biết anh đã lấy vợ khác và về quê sinh sống. Trước khi giã từ Barcelone, anh đã đem con mèo đói lả gởi cho một bạn gái, cô này hứa sẽ tiếp tục mua thuốc lá gởi cho Maria. Nhưng rồi chính cô ta cũng biến mất. 
Rosa Regas nhớ là đã gặp cô ấy ở cửa hàng Corte Ingles khoảng mười hai năm trước, cô  ta mặc áo choàng màu cam theo kiểu một giáo phái phương Đông nào đó, cạo trọc đầu, che mặt chỉ còn đôi mắt. Cô ta cho Rosa biết cô vẫn gởi thuốc lá đến cho Maria chừng nào còn có thể, và đến thăm hai, ba lần cần kíp đột xuất, cho đến khi cô chỉ nhìn thấy đống đổ nát, bệnh viện đã bị phá huỷ, chỉ còn là chứng tích bi thảm của một thời kỳ đau thương. Lần đến thăm sau cùng, cô thấy Maria rất tỉnh táo, có lẽ hơi mập ra và hài lòng với cuộc sống yên bình nơi nhà tu kín. Lần đó cô ta mang con mèo theo vì cô đã tiêu hết số tiền Saturno đã đưa cho cô để mua thức ăn cho mèo.
Tháng 4, 1978.




THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
( 1/2019)

theo bản tiếng Pháp của Annie Morvan
( Trong cuốn Douze Contes vagabonds,
trang 66-81. NXB Grasset, 1995. )


mercredi 13 février 2019

TỪ DE PÈRE INCONNU ĐẾN CHA VÔ DANH




            

1. CHA VÔ DANH.


Nhan đề phụ là “ Chuyện kể cuộc đời một người Việt lai Pháp “, từ lúc mới sinh ra ( 1944) cho đến lúc tác giả hoàn thành tác phẩm ( 2018 ). Tất nhiên, cuộc đời một người gắn liền với thời đại và nơi chốn anh ta sống, liên quan đến thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp, láng giềng... , tất cả những người quen biết cùng sống với anh ta. Tuy thời gian kéo dài như thế, với số lượng nhân vật đông đảo như thế, tác giả vẫn lôi cuốn người đọc bằng sự chọn lọc tinh tế những chi tiết được kể, bằng giọng văn nhẹ nhàng, giản dị mà không kém trau chuốt, bóng bẩy. Kể chuyện đời mình, tác giả không theo trình tự thời gian, lớp lang sau trước, mà theo dòng cảm xúc dẫn dắt người đọc từ một việc gần đây bỗng thụt lùi hai ba chục năm trước hoặc ngược lại. Kể chuyện đời mình, ít nhiều tác phẩm có tính chất một tự truyện, nhưng người đọc nhiều lứa tuổi, trình độ hiểu biết và nền tảng văn hoá khác nhau vẫn hào hứng theo dõi khi tác giả công bố dần dà ( theo nhịp độ viết ) trên facebook và blog cá nhân, mỗi lần một đoạn theo kiểu viết feuilleton. Và hẳn ai cũng mong thấy tác phẩm được xuất bản để có thể đọc liền mạch, khỏi thấp thỏm chờ đợi.   
Cuối năm 2018, tôi may mắn được đọc “ bản in thử “, hơn 400 trang trên cỡ giấy A4. Không đủ thời gian và trình độ để viết một review đầy đủ, tôi xin ghi lại đây đôi điều cảm nghĩ từ một người đọc trân trọng công sức và tài năng người viết.

Điều đáng nói đầu tiên là bất cứ ai đọc tác phẩm sẽ không khỏi ngạc nhiên và thán phục trước trí nhớ phi thường của tác giả: anh nhớ và kể lại tường tận tất cả những gì xảy ra từ thời đi học, tiểu học và trung học, tại Hà Nội và Đà Lạt, với đầy đủ thầy và bạn, chuyện học hành, vui chơi, giải trí. Sau đó là chuyện tốt nghiệp đại học, công việc làm, những biến cố của cuộc đời đi kèm biến cố lịch sử đất nước từ năm 1975, chuyện đi định cư ở Pháp rồi những chuyến về lại quê hương từ hơn hai mươi năm nay. Trí nhớ đó được sự trợ giúp hữu hiệu của hình ảnh và ghi chép mà không hiểu sao anh lưu giữ tài tình đến thế. ( Chỉ tiếc là ba tập vở học trò anh ghi chép tháng ngày “ học tập cải tạo “ đã bị thất lạc dù đã được gởi sang Pháp - nếu không sẽ là những trang viết quý giá.).

