NHÀ VUA TRONG CHIẾC ÁO VÀNG
Robert W. Chambers
( 1865 - 1933 )
Robert William Chambers là một họa sĩ và nhà văn người Mỹ. Ông bắt đầu sự nghiệp với thể loại truyện “kỳ lạ” và kinh dị gothic, sau đó thử sức với tiểu thuyết lãng mạn và phiêu lưu trước khi quay trở lại với phong cách ban đầu của mình. Ông nổi tiếng nhất với tuyển tập truyện ngắn xuất sắc The King in Yellow (Vị Vua Vàng, 1895), một tập sách đã ảnh hưởng sâu sắc đến H.P. Lovecraft và nhiều nhà văn khác. Các truyện trong tập này chứa đựng những yếu tố kỳ ảo, siêu nhiên, khoa học viễn tưởng và kinh dị gothic.
Những người hâm mộ loạt phim True Detective của HBO hẳn sẽ nhớ đến các thuật ngữ “Carcosa” và “Vị vua vàng” được nhắc đi nhắc lại trong mùa đầu tiên. The King in Yellow của Chambers và An Inhabitant of Carcosa (Một cư dân của Carcosa) của Bierce chính là nguồn gốc ban đầu của những thuật ngữ đó.
Robert W. Chambers là một trong những tên tuổi tiên phong trong thể loại văn học “weird fiction” – hư cấu kỳ lạ – tiền thân của dòng kinh dị siêu nhiên hiện đại. Trong tập truyện The King in Yellow (1895), ông không chỉ sáng tạo nên một thế giới u ám với những yếu tố kinh dị, siêu thực, mà còn để lại những tầng sâu triết lý về nhận thức, nghệ thuật và sự sụp đổ của lý trí. Trung tâm của vũ trụ này là một vở kịch bí ẩn mang tên The King in Yellow, thứ mà bất kỳ ai đọc đến đều rơi vào trạng thái điên loạn.
Tác phẩm là sự kết hợp độc đáo giữa không khí gothic, chủ nghĩa siêu thực và nỗi ám ảnh về sự thật bị cấm kỵ. Qua việc phân tích hình tượng vở kịch The King in Yellow và ảnh hưởng của nó lên nhân vật, bài viết này sẽ chỉ ra rằng tác phẩm là một lời cảnh báo về bi kịch của tri thức vượt quá giới hạn con người – một tri thức làm sụp đổ mọi nền tảng của lý trí và thực tại.
Vở kịch “The King in Yellow” không bao giờ được trích dẫn toàn bộ trong truyện, chỉ những đoạn mơ hồ, rời rạc, nhưng tất cả các nhân vật từng tiếp xúc với nó đều bị biến đổi. Họ mất kiểm soát tinh thần, rơi vào ảo giác, hoang tưởng hoặc tự sát. Điều này khiến vở kịch trở thành biểu tượng của “tri thức bị cấm” (forbidden knowledge) – một mô-típ quen thuộc trong văn học kinh dị, sau này được H.P. Lovecraft phát triển thành “Necronomicon”.
Vở kịch mở ra một thế giới khác – Carcosa – nơi không gian và thời gian đan xen, nơi mọi định nghĩa của thực tại bị xóa mờ. Đọc The King in Yellow là hành động vượt qua ranh giới giữa cái biết và cái không nên biết, và cái giá phải trả là sự tan rã của cái tôi, của lý trí.
Carcosa, cái tên ám ảnh xuyên suốt tác phẩm, xuất hiện như một chiều không gian khác – vừa hư ảo, vừa có thật – nơi Vua Vàng ngự trị. Chambers lấy cảm hứng từ truyện An Inhabitant of Carcosa của Ambrose Bierce, nhưng biến Carcosa thành
biểu tượng của thế giới bên kia của ý thức, nơi những quy luật vật lý và logic không còn giá trị.
Nhân vật trong truyện, sau khi tiếp xúc với vở kịch, không chỉ mất kiểm soát bản thân mà còn nghi ngờ cả thế giới xung quanh. Ranh giới giữa mộng và thực bị xóa nhòa. Carcosa trở thành hình ảnh của sự vỡ vụn của thế giới quen thuộc, khi niềm tin vào sự thật khách quan và lý trí sụp đổ.
“The King in Yellow” là một thực thể vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Hắn không chỉ là nhân vật trong vở kịch, mà còn hiện diện như một thế lực vô hình, như một biểu tượng của cái ác tối thượng – không phải dưới dạng quỷ dữ vật lý, mà là sức mạnh phá hủy từ bên trong tâm trí.
Hắn đội chiếc áo choàng rách, vàng – màu sắc của vương quyền, nhưng cũng là màu của sự suy tàn, của bệnh tật (như bệnh vàng da, sự mục ruỗng). Vua Vàng tượng trưng cho một quyền lực tri thức tha hóa, một “chân lý” không thể lĩnh hội mà không bị hủy hoại.
Điểm độc đáo trong The King in Yellow là sự kết hợp giữa chủ nghĩa gothic cổ điển và tâm lý học hiện đại. Chambers xây dựng một thế giới nơi nỗi sợ không đến từ con quái vật bên ngoài, mà từ sự đổ vỡ bên trong con người. Nỗi kinh hoàng xuất phát từ việc không còn có thể phân biệt thật – giả, đúng – sai, điên – tỉnh.
Tác phẩm phản ánh bi kịch hiện sinh: con người khao khát khám phá, nhưng vũ trụ quá rộng lớn, quá xa lạ và vô cảm. Việc vạch màn sự thật chỉ mang lại sự hủy diệt, chứ không phải khai sáng. Đây chính là tinh thần của “weird fiction” mà Lovecraft sau này tiếp nối – nơi cái không thể hiểu là trung tâm của nỗi kinh hoàng.
The King in Yellow là một kiệt tác độc đáo mở đầu cho dòng văn học kinh dị siêu hình, vượt xa khuôn khổ một tuyển tập truyện kỳ lạ. Nó đặt ra câu hỏi về giới hạn của nhận thức, về hậu quả của việc tiếp cận những chân lý vượt ngoài khả năng con người. Chambers đã để lại một biểu tượng sâu sắc: vị Vua Vàng không chỉ là một nhân vật, mà là hiện thân của chính nỗi ám ảnh tri thức trong thời đại hiện đại – nơi mà càng biết nhiều, con người càng cô độc và dễ sụp đổ hơn bao giờ hết.
- * *
Hãy để bình minh đỏ thẳm phỏng đoán
Điều ta sẽ làm,
Khi ánh sao xanh tắt lịm
Và mọi thứ kết thúc hoàn toàn.
I
Có biết bao điều không thể giải thích! Tại sao một số hợp âm trong âm nhạc lại làm tôi liên tưởng đến sắc nâu và vàng của lá thu? Tại sao Thánh Lễ Sainte Cécile lại khiến tư tưởng tôi lang thang giữa những hang động, nơi vách đá lấp lánh bạc nguyên thuỷ như những khối thô chưa được gọt giũa? Có điều gì trong tiếng ồn ào và hỗn loạn của phố Broadway vào lúc sáu giờ chiều mà bỗng thoáng hiện lên trong tâm trí tôi cảnh rừng Breton tĩnh lặng, ánh nắng xuyên qua tán cây xuân, và Sylvia cúi mình – nửa tò mò, nửa trìu mến – trước một con thằn lằn xanh nhỏ, thì thầm: “Ngỡ rằng đây cũng là một vật nhỏ thuộc về Chúa!”
Lần đầu tôi thấy người gác cổng, ông ta quay lưng về phía tôi. Tôi nhìn ông ta một cách thờ ơ cho đến khi ông ta bước vào nhà thờ. Tôi chẳng chú ý hơn bất cứ người qua đường nào đang thong dong trên quảng trường Washington sáng hôm đó, và khi khép cửa sổ lại, quay trở vào phòng vẽ, thì đã quên mất ông ta rồi. Đến cuối buổi chiều, trời oi bức, tôi mở lại cửa sổ để hít thở chút không khí. Một người đàn ông đang đứng trong sân nhà thờ, và tôi lại nhìn thấy ông ta với sự hờ hững như lúc sáng. Tôi liếc qua quảng trường, nơi đài phun nước đang nhả nước trắng xóa, rồi bước trở lại giá vẽ với đầu óc ngập tràn cảm xúc mơ hồ của cây cối, những con đường lát nhựa, những nhóm người giữ trẻ và đi chơi. Khi quay đi, tầm mắt tôi thoáng gặp người đàn ông trong sân nhà thờ. Ông ta đã xoay mặt về phía tôi – và một cách hoàn toàn vô thức, tôi cúi người để xem kỹ hơn. Đúng lúc ấy, ông ta ngẩng đầu, nhìn thẳng vào tôi. Lập tức, trong đầu tôi hiện lên hình ảnh một con sâu trong quan tài. Tôi chẳng rõ điều gì nơi người đàn ông khiến tôi phải kinh sợ đến vậy, chỉ biết rằng cảm giác như một con sâu mủ trắng trơn khiến tôi vừa thấy phẫn nộ vừa thấy buồn nôn tới độ tôi phải biểu lộ nó ra trên nét mặt; và thế là ông ta quay mặt đi, bộ mặt phù nề kia khiến tôi nhớ đến một con giòi đang bị đánh thức trong quả hạt dẻ.
Tôi trở lại với giá vẽ và ra hiệu cho người mẫu tiếp tục tạo dáng. Sau khi vẽ thêm một lát, tôi nhận ra mình đang phá hỏng bức tranh nhanh hết mức có thể, nên phải cầm dao phết màu cạo bỏ lớp ấy đi. Màu da hiện ra vàng úa thiếu sức sống, và tôi không hiểu làm sao vài phút trước đây màu da ấy vẫn rạng rỡ như vậy trong bản phác thảo.
Tôi nhìn Tessie. Cô vẫn ở nguyên chỗ, làn da khỏe khoắn đỏ ửng từ cổ đến hai má, trong khi tôi nhăn mặt.
“Có phải anh đang vẽ sai chỗ nào không?” cô ngập ngừng hỏi.
“Không—anh đã làm hỏng cánh tay này, và thật chẳng hiểu nổi sao lại sơn thành màu bùn trên đó,” tôi đáp.
“Em có tạo dáng không ổn à?” cô nài nỉ.
“Dĩ nhiên là ổn.”
“Vậy không phải em sai?”
“Không. Là do anh cả thôi.”
“Em rất tiếc,” cô nói nhẹ nhàng.
Tôi bảo cô nghỉ ngơi trong khi tôi dùng giẻ nhúng turpentine chà vào chỗ bị hỏng, và cô đi hút thuốc rồi lật xem minh hoạ trong Courrier Français.
Tôi không biết do turpentine hay do vải bị lỗi, nhưng càng chà thì mảng ô nhiễm càng lan rộng. Tôi miệt mài như một con hải ly, nhưng bệnh hoại tử như lan từ tay chân đến khắp bức tranh. Tôi hoảng, cố cứu vớt, nhưng rồi vùng ngực cũng đổi màu, toàn bộ hình như đang hấp thụ cơn bệnh như bọt biển ngậm nước. Tôi dùng palette-knife, turpentine, scraper—miệng tiếc nuối nghĩ đến Duval, người bán cho tôi tấm vẽ ấy; nhưng rồi nhận ra lỗi không phải do vải hay màu của Edward. “Chắc là do turpentine,” tôi nghĩ cáu tiết, “hoặc có lẽ ánh sáng chiều làm mắt tôi mờ mịt không nhìn rõ được.”
Tôi gọi Tessie. Cô bước lại, cúi xuống ghế tôi đang ngồi, thổi khói thuốc lan cả phòng.
“Anh đã làm gì nó vậy?” cô kêu.
“Không làm gì đâu,” tôi gắt, “nhất định là do turpentine!”
“Mà giờ thành màu kinh khủng ghê,” cô tiếp tục, “Anh có nghĩ da em trông như pho mát xanh không?”
“Không hề,” tôi trả lời giận dữ; “em có thấy lần nào anh vẽ như thế không?”
“Không, thật đó!” cô đáp.
“Thì ra là vậy.”
“Chắc là do turpentine, hoặc gì đó,” cô thừa nhận.
Cô khoác bộ áo choàng Nhật rồi bước về phía cửa sổ. Tôi cạo, chà miệt mài đến mệt lử, cuối cùng cứ ném cọ vào tranh với vẻ uất ức, chỉ giọng nói ấy cũng đủ để Tessie nghe rõ.
Và cô liền xẵng giọng:
“Đúng là vậy rồi! Vừa chửi bậy vừa làm trò hề lại còn phá bèn xiê! Anh dành ba tuần cho bản vẽ này, mà giờ nhìn kìa! Ném canvas thì để làm gì? Các anh nghệ sĩ đúng là lố bịch!”
Tôi cảm thấy xấu hổ như mọi khi sau mỗi màn nổi giận, liền quay bức tranh tồi tệ về phía tường. Tessie giúp tôi vệ sinh cọ vẽ, rồi lục đục đi thay đồ. Từ sau tấm màn, cô nửa trêu ghẹo, nửa khuyên bảo tôi giữ bình tĩnh; rồi có lẽ thấy tôi đã “hạ hỏa” đủ, cô bước ra cầu tôi kéo khuy áo lưng giúp cô, vì không với tới được.
“Mọi thứ trở nên lộn xộn từ lúc anh quay lại cửa sổ rồi nói về người đàn ông xấu xí anh thấy ở sân nhà thờ đấy,” cô lên tiếng.
“Ừ, có lẽ hắn đã làm mê hoặc bức tranh rồi,” tôi đáp, ngáp dài. Tôi nhìn đồng hồ.
“Anh biết là đã quá sáu giờ,” Tessie nói, chỉnh lại chiếc mũ trước gương.
“Ừ, anh không cố giữ em lâu đâu,” tôi đáp. Tôi cúi mình ra cửa sổ nhưng lập tức rụt lại vì cảm thấy ghê sợ – gã thanh niên với khuôn mặt nhợt nhạt vẫn đứng dưới sân. Tessie thấy nét không bằng lòng trên mặt tôi và cúi người qua cửa.
“Đó có phải là người anh không thích không?” cô thì thầm.
Tôi gật đầu.
“Em không thấy rõ mặt, nhưng trông hắn thật mập mạp và mềm mại. Dù sao thì,” cô quay lại nhìn tôi, “hắn khiến em nhớ đến một giấc mơ—một giấc mơ khủng khiếp em từng có. Hay là,” cô ngước nhìn đôi giày xinh xắn của mình, “chỉ là một giấc mơ thôi?”
“Làm sao anh biết?” tôi mỉm cười.
Tessie đáp lại bằng một nụ cười.
“Anh có trong đó,” cô nói, “vậy nên có lẽ anh sẽ biết gì đó về nó.”
“Tessie! Tessie!” tôi phản đối, “em đừng tỏ vẻ ngọt ngào rằng em mơ thấy anh nhé!”
“Nhưng em đã mơ thật mà,” cô khẳng định; “em có kể cho anh nghe không?”
“Cứ kể đi,” tôi đáp, châm điếu thuốc.
Tessie dựa lưng vào bậu cửa sổ mở và bắt đầu thật trang nghiêm.