Đấy là những chuyện liên quan trực tiếp đến chính anh, còn chuyện của các nhân vật khác, có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của anh thì anh dùng thủ thuật “ chuyện kể của nhân vật “ để ghi nhận sự kiện. Có ba nhân vật chính đã kể chuyện kiểu này: người mẹ, bà ngoại và người cha dượng. Anh đã viết về bà mẹ qua các đoạn 2 ( Cô gái mồ côi hận đời - 1934 ), đoạn 3 ( Phải chăng là bốc đồng - 1943 ), nhảy qua vài đoạn để trở lại với đoạn 11 và 13. Qua chuyện kể của bà mẹ, anh đã dựng lại những chi tiết cặn kẽ về cuộc đời đấy sóng gió và gian truân của người thân yêu nhất của anh. Đọc những trang này, người đọc có thể thấy rằng ngoài lời kể chuyện của nhân vật, thấp thoáng có sự can thiệp của tác giả, tức là sử dụng thủ pháp “ nhân vật - người kể chuyện “, personnage - narrateur, xen kẽ với “ tác giả - người kể chuyện “ , auteur - narrateur . Điều này rõ ràng hơn với “ chuyện kể của cha dượng “, suốt những đoạn 8, 9 và 10. Kể chuyện gia đình vào những năm chiến tranh ( từ 1945 ), rồi chuyện tản cư, hồi cư, anh say sưa nói rất dài 
( về đảo chính Nhật, cách mạng tháng tám, các đảng phái chính trị, các nhân vật lịch sử  Bảo Đại, Hồ Chí Minh )...

Tất nhiên tôi hiểu thiện ý của anh muốn lồng câu chuyện đời mình trong bối cảnh lịch sử, giúp người đọc hiểu thêm về một giai đoạn cần được tìm hiểu và giải thích từ nhiều góc nhìn khác nhau. Nhưng nói nhiều như thế làm cho ý nghĩa của chuyện kể của cha dượng giảm bớt phần đáng tin ( vraisemblable ). Giá mà anh lược bớt đi, để dành phần lớn chi tiết cho phần Ghi chú ở cuối sách!  

Phần này, anh ghi là Chú thích, thực chất là những ghi chú lịch sử, địa lý và văn hoá. Trong bản in thử, anh đã dành ra 33 trang chữ nhỏ để viết đến 149 ghi chú, giải thích nhiều vấn đề khác nhau về ba lĩnh vực nói trên, căn cứ vào những tư liệu, chứng cứ và tham khảo phong phú từ nhiều nguồn đáng tin cậy, đặc biệt là những nguồn khó tiếp cận, mà bằng kinh nghiệm của một người từng làm công tác nghiên cứu để viết luận án muốn chia sẻ với độc giả. Ghi chú liên quan đến địa lý, giải thích các địa danh nổi tiếng và chưa nổi tiếng, Hà Đông, Hà Nội, Lạng Sơn, Ban Mê Thuột, Đèo Cả, Sông Gianh, Bà Điểm... Ghi chú về lịch sử phong phú hơn và đầy bất ngờ, từ các nhân vật lớn ( Bảo Đại, Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Vua Thành Thái, Trương Vĩnh Ký , Yersin, Alexandre de Rhodes, Kennedy, Nguyễn Văn Thiệu...) đến các sự kiện quan trọng ( về thời Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hoà, các cuộc đảo chính, phong trào đấu tranh đô thị, hiệp định Paris, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam... ) và bao nhiêu việc lớn nhỏ khác. Ghi chú về văn hoá, các danh nhân, nhạc sĩ, các ca khúc, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ... ). Thật lạ lùng, không thiếu một thứ gì, bằng những lời giải thích ngắn gọn, súc tích, đủ để thoả mãn sự tò mò muốn tìm hiểu của người đọc.
Phần chú thích này có thể được đọc độc lập, tách khỏi cuốn truyện, mà không hề nhàm chán.