“Một đêm mùa đông năm ngoái, em nằm trên giường mà chẳng nghĩ gì cả. Vừa tạo dáng lâu cho anh, em khá mệt, nhưng như thể không thể ngủ được. Em nghe tiếng chuông thành phố đổ mười, mười một và nửa đêm. Em chắc mình đã ngủ lúc đó, vì không còn nghe thêm chuông nữa. Em chỉ kịp nhắm mắt thì ngủ mơ thấy mình bị thôi thúc đi đến cửa sổ. Em đứng dậy, đẩy cánh cửa sổ rồi nhìn xuống. Con phố 25 lạ lẫm và trống vắng. Em bắt đầu thấy sợ; mọi thứ bên ngoài tối om và khó chịu. Rồi tiếng bánh xe vọng tới, và em cảm giác phải chờ nó. Từ từ bánh xe tiến gần, cuối cùng em nhận ra đó là một chiếc xe tang. Khi nó đi ngang dưới cửa sổ, em thấy là xe tang thực sự. Em run rẩy vì sợ, rồi nhìn thấy tay lái quay lại nhìn vào em. Khi tỉnh dậy, em đứng cạnh cửa sổ mở, run lạnh, nhưng cả chiếc xe tang lông đen và người lái đều biến mất. Em mơ giấc mơ đó vào tháng Ba rồi lại tỉnh giữa cửa sổ. Đêm qua giấc mơ ấy lại trở lại. Anh biết hôm qua mưa không? Khi tỉnh, em còn thấy váy ngủ ướt sũng.”
“Nhưng anh xuất hiện như thế nào trong giấc mơ?” tôi hỏi.
“Em—em thấy anh nằm trong quan tài; nhưng anh không chết.”
“Trong quan tài á?”
“Ừ.”
“Em sao lại biết? Em có thấy rõ anh không?”
“Không; em chỉ biết là anh có ở đó.”
“Em có ăn gì không bình thường, như Welsh rarebits hay món salad tôm hùm không vậy?” tôi bắt đầu trêu, nhưng cô gái bất ngờ thét lên vì sợ hãi.
“Sao vậy?” tôi hốt hoảng hỏi khi cô rụt người vào khe cửa sổ.
“Người… người đàn ông ở sân nhà thờ kia;… chính hắn lái chiếc xe tang.”
“Thật vô lý,” tôi đáp, nhưng mắt Tessie mở to, đầy sợ hãi. Tôi tiến đến cửa sổ nhìn ra ngoài — người đàn ông đã biến mất.
“Nào, Tessie,” tôi vỗ vai an ủi, “đừng hoảng, em mệt rồi. Em đã tạo dáng quá lâu rồi nên căng thẳng.”
“Anh nghĩ em có thể quên khuôn mặt đó sao?” cô thì thầm. “Ba lần em thấy xe tang lướt qua dưới cửa sổ, và mỗi lần người lái xe đều ngẩng lên nhìn em. Ôi, khuôn mặt ấy trắng bệch và… mềm mại? Trông như đã chết lâu lắm rồi.”
Tôi gợi ý cô ngồi xuống và uống một ly Marsala. Sau đó tôi ngồi bên cạnh cô, cố đưa ra lời khuyên:
“Nghe này, Tessie,” tôi nói, “em nên về quê nghỉ một hoặc hai tuần, chắc sẽ không còn mơ thấy xe tang nữa. Em tạo dáng cả ngày, tối đến hệ thần kinh dễ bị rối loạn. Em không thể cứ thế mãi. Rồi em lại không đi ngủ lúc kết thúc công việc, mà chạy đi dã ngoại ở Sulzer’s Park, hoặc đến Eldorado hay Coney Island — đến sáng hôm sau thì mệt mỏi kiệt sức. Thực tế chẳng có chiếc xe tang nào cả. Chỉ là giấc mơ về con cua mềm vỏ đấy.”
Cô mỉm cười mờ nhạt:
“Còn người đàn ông ở sân nhà thờ thì sao?”
“Anh nghĩ hắn chỉ là một kẻ bình thường, không khoẻ mạnh, bình thường thôi.”
“Này anh Scott, tôi thề đấy,” cô nhìn thẳng, “khuôn mặt của người đàn ông kia ở sân nhà thờ chính là khuôn mặt người lái xe tang!”
“Vậy sao?” tôi nói bình thản. “Lái xe tang là một nghề trung thực mà.”
“Vậy anh nghĩ em thật sự đã nhìn thấy chiếc xe tang?”
“À,” tôi nói khéo léo, “nếu em thật sự nhìn thấy, thì không có gì lạ nếu người kia là tài xế—không có gì đáng lo.”
Tessie đứng dậy, lấy khăn tay đã ngửi nước hoa ra, nhai một miếng keo cao su ở gấu váy rồi vừa đeo găng tay vừa chìa tay về phía tôi, nói thẳng thắn:
“Chúc anh ngủ ngon, ông Scott.”
Rồi cô bước ra.
II
Sáng hôm sau, Thomas – cậu bé đánh chuông – mang đến cho tôi tờ Herald cùng một tin. Nhà thờ cạnh bên vừa được bán. Tôi mừng thầm – không phải vì tôi là người Công giáo mà thấy bực về đoàn tín hữu bên cạnh, mà bởi thần kinh tôi đã rối loạn sau màn giảng đạo om sòm, mỗi lời vang vọng xuyên qua dàn ghế nhà thờ như đang reo vào tận phòng mình, kèm theo cái r phát âm bằng mũi làm tôi nổi da gà. Chưa kể còn có kẻ hình người đầy quỷ dữ, một người chơi đàn lớn đi kèm phong cách giải thích tôn nhang kiểu riêng—tôi chỉ muốn bóp cổ gã, vì dám chơi bài doxology với hòa âm thứ, như của những sinh viên năm nhất dở hơi trong dàn tứ tấu. Tôi tin mục sư đó là người tốt, nhưng khi ông rống lên:
cãi: “Và Chúa phán cùng Môi-se: ‘Chúa là chiến binh; Chúa là danh Ngài. Cơn thịnh nộ của Ta sẽ bùng lên, và Ta sẽ giết ngươi bằng gươm!’
Tôi tự hỏi, sẽ phải đốt bao nhiêu thế kỷ luyện ngục để trả tội cho lời kinh đó.
“Ai đã mua rồi hả?” tôi hỏi Thomas.
“Không biết ai, thưa ngài. Người ta nói ông chủ chung cư Hamilton bên kia có vẻ đang xem xét, có thể tính xây thêm mấy studio.”
Tôi tiến ra cửa sổ. Gã thanh niên mặt nhợt nhạt lại đứng bên cổng nhà thờ, và chỉ cần thấy hắn, cảm giác ghê tởm kinh hoàng lại xâm chiếm tôi.
“À này, Thomas,” tôi nói, “đó là ai thế?”
Thomas ngẩng mũi khịt. —“Ông thằng sâu đó, thưa chú? Là người gác đêm của nhà thờ. Chúng tôi ngồi ngoài bậc đó cả đêm để nhìn chú trông thật là mỉa mai. Tôi muốn đánh vào đầu hắn…”—hắn im xuống—“…xin lỗi, thưa ngài.”
“Nói tiếp đi, Thomas.”
“Một đêm, khi tôi cùng Arry – cậu bé người Anh kia – về nhà, tôi thấy hắn ngồi đó ngay bậc thềm. Chúng tôi có Molly và Jen đi cùng, hai cô ấy phục vụ khay đồ, và hắn nhìn chúng tôi với ánh mắt mỉa mai ghê tởm, nên tôi bốc đồng quát: ‘Mày nhìn cái gì, lù đù?’… xin lỗi nhá, thưa ngài… và hắn chẳng nói gì cả. Tôi bảo: ‘Ra mà xem tao đánh mày cho!’ Rồi tôi mở cửa cổng chạy vào—hắn vẫn im lặng, chỉ nhìn đầy mỉa mai. Tôi đấm hắn một cú, nhưng, trời đất ơi!—đầu hắn lạnh ngắt và mềm nhũn đến mức phát ớn.”
“Rồi hắn làm gì?” tôi tò mò hỏi.
“Hắn à? Không nhúc nhích.”
“Còn cậu, Thomas?”
Chàng đỏ mặt vì ngượng, mỉm cười không yên.
“Thưa ông, tôi không phải kẻ nhát. Tôi thuộc Lữ đoàn 5th Lancers, trước là kèn báo động ở Tel-el-Kebir, từng bị bắn ở… ờ… nơi đó.”
“Cậu nói là bỏ chạy á?” tôi ngạc nhiên.
“Dạ… vâng, thưa ngài… tôi chạy.”
“Tại sao?”
“Chính vì tôi muốn biết điều đó, thưa ngài. Tôi vồ lấy Molly rồi chạy, và mọi người lúc ấy đều sợ hãi như tôi.”
“Nhưng họ sợ điều gì vậy?”
Thomas im lặng một lúc nhưng rồi tôi càng tò mò về gã thanh niên đáng ghét kia, nên ép hỏi tiếp. Ba năm sống ở Mỹ đã khiến Thomas bớt giọng Cockney, nhưng cũng làm hắn sợ bị cười nhạo theo kiểu người Mỹ.
“Ngài sẽ không tin tôi chứ, Mr. Scott?”
“Tôi sẽ tin.”
“Ngài sẽ cười khẩy tôi đấy chứ?”
Hắn ngập ngừng rồi nói nhỏ:
“Thưa ngài, thề là của Chúa đó: khi tôi đấm hắn, hắn lại nắm lấy cổ tay tôi; và khi tôi xoắn nắm đấm mềm nhũn của hắn, một ngón tay của hắn rơi vào trong tay tôi.”
Nét căm ghét và kinh hoàng hiện rõ trên mặt Thomas khiến tôi cũng rùng mình, nên hắn nói tiếp:
“Thật khủng khiếp, và giờ mỗi khi tôi nhìn thấy hắn là tôi chỉ muốn bỏ chạy. Hắn cứ làm tôi sợ phát khiếp.”
Khi Thomas đã đi, tôi tiến ra cửa sổ. Người đàn ông đứng bên lan can nhà thờ, cả hai tay vịn chặt vào cổng, nhưng tôi vội rút lui về giá vẽ, buồn nôn và kinh hoảng—vì tôi nhận ra ngón giữa tay phải của hắn đã cụt mất.
Đúng chín giờ, Tessie hiện ra và rồi xoẹt vào sau tấm màn với một lời chào vui vẻ:
“Chào buổi sáng, ông Scott!”
Khi cô xuất hiện trở lại và lại vào vị trí tạo dáng, tôi liền bắt tay vẽ một bức mới, khiến cô rất vui. Cô im lặng cho đến khi tiếng than chì hết vương vãi trên canvas và tôi cầm lấy bình cố định màu, thì Tessie lại bắt đầu nói chuyện rổn rảng:
“Ôi, hôm qua em thật là vui. Bọn em đi đến chỗ Tony Pastor’s.”
“Bọn ‘em’ là ai?” tôi hỏi dồn.
“À, có Maggie — cô người mẫu của ông Whyte — và Pinkie McCormick — em ấy có mái tóc đỏ rất đẹp mà bọn anh họa sĩ hay thích — rồi còn Lizzie Burke nữa.”
Tôi bóp bình xịt lên tranh tạo luồng khói keo định hình và nói:
“Rồi tiếp đi.”
“Chúng em thấy Kelly và Baby Barnes — cô vũ công múa váy — và cả đám bạn nữa. Em có phải lòng ai đó.”
“Vậy là em đã bỏ anh để theo người khác rồi, Tessie?”
Cô cười và lắc đầu:
“Không, anh ạ. Là Ed — em trai của Lizzie Burke. Anh ấy thật là một quý ông.”
Tôi thấy nên khuyên nhủ cô chút về chuyện “phải lòng”, và cô nhận lời với một nụ cười tươi:
“Em làm chủ được chuyện yêu đương chút cho lạ,” cô nói, nhai miếng kẹo cao su, “nhưng Ed thì khác. Lizzie là bạn thân nhất của em.”
Rồi cô kể rằng Ed vừa từ nhà máy vớ ở Lowell, Massachusetts trở về, ngỡ ngàng khi thấy hai cô đã trưởng thành, và anh ta thật là người có học thức cùng phong thái; kể cả chuyện anh ta sẵn sàng chi nửa đô la để ăn kem và hàu mừng sự kiện đậu vào ngành hàng dệt len của Macy’s. Trước khi cô nói hết, tôi đã quay lại vẽ, và cô lại đứng yên, mỉm cười, líu lo như chim sẻ. Đến buổi trưa, bức phác họa đã hoàn chỉnh khá ổn, và Tessie đến ngắm nó.
“Thế này thì khá hơn nhiều rồi,” cô nhận xét.
Tôi nghĩ xuôi tai, rồi ăn trưa với cảm giác hài lòng — mọi thứ đang tiến triển tốt. Tessie trải đồ ăn phía bàn vẽ đối diện tôi, chúng tôi cùng uống rượu claret chung một chai và cùng đốt thuốc từ một que diêm. Tôi rất yêu quý Tessie. Tôi đã thấy cô lớn lên từ một cô gái nhỏ, gầy gò vụng về thành một người phụ nữ thon thả, tuyệt mỹ. Cô đã làm mẫu cho tôi suốt ba năm qua, và trong số tất cả các người mẫu, cô là người tôi yêu thích nhất. Sẽ rất buồn nếu cô trở nên “cứng” hoặc “khan hiếm”, nhưng tôi chưa từng thấy cô khác đi, và tôi tin chắc cô vẫn ổn. Chúng tôi không bàn về đạo đức, và tôi cũng không định làm vậy — một phần vì tôi không có đạo đức, và phần khác vì biết cô sẽ làm theo ý mình bất kể lời khuyên. Dẫu vậy, tôi vẫn hy vọng cô tránh xa rắc rối, vì tôi quý cô, và tôi ích kỷ muốn giữ cô làm người mẫu tốt nhất. Tôi hiểu rằng chuyện “phải lòng” là bình thường với cô, và rằng ở Mỹ không giống Paris. Tuy vậy, sống tỉnh táo đủ lâu, tôi cũng biết rồi sẽ có người khác đến bên cô, theo cách này hoặc cách khác. Mặc dù tôi từng nghĩ hôn nhân là trò ngớ ngẩn, tôi vẫn chân thành mong một vị linh mục cuối con đường. Tôi là người Công giáo—lúc nghe lễ trọng, đặt tay kinh, tôi cảm thấy mọi thứ, kể cả bản thân, trở nên vui tươi; lúc xưng tội, tôi cũng nhẹ nhõm. Người sống cô đơn như tôi cần xưng tội. Còn Sylvia cũng là người Công giáo — đó là lý do đủ rồi. Nhưng tôi đang nói về Tessie, mà cô ấy còn sùng đạo hơn tôi. Có tất cả điều đó, tôi không lo lắng thật sự về cô… cho đến khi cô biết yêu. Nhưng rồi tôi hiểu định mệnh sẽ quyết định tương lai cô, và tôi thầm cầu mong nó giữ cô tránh xa những người như tôi, và chỉ đưa đến cô những người như Ed Burke hay Jimmy McCormick — chúc phúc cho khuôn mặt ngọt ngào của cô!
Tessie ngồi thổi vòng khói bay lên trần, gõ đáy ly vào nhau.
“Anh có biết anh, tối qua em cũng mơ một giấc mơ không?” tôi hỏi nhẹ.
“Không phải về người đàn ông đó đâu,” cô cười.
“Chính xác vậy. Giấc mơ giống như của em, nhưng tồi tệ hơn nhiều.”
Là một họa sĩ, tôi thật sự vụng về khi phát ngôn.