Tách phần chú thích ra, để dành thời gian mà đọc chính tác phẩm 74 đoạn, không theo kiểu đọc ngấu nghiến, mà thong thả nghiền ngẫm từng đoạn một, để thưởng thức, hồi hộp, ngạc nhiên, bật cười rồi lắng đọng, chìm trong tận cùng cảm xúc qua phận người lận đận, vận nước nổi trôi, tất cả qua ngọn bút tài hoa của người dược sĩ, thầy giáo, nhạc sĩ, ca sĩ “ thấm nhuần hai nền văn hoá Việt - Pháp.”

74 đoạn này có thể có thêm một nhan đề phụ nữa là : Chuyện kể cuộc truy tìm tung tích người “ cha vô danh “, công việc mà nhân vật chính, cũng là tác giả, đã thực hiện từ lúc ông mới đặt chân sang đất Pháp, có lúc gián đoạn, rồi lại tiếp tục và kết thúc trong tuyệt vọng khi ông nhận được câu trả lời của cơ quan lịch sử quân đội Pháp là không thể tìm ra hồ sơ cá nhân của người ông muốn tìm ( tháng 11/2008 ). Cuối cùng, tác giả phải ngậm ngùi thốt lên: “ Cha tôi không muốn cho tôi biết ông là ai, ông muốn tiếp tục là người cha vô danh.” ( kết thúc đoạn 74 ). 

Lẽ nào điều đó lại xảy đến với một người nặng tình quê hương, thiết tha gắn bó với gia đình, một người xa quê lâu năm lúc có dịp trở về là làm ngay các cuộc “ hành hương “ về với kỷ niệm, nơi sinh ra, nơi sống những ngày tuổi thơ xa lơ xa lắc? 
Nếu đây là một tác phẩm hư cấu, độc giả mong muốn có một happy ending, một cái kết có hậu hơn. Còn nếu đây là chuyện kể “ về những người có thật đã sống trên đất nước Việt Nam “ thì độc giả lại càng mong muốn công sức của người truy tìm phải được đền đáp, sự thiệt thòi mất mát của người có lòng phải được bù đắp. Cho hợp lẽ trời, cho thuận lòng người!

Đọc hết 74 đoạn, độc giả tưởng chừng sẽ gấp sách lại với tâm trạng ngậm ngùi như chính tác giả với câu cảm thán nhắc đến bên trên.

Nhưng mà KHÔNG! 
Tiếp theo sau đó còn có mấy trang nữa, tác giả không ghi đoạn 75 mà là LỜI CUỐI. Và đây là bất ngờ thú vị không hề chờ đợi, không thể tưởng tượng nổi dành cho mọi người. Đến lúc hầu như không còn chút hy vọng gì và đành chấp nhận bỏ cuộc thì anh được người có trách nhiệm ở kho lưu trữ, sau khi tìm kiếm, chính thức báo tin “ Tôi tìm ra hồ sơ cá nhân của cha ông rồi.” Đây là thông tin chính xác tuyệt đối, nhờ đó anh đã lần theo dấu vết người cha, tìm ra lai lịch, quê hương, gia đình, và nhờ những hình ảnh, kỷ vật gia đình lưu giữ, anh đã dựng lại tiểu sử người thân của mình, đã tìm gặp gia đình, chú bác, anh chị em họ. Và thuyết phục hơn hết thảy là anh đã công bố ảnh của người cha lúc 25 tuổi và ảnh chính tác giả tức là người con, lúc 24 tuổi. Cùng một khuôn mặt, mũi miệng mắt trán giống hệt nhau! 

Đoạn “ lời cuối “ này là những trang viết cảm động nhất, gây ấn tượng mạnh nơi người đọc. 
Sở dĩ câu chuyện chuyển hướng bất ngờ thế này là do việc anh trở lại lâu đài Vincennes, tức là văn khố của quân đội Pháp, cốt để tặng thư viện ở đây cuốn sách anh mới xuất bản, bởi nhiều người làm việc ở văn khố đã từng giúp đỡ anh nhiệt tình và chu đáo trong suốt bao nhiêu năm tìm kiếm. Lần này thì anh được toại nguyện. ( Sự việc xảy ra vào tháng 4/2015, hai tháng sau khi xuất bản cuốn sách ).