“Chắc là em ngủ lúc mười giờ,” tôi tiếp, “rồi sau đó mơ thấy mình tỉnh giấc. Tôi nghe rõ tiếng chuông nửa đêm, tiếng gió qua cành cây, và tiếng còi tàu từ vịnh vọng vào — đến giờ tôi vẫn chưa tin đó là mơ. Tôi tưởng mình đang nằm trong một hộp đóng bằng kính. Lờ mờ trong giấc mơ tôi thấy đèn đường trôi qua. Phải nói thật với em, Tessie, hộp tôi nằm trong giống như xe ngựa có đệm lót, lắc lư trên đường đất. Một lúc sau tôi bắt đầu sốt ruột, cố vận động tay chân, nhưng hộp chật quá. Tay tôi khoanh trước ngực, không thể nhấc lên. Tôi lắng nghe rồi cố gọi, nhưng không thể phát ra tiếng nói. Tôi nghe chân ngựa giẫm đường, cả hơi thở người lái xe. Rồi một âm thanh khác lọt vào tai — như tiếng kéo cửa sổ. Tôi cố xoay đầu nhẹ, và phát hiện mình có thể nhìn xuyên qua nắp kính phía trên hộp, và cả qua cửa kính bên chiếc xe phủ bạt. Tôi thấy những ngôi nhà trống không, im lặng, không ánh đèn, không một dấu hiệu sự sống — chỉ duy nhất một nhà có cửa sổ lầu 1 mở, và một bóng người mặc đồ trắng đang nhìn xuống đường. Đó chính là em.”
Tessie quay mặt khỏi tôi, tựa khuỷu tay lên bàn.
“Anh ấy lái xe tang!” cô đã nói giữa tiếng nấc.
“Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt em,” tôi nói tiếp, “và nó ảm đạm đến lạ thường. Rồi chúng tôi đi qua và rẽ vào một con hẻm đen hẹp. Một lúc sau, ngựa dừng lại. Tôi ngồi đợi, nhắm mắt vì vừa sợ vừa sốt ruột, nhưng mọi thứ im như mồ mả. Đến khi tôi mất bao lâu đó, cảm thấy ngột ngạt, tiếng gì đó gần kề thôi thúc tôi mở mắt. Và rồi tôi thấy khuôn mặt trắng bệch của người lái xe tang, nhìn tôi qua nắp quan tài…”
Một tiếng nấc của Tessie làm tôi giật mình. Cô đang run rẩy như chiếc lá. Tôi nhận ra mình đã thật ngu ngốc và vội sửa chữa.
“Tess à, anh kể chuyện này để chỉ cho em thấy câu chuyện của em ảnh hưởng đến giấc mơ người khác thế nào. Em không thực sự nghĩ anh nằm trong quan tài nào đó chứ? Sao em run sợ vậy? Em thấy không: giấc mơ của em và sự ghét vô lý đối với gã gác đêm vô hại kia đã khiến não anh hoạt động ngay lúc anh chợp mắt.”Cô quay đầu gục xuống, ôm mặt trong hai tay, nấc lên như tim muốn vỡ. Trời ạ, tôi đúng là một thằng ngốc ba lần ba bảy! Nhưng tôi không dừng lại. Tôi vòng tay ôm cô:
“Tessie yêu, tha lỗi cho anh nhé,” tôi nói, “anh không đáng đánh thức em bằng quái gì đó như thế. Em là cô gái quá sáng suốt, một người Công giáo tốt, nên không nên chạy theo mộng mị.”
Bàn tay cô siết chặt lấy bàn tay tôi, rồi tựa đầu lên vai tôi, vẫn run rẩy. Tôi vỗ về, an ủi cô:
“Dậy đi, Tess, mở mắt và mỉm cười nào.”
Mắt cô mở lờ đờ, chậm rãi, rồi ánh mắt gặp tôi — nhưng nét nhìn ấy quá lạ, quá cô đơn, khiến tôi vội lên tiếng trấn an.
“Không có gì đáng sợ đâu, Tessie. Anh chắc em không còn sợ vì chuyện đó chứ?”
“Không,” cô trả lời, nhưng môi đỏ run run.
“Vậy có chuyện gì vậy? Em còn sợ chứ?”
“Sợ. Không phải vì em.”
“Vì anh à?” tôi hỏi vui.
“Vì anh,” cô thì thầm yếu ớt, “em… em quan tâm đến anh.”
Lúc đầu tôi bật cười, nhưng khi hiểu rõ ý cô, một luồng giật lạnh chạy qua tôi, và tôi ngồi như bị đóng băng. Đây là bước ngớ ngẩn nhất mà tôi từng dại dột. Trong khoảnh khắc giữa lời thú nhận và câu trả lời, tôi nghĩ đến ngàn cách phản ứng — có thể gạt em đi, có thể trêu vui về sức khỏe tôi, hoặc khéo léo nói rằng em không thể yêu tôi. Nhưng lời tôi bật ra nhanh hơn suy nghĩ: tôi đã hôn cô.
Tối hôm đó, tôi đi dạo như thường lệ trong công viên Washington, vừa bước đi vừa suy ngẫm về những chuyện đã xảy ra trong ngày. Tôi đã hoàn toàn dấn thân. Giờ thì không thể quay đầu nữa, và tôi nhìn thẳng vào tương lai. Tôi không phải là người tốt, thậm chí không phải là kẻ cẩn trọng, nhưng tôi không hề có ý định lừa dối bản thân hay Tessie. Niềm đam mê duy nhất trong cuộc đời tôi nằm sâu trong khu rừng đầy nắng ở Brittany. Liệu nó đã bị chôn vùi mãi mãi? Hy vọng kêu lên: “Chưa đâu!” Suốt ba năm qua, tôi đã lắng nghe tiếng gọi của Hy vọng, và cũng trong ba năm ấy, tôi chờ đợi một bước chân dừng trước ngưỡng cửa nhà mình. Liệu Sylvia đã quên tôi? “Không đâu!” – Hy vọng lại kêu lên.
Tôi đã nói rằng tôi không ra gì. Điều đó đúng, nhưng tôi cũng không hẳn là một tên phản diện kiểu hài nhạc. Tôi đã sống một cuộc đời buông thả, phóng túng, hưởng thụ những thú vui mời gọi, rồi than thở và đôi khi cay đắng ân hận về hậu quả. Chỉ có một điều – ngoài việc vẽ – mà tôi thật sự nghiêm túc, và điều đó vẫn ẩn giấu, nếu không muốn nói là đánh mất, trong khu rừng nước Pháp.
Giờ thì đã quá muộn để hối hận về những gì xảy ra trong ngày. Dù đó là lòng trắc ẩn, một thoáng dịu dàng trước nỗi buồn, hay chỉ đơn giản là bản năng thô thiển của sự kiêu hãnh được thỏa mãn – thì đến lúc này, tất cả cũng như nhau cả thôi. Nếu tôi không muốn làm tổn thương một trái tim vô tội, thì con đường phía trước đã rõ ràng. Ngọn lửa và sức mạnh, chiều sâu mãnh liệt của một tình yêu mà tôi chưa từng mảy may ngờ tới – dù từng tưởng mình dạn dày kinh nghiệm sống – đã không để lại cho tôi lựa chọn nào khác ngoài việc đáp lại tình cảm ấy hoặc rời bỏ cô ấy. Có lẽ vì tôi quá hèn nhát để làm tổn thương người khác, hoặc có lẽ vì tôi chẳng có tí u ám đạo đức kiểu Thanh giáo trong người, tôi không biết nữa, nhưng tôi đã không thể phủ nhận trách nhiệm cho nụ hôn bồng bột kia – và thực ra tôi cũng chẳng có thời gian để làm điều đó – vì cánh cửa trái tim cô ấy đã mở toang, và dòng cảm xúc dâng trào cuộn tràn ra ngoài. Những người khác – những kẻ luôn làm điều đúng đắn và tìm thấy sự hài lòng u ám trong việc khiến bản thân và người khác khổ sở – có thể sẽ cưỡng lại được. Còn tôi thì không. Tôi đã không thể. Sau cơn xúc động ấy, tôi có bảo cô rằng, lẽ ra cô nên yêu Ed Burke và đeo một chiếc nhẫn vàng giản dị. Nhưng cô không chịu nghe, và tôi nghĩ rằng, một khi cô đã quyết định yêu một người mà cô không thể kết hôn, thì người đó nên là tôi. Ít nhất tôi có thể đối xử với cô bằng một thứ tình cảm hiểu biết, và nếu một ngày nào đó cô chán ngấy mối mê đắm này, cô có thể rời đi mà không bị tổn hại gì. Bởi vì tôi đã quyết tâm về điều đó, dù biết điều đó sẽ rất khó khăn. Tôi nhớ tới kết cục thường thấy của những mối tình “thuần khiết”, và nhớ mình từng ghê tởm mỗi khi nghe đến chuyện đó. Tôi biết mình đang tự chuốc lấy rắc rối – quá nhiều – đối với một kẻ vô nguyên tắc như tôi, và tôi mơ mộng về tương lai, nhưng chưa bao giờ tôi nghi ngờ rằng cô sẽ an toàn bên tôi. Nếu là bất kỳ ai khác ngoài Tessie, tôi đã chẳng mảy may bận tâm đến lương tâm hay đạo lý. Bởi vì tôi không nghĩ tới chuyện hy sinh Tessie như tôi từng sẵn sàng hy sinh một người đàn bà từng trải.