Cuốn sách nói đến đây là DE PÈRE INCONNU, do chính anh viết bằng tiếng Pháp, được nhà xuất bản L’ Harmattan công bố vào tháng 2/2015. 
CHA VÔ DANH chính là phiên bản tiếng Việt,  “ không phải là bản dịch từ tiếng Pháp, mà là cuốn sách viết bằng tiếng Việt bởi một người Việt cho người Việt đọc”. 


2. DE PÈRE INCONNU
Chuyện kể về đất nước Việt Nam nửa sau thế kỷ XX.

Cuốn sách tiếng Pháp ra đời trước có nhan đề phụ như trên, tức là khác với phiên bản tiếng Việt, đơn giản vì đối tượng nhắm đến hoàn toàn khác ( thế hệ trẻ người Việt sống ngoài nước, giúp họ hiểu thêm quê hương của tổ tiên mình ). 
Vẫn là câu chuyện truy tìm tung tích người cha vô danh ( À la recherche du père inconnu ) được tác giả thuật lại trong bốn phần, anh gọi là hồi ( acte ), hồi 1 ngay đầu sách, ba hồi còn lại dồn hết vào phần cuối. Còn lại là những chuyện kể, được trình bày như những chương ( chapitre ) tương đối ngắn, có thể đọc riêng rẽ. 

Cũng do đối tượng độc giả được xác định như thế nên trong 500 trang của cuốn sách, tác giả luôn lưu tâm nhắc đến, giải thích, có khi bình luận, những vấn đề về văn hoá Việt Nam, bên cạnh những sự kiện lịch sử tất nhiên không thể thiếu. Anh nói về truyền thống dân tộc, việc thờ cúng tổ tiên, tình cảm gia đình, quan hệ láng giềng, làng mạc... Rất thú vị khi đọc về Tết cổ truyền, bánh chưng, bánh tét, các loại mứt ( trang 168, 169 ), thậm chí cả rau muống luộc ( t 122 ), tiết canh vịt ( t 123 ). Rồi các quan niệm về hôn nhân, chuyện môn đăng hộ đối ( t 35 ), hôn nhân khác tôn giáo, các nghi thức hôn lễ ( t 36 ). Làm sao giải thích khái niệm “ làm dâu “ cho một bạn trẻ Pháp gốc Việt hiểu? Anh nói giản dị: “ Vivre avec la grande famille du mari pour la servir en tant que bru”.Thật tài tình mấy chữ “ pour la servir “ ! Anh không bỏ lỡ cơ hội để giải thích mọi chuyện lớn nhỏ, “ xe ôm “ chẳng hạn. Thật khó, phải không? Anh phải dịch, littéralement, “ véhicule où il faut enlacer “, “ véhicule où il faut serrer dans ses bras “. Vậy thôi, ( tôi đề nghị thêm vào moto-taxi ).

Ngay cả chuyện tình yêu, anh cũng nhìn bằng con mắt dân gian. Chương “ Peut-on résister au destin?” trang 209, ngoài chuyện học hành thi cử ở đại học là chuyện anh tình cờ gặp cô gái ở Saigon, khi anh đi dạy kèm về tình cờ đi ngang chỗ nàng tạm nghỉ trong lần từ Đà Lạt về chơi. Gặp rồi nói chuyện, nhận ra đã quen biết, thư từ qua lại sau đó, và bén duyên nhau. Trước đó nhiều năm, cả hai cùng sống ở thành phố hoa, có lúc là láng giềng khi cùng ở trên đường Graffeuil, nàng đã có lần đi xem anh đấu bóng chuyền, vậy mà chưa một lần gặp gỡ chuyện trò. Còn lần này thì tình cờ quá đỗi mà nên vợ nên chồng. Anh nói chỉ là “duyên số” thôi!