Tôi nhìn thẳng vào tương lai và thấy rõ những kết cục có thể xảy ra của mối quan hệ này. Hoặc là cô sẽ chán ngấy tất cả, hoặc sẽ trở nên bất hạnh đến mức tôi buộc phải cưới cô, hoặc là rời bỏ cô. Nếu tôi cưới cô, cả hai sẽ khổ. Tôi – với một người vợ không phù hợp, và cô – với một người chồng chẳng phù hợp với bất cứ người phụ nữ nào. Bởi vì quá khứ của tôi chẳng cho tôi tư cách gì để kết hôn. Nếu tôi rời bỏ cô, cô có thể sẽ suy sụp, rồi bình phục và cưới một Ed Burke nào đó, hoặc cũng có thể cô sẽ liều lĩnh hay tuyệt vọng làm điều gì dại dột. Còn nếu cô chán tôi, thì cả cuộc đời vẫn còn ở phía trước, với những viễn cảnh tươi sáng về những anh Ed Burke, những chiếc nhẫn cưới, những cặp song sinh, những căn hộ nhỏ ở Harlem, và trời biết còn gì nữa.
Khi tôi đi dọc theo hàng cây gần khải hoàn môn Washington Arch, tôi tự nhủ rằng dù sao đi nữa, tôi cũng sẽ là một người bạn vững chắc với cô, còn tương lai để nó tự lo. Rồi tôi trở về nhà, thay đồ dạ hội, vì tờ giấy nhỏ thoảng mùi hương đặt trên bàn trang điểm viết: “Có xe ngựa chờ ở cửa hậu sân khấu lúc mười một giờ,” và tờ giấy ấy ký tên: “Edith Carmichel, Nhà hát Metropolitan.”
Tối hôm đó tôi dùng bữa — đúng hơn là chúng tôi dùng bữa — cô Carmichel và tôi, tại Solari’s, và khi tôi tiễn Edith về tới khách sạn Brunswick thì ánh bình minh vừa bắt đầu dát vàng lên cây thánh giá trên nóc Nhà thờ Tưởng niệm. Không một bóng người trong công viên khi tôi bước qua hàng cây và đi theo lối mòn dẫn từ tượng Garibaldi đến khu căn hộ Hamilton, nhưng khi tôi đi ngang qua nghĩa trang nhà thờ thì thấy một bóng người đang ngồi trên bậc thềm đá. Bất giác, một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi khi nhìn thấy khuôn mặt trắng bệch, phù nề ấy, và tôi vội vã bước nhanh qua. Rồi hắn nói điều gì đó – có thể là nhắm vào tôi, cũng có thể chỉ là lẩm bẩm một mình – nhưng cơn giận dữ bừng bừng bốc lên trong tôi khi nghĩ rằng một kẻ như thế lại dám mở miệng nói với tôi. Trong khoảnh khắc, tôi suýt quay lại để đập gậy vào đầu hắn, nhưng rồi tôi cứ thế bước đi, vào khu Hamilton và lên căn hộ của mình.
Tôi trằn trọc trên giường một lúc lâu, cố xua âm thanh giọng nói của hắn ra khỏi đầu, nhưng vô ích. Âm thanh ấy tràn ngập trong đầu tôi, cái tiếng lẩm bẩm ấy, như làn khói đặc quánh từ lò nấu mỡ hay mùi thối rữa ghê tởm của xác mục nát. Và khi tôi nằm lăn qua lộn lại, giọng nói ấy dường như càng trở nên rõ ràng hơn trong tai tôi, và tôi bắt đầu hiểu được những lời hắn lẩm bẩm. Chúng đến với tôi chậm rãi, như thể tôi đã từng biết mà nay mới nhớ lại, và cuối cùng tôi cũng hiểu ra những âm thanh ấy là gì. Hắn nói:
“Ngươi đã tìm thấy Dấu hiệu Vàng chưa?”
“Ngươi đã tìm thấy Dấu hiệu Vàng chưa?”
“Ngươi đã tìm thấy Dấu hiệu Vàng chưa?”
Tôi nổi giận. Hắn có ý gì với câu đó chứ? Rồi tôi rủa hắn và cả dòng giống hắn, quay lưng lại và thiếp đi. Nhưng khi tỉnh dậy, tôi thấy mặt mình tái nhợt và hốc hác, vì tôi đã mơ cùng một giấc mơ đêm trước – và điều đó khiến tôi bận tâm nhiều hơn tôi muốn thừa nhận.
Tôi thay đồ và xuống xưởng vẽ. Tessie đang ngồi bên cửa sổ, nhưng khi tôi bước vào, cô đứng dậy và vòng hai tay qua cổ tôi để đón một nụ hôn ngây thơ. Cô trông thật ngọt ngào và đáng yêu đến mức tôi lại hôn cô thêm lần nữa, rồi ngồi xuống trước giá vẽ.
“Ủa, bản phác tôi vẽ hôm qua đâu rồi?” tôi hỏi.
Tessie thoáng lúng túng nhưng không trả lời. Tôi bắt đầu lục tìm trong đống toan vẽ, vừa nói:
“Nhanh lên, Tess, chuẩn bị đi, ta phải tranh thủ ánh sáng buổi sáng.”
Khi cuối cùng tôi bỏ cuộc trong việc tìm bản vẽ giữa các bức tranh khác và quay lại tìm quanh phòng, tôi thấy Tessie vẫn đứng bên tấm bình phong, còn nguyên quần áo.
“Sao thế?” tôi hỏi, “em không khỏe à?”
“Em khỏe.”
“Vậy thì mau lên.”
“Anh muốn em tạo dáng như… như trước kia nữa không?”
Lúc đó tôi hiểu ra. Lại một rắc rối mới. Tất nhiên là tôi đã mất đi người mẫu khỏa thân tuyệt vời nhất mà tôi từng có. Tôi nhìn Tessie. Mặt cô đỏ bừng. Than ôi! Chúng tôi đã ăn trái cấm của cây tri thức, và vườn địa đàng với sự ngây thơ nguyên sơ giờ chỉ còn là giấc mộng xưa — ít nhất là với cô ấy.
Có lẽ cô nhận ra nét thất vọng trên gương mặt tôi, nên cô nói:
“Em sẽ tạo dáng nếu anh muốn. Bức phác thảo ở sau bình phong, em để ở đó.”
“Không,” tôi nói, “ta sẽ bắt đầu một bức tranh mới.”
Rồi tôi vào tủ đồ, lấy ra một bộ trang phục Ma-rốc lấp lánh ánh kim tuyến. Đó là một bộ đồ thật, và Tessie vui sướng cầm lấy rồi lui vào sau bình phong thay. Khi cô bước ra, tôi không khỏi ngỡ ngàng. Mái tóc dài đen nhánh của cô được vấn lên trán bằng một vòng ngọc lam, đuôi tóc xoăn nhẹ vắt qua dải thắt lưng lấp lánh. Đôi chân cô mang đôi hài nhọn thêu hoa văn, và chiếc váy dài với những họa tiết Ả Rập bằng chỉ bạc phủ xuống tận mắt cá. Chiếc áo chẽn xanh sẫm ánh kim loại, thêu bạc tinh xảo, cùng chiếc áo khoác kiểu Moorish ngắn, đính tua rua và khảm đá ngọc lam, khiến cô trở nên lộng lẫy lạ thường. Cô tiến lại gần tôi, ngước khuôn mặt tươi cười chờ đợi. Tôi luồn tay vào túi áo, lấy ra một sợi dây chuyền vàng có gắn cây thánh giá, rồi đeo nó qua đầu cô.
“Nó là của em, Tessie.”
“Của em ư?” cô lắp bắp.
“Của em. Giờ thì đi tạo dáng đi.”
Rồi với một nụ cười rạng rỡ, cô chạy về phía sau tấm bình phong và chẳng mấy chốc quay lại với một chiếc hộp nhỏ, trên đó có ghi tên tôi.
“Em định sẽ tặng anh khi về nhà tối nay,” cô nói, “nhưng giờ em không thể chờ được nữa.”
Tôi mở hộp ra. Trên lớp bông màu hồng bên trong là một chiếc trâm bằng đá mã não đen, trên đó có khảm một ký hiệu hay chữ cái kỳ lạ bằng vàng. Nó không phải chữ Ả Rập, cũng chẳng phải chữ Trung Hoa, và như tôi phát hiện sau này, nó không thuộc bất kỳ hệ chữ viết nào của loài người.
“Đó là tất cả những gì em có để tặng anh làm kỷ vật,” cô nói nhỏ nhẹ, có phần ngượng ngùng.
Tôi cảm thấy hơi khó chịu, nhưng vẫn nói với cô rằng tôi sẽ rất trân quý món quà ấy, và hứa sẽ luôn đeo nó bên mình. Cô tự tay cài chiếc trâm vào áo khoác tôi, ngay dưới ve áo.
“Thật ngốc nghếch quá, Tess, khi em đi mua cho anh một món đẹp như thế này,” tôi nói.
“Em không mua đâu,” cô bật cười.
“Vậy em lấy nó ở đâu ra?”
Rồi cô kể cho tôi nghe rằng cô đã nhặt được nó vào một ngày nọ khi đi từ Thủy cung ở Battery về. Cô đã đăng tin tìm chủ nhân và dõi theo các tờ báo, nhưng cuối cùng thì từ bỏ hy vọng tìm được người mất.
“Chuyện đó xảy ra vào mùa đông năm ngoái,” cô nói, “ngay cái ngày em mơ thấy cỗ xe tang kinh khủng lần đầu tiên.”
Tôi chợt nhớ đến giấc mơ của mình đêm trước, nhưng không nói gì. Chẳng mấy chốc, than chì của tôi đã bay vùn vụt trên toan vẽ mới, còn Tessie thì đứng bất động trên bục tạo dáng.
III
Ngày hôm sau quả là một ngày thảm họa đối với tôi. Trong lúc đang di chuyển một bức tranh đã đóng khung từ giá vẽ này sang giá vẽ khác, tôi bị trượt chân trên sàn gỗ bóng loáng và ngã mạnh, cả hai cổ tay đều bị trẹo nghiêm trọng đến mức không thể cầm cọ vẽ. Tôi đành phải lang thang khắp xưởng vẽ, trừng trừng nhìn những bức tranh và bản phác họa còn dang dở, cho đến khi tuyệt vọng tràn ngập, tôi ngồi phịch xuống, vừa hút thuốc vừa bực bội xoay xoay ngón tay. Mưa đập vào cửa sổ và lộp độp trên mái nhà thờ, khiến tôi thêm căng thẳng với âm thanh rả rích không ngừng của nó. Tessie ngồi khâu bên cửa sổ, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu lên nhìn tôi với ánh mắt đầy thương cảm ngây thơ, khiến tôi bắt đầu thấy xấu hổ vì sự cáu gắt của mình và cố tìm gì đó để bận rộn. Tôi đã đọc hết báo, hết sách trong thư viện, nhưng vì không có gì làm, tôi đi tới tủ sách và dùng khuỷu tay đẩy cửa tủ ra. Tôi biết rõ từng cuốn sách theo màu bìa và xem lại hết một lượt, vừa đi vòng quanh thư viện vừa huýt sáo để giữ tinh thần. Khi tôi đang quay người để vào phòng ăn thì ánh mắt tôi chợt bắt gặp một quyển sách bọc da rắn, nằm ở góc trên cùng của giá sách cuối cùng. Tôi không nhớ từng có quyển đó, và đứng từ dưới không đọc nổi hàng chữ mờ trên gáy sách, nên tôi đi vào phòng hút thuốc và gọi Tessie. Cô bước từ xưởng vẽ sang và trèo lên lấy cuốn sách.
“Là sách gì thế?” tôi hỏi.
“The King in Yellow” (Nhà vua mặc áo vàng).
Tôi sững sờ. Ai đã đặt nó ở đó? Sao nó lại ở trong căn hộ của tôi? Từ lâu tôi đã quyết định sẽ không bao giờ mở quyển sách đó, và chẳng có gì trên đời có thể khiến tôi mua nó. Vì sợ sự tò mò có thể xui khiến tôi mở nó ra, tôi thậm chí chưa từng nhìn vào nó trong các hiệu sách. Nếu trước kia tôi từng có chút tò mò muốn đọc, thì thảm kịch khủng khiếp của chàng trai trẻ Castaigne — người mà tôi từng quen biết — đã khiến tôi từ bỏ hoàn toàn ý định khám phá những trang sách độc ác đó. Tôi luôn từ chối nghe bất kỳ ai mô tả về nó, và thực ra chẳng ai dám thảo luận phần hai của sách một cách công khai, vì thế tôi hoàn toàn không biết những trang đó ẩn chứa điều gì. Tôi nhìn chằm chằm vào lớp bìa da lốm đốm độc hại như nhìn vào một con rắn.
“Đừng chạm vào nó, Tessie,” tôi nói, “xuống đi.”
Tất nhiên, lời cảnh báo của tôi chỉ càng khơi dậy sự tò mò của cô, và trước khi tôi ngăn lại được, cô đã cầm lấy cuốn sách và cười khúc khích, chạy biến vào xưởng vẽ. Tôi gọi cô, nhưng cô lướt đi với nụ cười trêu ngươi, trong khi tôi bất lực với đôi tay đau đớn, và tôi vội vã đuổi theo với vẻ bực bội.
“Tessie!” tôi hét lên khi bước vào thư viện, “nghe anh này, anh nói nghiêm túc đấy. Cất cuốn sách đó đi. Anh không muốn em mở nó ra!”
Thư viện trống không. Tôi lục soát cả hai phòng khách, rồi đến phòng ngủ, phòng giặt, nhà bếp, và cuối cùng quay lại thư viện để tìm kỹ hơn. Cô đã trốn quá khéo, đến mức phải mất nửa tiếng sau tôi mới phát hiện ra cô đang co rúm, trắng bệch và im lặng bên cửa sổ chấn song ở kho trên gác. Ngay cái nhìn đầu tiên tôi đã hiểu cô đã bị trừng phạt vì sự dại dột của mình. The King in Yellow nằm dưới chân cô, nhưng cuốn sách đã được mở ở phần hai. Tôi nhìn Tessie và biết rằng đã quá muộn. Cô đã mở The King in Yellow.