Những điều bên trên là dành cho bạn đọc ham hiểu biết, còn những người yêu văn chương lại có mối quan tâm khác. Và họ không khó khăn để nhận ra nét chủ đạo của ngòi bút PHẠM NGỌC LÂN. Kể chuyện nửa thế kỷ, đầy ắp sự kiện, ngồn ngộn biến cố, anh vẫn không quên cốt lõi tác phẩm là nhân vật chính anh nêu ngay trong nhan đề sách. Dấu ấn của nhà văn có tài là việc chọn lọc CHI TIẾT, tưởng là nhỏ nhặt, thoáng qua, nhưng thực ra là điểm mở nút thắt ( dénouement ) tài tình. 

Anh ra đời trong hoàn cảnh nào? Trong các chương “Récit d’une mère “, anh để bà mẹ thuật lại cuộc đời đầy sóng gió từ lúc mới sinh, nhắc đến ông bà ngoại, tuổi thơ vất vả, tình yêu dang dở, cuối cùng, qua sự giới thiệu của bạn, chấp nhận làm quen,  đồng ý kết hôn sau khi gia đình nhận lễ vật của một sĩ quan Pháp dù chỉ mới trao đổi thư từ, hình ảnh. Bằng một quyết định bất ngờ ( anh gọi là coup de tête ), bà một thân một mình tìm đến với chàng trai trên một hòn đảo nơi chưa hề nghe tên. Và cũng lạ lùng nữa, bà bỏ ra về chỉ sau mười bảy ngày sống chung ở đó. Không giải thích lý do. Và sau đó, không liên lạc, tin tức gì nữa. Kết thúc câu chuyện dài này là tiết lộ gọn lỏn: “ J’ étais enceinte .” ( Mẹ đã mang thai. )

Từ chi tiết mịt mù thân phận đó mới dẫn tới cuộc truy tìm tung tích người cha của nhân vật chính, với nhiều công sức, mất nhiều thời gian, gần ra manh mối rồi lại rơi vào ngõ cụt. Người đọc thắc mắc, lẽ nào ngoài cái tên của người cha ra, bà mẹ không để lại cho anh một chứng cứ gì khác sao? Mẹ đã kể là có viết thư, gởi ảnh cho nhau kia mà? Anh giải đáp thắc mắc này một cách khéo léo bằng một chi tiết trong đoạn “ chuyện kể của bà ngoại “. Đó là thời kỳ gia đình chuyển vào sống ở Saigon, gặp lúc chiến tranh, tối nào cũng bị máy bay ném bom. Cả nhà phải tìm chỗ ẩn nấp buổi tối. Bà ngoại tìm được chỗ nấp an toàn hơn, nhà một gia đình người Pháp. Cứ tối tối là chạy đến đó, không quên mang theo chiếc va-li nhỏ đựng giấy tờ và những thứ quý giá nhất. Một tối, nhà đó bị trộm, cả nhà ra về không kịp lấy chiếc va-li. Lúc trở lại định lấy mới biết cảnh binh thu hết để điều tra, bà sợ liên luỵ nên không dám lấy nữa.
“ C’est ainsi que ta mère perdit toute trace de ton père, car dans cette valise, il y avait toutes les lettres, les photos, les cadeaux... tout ce qu’elle avait de lui.” ( trang 50 ).
( Và như thết, mẹ con đã mất hết vết tích của ba con, vì trong chiếc va li đó là tất cả thư từ, hình ảnh, quà cáp... tất cả những gì mẹ lưu giữ của ba con. )

Cái cách sử dụng những chi tiết rất “ đắt “ như thế khiến ta liên tưởng đến một bậc thầy truyện ngắn của văn học Pháp là Guy de Maupassant.

Từ De père inconnu đến Cha vô danh, câu chuyện có những nét tương đồng, nhưng cách diễn đạt khác, cách khai thác đậm nhạt khác, tuỳ đối tượng độc giả, cho nên ban đầu tưởng là truyện tuy hai mà một, nhưng đọc kỹ, hoá ra tuy một mà hai. Và cả hai tác phẩm, tiếng Pháp và tiếng Việt, đều cho thấy tài năng một nhà văn đích thực. Tài năng đó, chủ yếu thể hiện ở tính sáng tạo. Không có sáng tạo, nội dung có phong phú đến đâu, văn phong có lưu loát đến đâu, cũng không đủ làm nên giá trị của tác phẩm.

3. BẢN PHÁC THẢO ĐẦU TIÊN.

Tôi không quá lời khi nhận định như thế: 

 Khoảng chục năm trước khi khởi công viết De père inconnu, Phạm Ngọc Lân đã gởi về cho thân hữu tin cậy nhất của mình bản thảo đầu tiên của tập truyện. Đây là bản đánh máy vỏn vẹn 40 trang, gồm các phần sau.

Mở đầu là “ Retrouvailles manquées.”
Kể chuyện nhân vật đi tìm tung tích cha lần đầu tiên khi đến lâu đài Vincennes, dẫn đến manh mối thứ nhất: tìm ra người trùng tên, anh đến thăm mộ nhưng vẫn hồ nghi có phải là cha mình đây không.

Sau phần này là các chuyện kể của bà mẹ, bà ngoại, cha dượng.
Récit d’une mère. Récit d’une grand-mère. Récit d’un beau-pėre.
Các chuyện kể này còn sơ sài chỉ ghi những nét chính.
Xen kẽ giữa những phần chuyện kể là các đoạn tường thuật những chuyến anh về Việt Nam, chia làm ba phần, anh gọi là Hành hương ( pèlerinages ). Đây là chuyến đi xuyên Việt anh thực hiện cùng vợ chồng cô em, qua Tây nguyên, ra miền Trung và đến tận Ninh Bình, Phát Diệm, ngoài Bắc. Phần 1 trọng tâm là thăm đảo Bình Ba, nơi mẹ anh gặp cha anh. Phần 2 là lúc về thăm quê ngoại Hà Hồi. Phần 3 nói riêng về Hà Nội và những thắng cảnh của thành phố này. Bản thảo kết thúc với chuyện kể anh tìm đến trường tiểu học Sainte- Marie , nơi lần đầu tiên anh đi học, và giờ này biến thành bệnh viện.

Tất cả chỉ có thế. 

Dựa vào đó, tác giả đã dụng công sửa chữa, bổ sung, phát triển rất nhiều, ngay từ những chi tiết nhỏ. Trong bản sơ thảo, bà mẹ kể chuyện tiết lộ thân phận của nhân vật khi anh 15 tuổi ( Tu avais 15 ans ), lúc viết chính thức, anh sửa lại 17. ( Tu avais dix-sept ans ).
Ban đầu, anh cũng do dự, chưa biết chọn nhan đề nào cho cuốn sách. 
Citoyen de nulle part?
Hay là L’homme aux quatre identités?
Cái titre sau hơi khó hiểu, chỉ biết được khi đọc tác phẩm chính thức, ở chương Les quatre identités, từ trang 137, đấy là anh nói chuyện mình thay tên đổi họ, thay đổi quốc tịch.
Đầu tiên là quốc tịch Pháp, tên họ Pháp, sau đó nhập tịch Việt Nam, tên họ Việt, có tên mẹ nhưng không có tên cha. Lần thứ ba, năm 1958, làm lại Chứng thư thay giấy khai sinh, lần này đổi họ theo họ cha dượng, và khai tên cha dượng. Cuối cùng, lúc đã sang Pháp lấy lại tên Pháp, quốc tịch Pháp. Bốn lần thay đổi, bốn identité khác nhau. Bản tiếng Việt ( Cha vô danh ) anh dịch identité là “ bản sắc “ ( đoạn 27, Bản sắc và giấy tờ ). Trong ngữ cảnh này, đây là một thuật ngữ pháp lý, theo định nghĩa của Larousse : “ personnalté civile d’un individu, légalement reconnue ou constatée “. Nghĩa này thấy dùng ở pièces d’identité, carte d’identité. Tôi thích dùng “ căn cước “ hơn.

Thế đó, từ bản phác thảo đơn giản, sơ sài đến tác phẩm hoàn chỉnh, phân thành chương hồi, ra mắt bạn đọc qua nhà xuất bản l’ Harmattan có uy tín. Mất đến 8 năm để hoàn thành cuốn sách, trong điều kiện vẫn làm việc, sinh hoạt bình thường, chẳng phải là thành quả của một nhà văn Việt, viết bằng ngôn ngữ Pháp, xứng đáng được phổ biến rộng rãi, mở đường cho phiên bản tiếng Việt, Cha vô danh, sắp xuất bản hay sao?



THÂN TRỌNG SƠN
Đà Lạt, 1/2019.