Tôi nắm lấy tay cô và dẫn cô vào xưởng vẽ. Cô như người mất hồn, và khi tôi bảo cô nằm xuống ghế sofa thì cô nghe lời không nói một lời nào. Một lúc sau, cô nhắm mắt và hơi thở đều đặn, sâu, nhưng tôi không chắc là cô đã ngủ chưa. Tôi ngồi im bên cạnh cô thật lâu, nhưng cô không cử động hay lên tiếng. Cuối cùng, tôi đứng dậy, đi vào kho trên gác, nhặt cuốn sách lên bằng bàn tay ít bị thương hơn. Nó nặng như chì, nhưng tôi vẫn mang trở lại xưởng vẽ, rồi ngồi xuống trên tấm thảm cạnh sofa, mở sách ra và đọc từ đầu đến cuối.
Khi tôi rã rời vì quá nhiều cảm xúc, đánh rơi cuốn sách và tựa mệt mỏi vào ghế sofa, Tessie mở mắt ra và nhìn tôi…
Chúng tôi đã trò chuyện một lúc lâu bằng giọng đều đều, vô cảm, trước khi tôi nhận ra rằng mình đang thảo luận về The King in Yellow.
Ôi tội lỗi khủng khiếp của việc viết ra những lời như thế — những lời rõ ràng như pha lê, trong trẻo và ngân vang như suối reo, những lời lấp lánh và rực sáng như những viên kim cương độc dược của nhà Medici! Ôi sự tà ác, sự nguyền rủa tuyệt vọng của linh hồn kẻ có thể mê hoặc và làm tê liệt con người chỉ bằng những lời ấy — những lời mà cả kẻ ngu ngơ lẫn bậc hiền triết đều hiểu được, những lời quý giá hơn cả châu báu, êm ái hơn cả âm nhạc, và khủng khiếp hơn cả cái chết!
Chúng tôi tiếp tục nói, chẳng mảy may để ý đến bóng tối đang dần phủ xuống, và lúc ấy Tessie đang van nài tôi hãy vứt bỏ chiếc kẹp ngọc mã não đen có khảm ký hiệu kỳ quái, mà giờ đây chúng tôi đã biết là Dấu Hiệu Vàng (Yellow Sign). Tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu được vì sao tôi đã từ chối, mặc dù ngay giờ đây, trong phòng ngủ này, khi tôi viết lời thú tội này, tôi cũng muốn biết điều gì đã ngăn tôi xé phăng Dấu Hiệu ấy khỏi ngực mình và ném nó vào lửa. Tôi chắc rằng mình đã muốn làm thế, vậy mà Tessie cầu xin mãi vẫn vô ích.
Đêm buông xuống và thời gian lặng lẽ trôi, nhưng chúng tôi vẫn thì thầm với nhau về Nhà Vua và chiếc Mặt Nạ Xám Xịt. Chuông nửa đêm vang lên từ những đỉnh tháp mờ ảo trong thành phố phủ sương. Chúng tôi nói về Hastur và Cassilda, trong khi bên ngoài, màn sương dày cuộn mình dội vào khung cửa sổ như những đợt sóng mây vỗ vào bờ hồ Hali.
Ngôi nhà lúc này yên ắng lạ thường, và chẳng một âm thanh nào vọng lên từ con phố mù sương phía dưới. Tessie nằm giữa những chiếc gối, khuôn mặt cô như một vết nhòe xám trong bóng tối, nhưng tay cô vẫn đan chặt lấy tay tôi, và tôi biết rằng cô hiểu và đọc được suy nghĩ của tôi như tôi đọc được suy nghĩ cô, vì chúng tôi đã hiểu được điều huyền bí nơi chòm Hyades, và Bóng Ma Sự Thật đã được vén lên.
Rồi khi chúng tôi giao tiếp với nhau, nhanh chóng, lặng lẽ, từ ý nghĩ sang ý nghĩ, bóng tối xung quanh dường như chuyển động. Từ những con phố xa xa, chúng tôi nghe thấy một âm thanh. Tiếng đó mỗi lúc một gần hơn — tiếng bánh xe nghiền nát mặt đường một cách nặng nề. Gần hơn. Gần nữa. Và giờ thì ngay trước cửa, nó dừng lại. Tôi lê thân mình đến bên cửa sổ và thấy một chiếc xe tang phủ lông vũ đen tuyền. Cánh cổng bên dưới mở ra rồi đóng lại, và tôi run rẩy bò về phía cửa phòng, cài then lại, nhưng tôi biết không then khóa nào ngăn nổi sinh vật đang đến để đòi lấy Dấu Hiệu Vàng. Và rồi tôi nghe thấy nó đang di chuyển rất khẽ dọc hành lang. Giờ nó đứng ngay trước cửa, và các then chốt mục nát dưới cái chạm tay của nó. Giờ thì nó đã bước vào. Mắt tôi trợn trừng, căng ra để nhìn vào bóng tối, nhưng khi nó vào phòng thì tôi không hề thấy nó. Chỉ đến khi tôi cảm thấy bị bao bọc bởi cái ôm lạnh lẽo, mềm mại của nó, tôi mới thét lên và vùng vẫy trong cơn giận dữ tuyệt vọng — nhưng đôi tay tôi đã vô dụng, và nó xé chiếc kẹp mã não khỏi áo tôi rồi đánh mạnh vào mặt tôi. Và khi tôi ngã xuống, tôi nghe thấy tiếng kêu mềm yếu của Tessie và linh hồn cô bay đi: và ngay trong khoảnh khắc gục ngã, tôi đã khao khát được theo cô, vì tôi biết rằng Nhà Vua mặc áo vàng đã mở tấm áo choàng rách nát của mình, và lúc này chỉ còn thể cầu cứu đến Chúa.
Tôi có thể kể thêm nữa, nhưng tôi không thấy điều đó còn ích gì cho thế gian. Còn tôi, tôi đã vượt khỏi tầm cứu rỗi hay hy vọng của loài người. Khi tôi nằm đây viết, không còn màng sống chết ra sao trước khi kịp viết xong, tôi thấy vị bác sĩ đang thu dọn những ống thuốc và lọ nhỏ bằng một cử chỉ mơ hồ hướng về linh mục tốt bụng bên cạnh, mà tôi đã hiểu.
Họ ngoài kia sẽ rất tò mò muốn biết về bi kịch này — những người của thế giới bên ngoài, những kẻ viết sách và in hàng triệu tờ báo — nhưng tôi sẽ không viết thêm nữa, và vị cha giải tội sẽ niêm phong lời cuối cùng của tôi bằng ấn thánh khi nghi lễ cuối cùng hoàn tất. Những kẻ ngoài kia có thể sai người của họ đến lục lọi các ngôi nhà đổ nát, nơi lửa và cái chết đã giáng xuống, và báo chí của họ sẽ sống nhờ vào máu và nước mắt, nhưng với tôi, bọn do thám của họ sẽ phải dừng lại trước tòa giải tội.
Họ biết rằng Tessie đã chết và tôi đang hấp hối. Họ biết rằng khi những người trong nhà, bị đánh thức bởi tiếng thét địa ngục, xông vào phòng tôi, họ thấy một người sống và hai người đã chết. Nhưng họ không biết điều tôi sắp nói ra đây; họ không biết rằng vị bác sĩ, khi chỉ tay về phía đống thịt thối rữa ghê tởm trên sàn — cái xác xanh xám của gã gác chuông nhà thờ — đã nói:
“Tôi không có giả thuyết, không có lời giải thích. Người này chắc chắn đã chết từ nhiều tháng trước!”
Tôi nghĩ tôi sắp chết. Tôi ước gì vị linh mục có thể.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch và giới thiệu
Tháng 6 / 2025
Nguồn
https://americanliterature.com/author/robert-w-chambers/book/the-king-in-yellow/the-yellow-sign
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire