lundi 9 janvier 2023

LANGSTON HUGUES

LANGSTON HUGUES

      1902 - 1967 


       Một nghệ sĩ phải được tự do chọn việc mình làm, hẳn nhiên như vậy, nhưng          anh ta cũng phải không bao giờ sợ hãi khi làm những việc mình đã chọn.

      ( An artist must be free to choose what to do, certainly, but he must also never    be afraid to do what he might choose. ) 




Nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch Mỹ.

Sinh tại Missouri ngày 1/2/1902, James Langston Hugues chẳng phải là người “ đen, đen như đêm tối” mà một trong những bài thơ đầu tiên của ông nói tới. Về họ nội, ông thuộc dòng dõi một người buôn nô lệ Do thái ở Kentucky và một người chưng cất rượu gốc Écossais. Họ bên ngoại của ông cũng không kém phức tạp.

Sau khi ông ra đời, cha ông quyết định bỏ đi sang Mexico, nơi không còn phải chịu nạn phân biệt chủng tộc. Hai vợ chồng đành phải chia tay. Bà mẹ chỉ sống nhờ thu nhập ít ỏi khi kiếm được việc làm, không thể chăm sóc con.

Học xong bậc trung học, Langston Hugues làm giáo viên dạy tiếng Anh ở Mexico, có thời gian ông sống ở châu Âu. Năm 1926, in tập thơ đầu tiên   « Weary Blues “ ( những khúc Blues buồn). Khi bắt đầu nổi tiếng, ông mới vào Đại học Lincoln và tốt nghiệp năm 1929. Năm 1943, nhận bằng tiến sĩ văn chương của Đại học Lincoln, năm 1963, nhận bằng tiến sĩ văn chương thứ hai của Đại học Harvard. Năm 1962, sang Liên Xô, sau đó sang Trung Quốc, Tây Ban Nha rồi trở về Mỹ.

Chỉ sống 65 năm, ông để lại nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại: 16 tập thơ, nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch và truyện viết cho thiếu nhi. Những tập thơ nổi tiếng nhất: Shakespeare in Harlem, 1942; One-Way Ticket, 1945; Montage of a Dream Deferred, 1952; The Panther and the Lazer, 1967.

Châm ngôn của ông trong công việc là: 

Điều duy nhất để hoàn tất một việc là bắt tay vào làm, tiếp tục thực hiện và cuối cùng bạn cũng hoàn tất nó “ ( The only way to get a thing done is to start to do it, then keep on doing it, and finally you’ll finish it ).


Ông viết nhiều thơ nhưng tựu trung, các chủ đề chính trong thơ ông đều xuất phát từ cuộc sống cá nhân, kinh nghiệm với dân tộc, những cuộc du hành, và sự dấn thân vào phong trào đấu tranh chống nạn kỳ thị chủng tộc.


  • Tự hào chủng tộc.

Thơ Langston Hugues nêu bật chủ đề về tự hào chủng tộc. Ông có niềm tin mãnh liệt về sự tự hào đó, có thể nói ông là người phát ngôn của chủng tộc mình. Ông luôn thúc giục đồng bào mình hãy tự hào về chủng tộc. Nhiều bài như “ I, too »

( Tôi cũng vậy ) “ The Negro speaks of Rivers «  ( Người da đen nói về những dòng sông) là những bài tiêu biểu.

Trong bài “ Color «  ( Sắc màu) nói với đồng bào mình:


Wear it

Like a banner

For the proud

Not like a sproud.


Hãy mang nó 

Như một ngọn cờ 

Để tự hào 

Không phải như vải liệm.


  • Sự trục xuất và di sản văn hoá.

Ông lột tả lịch sử sự trục xuất những người nô lệ khỏi những dòng sông đen tối và những đại dương. Ông liên kết chủng tộc những người Mỹ da đen với những dòng sông. Ông nối kết tâm hồn và di sản của cộng đồng người da đen với bốn con sông lớn ở Trung Đông, châu Phi và châu Mỹ. Bằng cách này, bài thơ phác hoạ hành trình của người da đen và nối kết cộng đồng này với sự khai sinh văn hóa. Ông nhấn mạnh sự tồn tại của chủng tộc da đen với phong trào qua thời gian.


 The Negro speaks of Rivers


I’ve known rivers

I’ve known rivers ancient as the world and older

than the flow of human blood in human veins 

My soul has grown deep like the rivers 

I bathed in the Euphrates when dawns were young.

I built my hut near the Congo and it lulled me to sleep.

I looked upon the Nile and raised the pyramids above it.

I heard the singing of the Mississippi when Abe Lincoln 

    went down to New Orleans, and I’ve seen its muddy

    bosom turn all golden in the sunset.

I’ve known rivers:

Ancient, dusky rivers.

My soul has grown deep like the rivers.


Người da đen nói chuyện về những dòng sông.

Tôi biết những dòng sông

Tôi biết những dòng sông cổ xưa như trái đất và già hơn dòng máu trong nhân gian trong huyết quản của con người.

Tâm hôm tôi trở nên sâu thẳm như những dòng sông.

Tôi tắm trong dòng sông Euphrates trong binh minh son trẻ 

Và dựng lều gần dòng Congo.

Rồi nó ru tôi vào giấc ngủ.

Tôi nhìn xuống dòng Nile và dựng lên những kim tự tháp trên chính dòng sông.

Tôi đã nghe tiếng hát con sông Mississippi xuôi dòng xuống New Orleans 

và tôi thấy lòng sông bùn lầy trở nên vàng óng ả bởi hoàng hôn.

Tôi biết những dòng sông

những dòng sông cổ xưa và mờ tối 

Tâm hồn tôi bỗng trở nên sâu thẳm như những dòng sông.


Bài thơ ngụ ý rằng những con sông lớn trên thế giới, nền văn hoá châu Phi sẽ tồn tại và ngày càng sâu thẳm ).


  • Bất công xã hội và sự đấu tranh đòi bình đẳng.

Thơ ông giải thích những điều kiện xã hội không công bằng mà người da đen phải chịu: một loạt các bài thơ như I dream a world, Open Letter to the South, Justice, Let America Be America Again, I Too, Mother to Son… đều nói rõ sự bất công người da đen phải chịu và hy vọng sẽ đòi được công bằng.


I, too

I, too, sing America 

I am the darker brother 

They send me to eat in the kitchen 

When company comes,

But I laugh,

And eat well

And grow strong,

Tomorrow I’ll be at the table

when company comes

Nobody’ll dare

say to me 

to eat in the kitchen.

Besides,

They’ll see how beautiful I am

And are ashamed.

I, too, am America.


Tôi cũng vậy.

Tôi cũng ngợi ca nước Mỹ chứ 

Tôi là người anh em da sậm

bị đuổi xuống bếp ngồi ăn 

Khi có khách đến nhà.

Nhưng tôi vẫn cười 

ăn khoẻ và lớn mạnh.

Mai này 

Tôi sẽ ngồi cùng bàn 

Khi nào có khách 

Lúc ấy sẽ không ai 

dám bảo tôi 

“ mi xuống bếp mà ăn “.

Mặt khác 

họ sẽ lấy làm hổ thẹn 

khi nhận thấy tôi đẹp biết mấy.

Tôi cũng là nước Mỹ vậy.


  • Giấc mơ nước Mỹ.

Đây là giấc mơ của tất cả cộng đồng da đen, đây là lý tưởng có thể mang lại công bằng bất chấp màu da của mọi công dân. Lịch sử châu Mỹ là vùng đất của tự do, công bằng để thực hiện giấc mơ của mỗi cá nhân. Sau khi xoá bỏ chế độ nô lệ, trong khi người da trắng thực hiện giấc mơ nước Mỹ thì người da đen vẫn chưa được công nhận là thành phần của giấc mơ đó.


  • Phân biệt chủng tộc.

Trong nhiều thế kỷ, người da đen phải chịu sự phân biệt đối xử của xã hội Mỹ. Đạo luật Jim Craw đã không cho họ quyền bầu cử, tìm việc làm, không được giáo dục và những cơ hội khác. Người da đen không được theo học những trường dành cho người da trắng, không được đến công viên, không được ngồi cạnh người da trắng trong rạp hát hay những nơi công cộng.


  • Sự đấu tranh và đau khổ của người da đen

Đây là một cuộc đấu tranh không ngưng nghỉ, họ phải chịu thù ghét và áp bức. Thơ ông mô tả quá trình bị làm nô lệ, bị lao động, mua bán như những món đồ chơi. Đây là điểm tối của lịch sử nước Mỹ, người da đen phải ý thức điều đó.


  • Mơ ước của người Mỹ da đen.

Một loạt bài thơ đều mang nhan đề  gắn với Mơ ước ( Dream ): Dream Deferred, Dreams, Dream Variation, I Continue to Dream, As I Grow Older, The Dream Keeper.



  • Sự quan trọng của Âm nhạc, đặc biệt là Blues và Jazz.

Âm nhạc có ảnh hưởng sâu sắc đến Langston Hugues. Ông coi đây là loại hình nghệ thuật duy nhất để diễn đạt của người Mỹ da đen. Ông gắn kết chúng với thơ để ca ngợi di sản văn hoá châu Phi, lập nên một trường phái gọi là thơ ca jazz ( jazz poetry), và ông trở thành một jazz poet nổi tiếng trong thời Phục hưng Harlem.

Cần hiểu Blues là dân ca xuất phát từ những người nô lệ ở miền Nam Hoa Kỳ. Blues có hình thức và âm điệu rất khác biệt các thể loại âm nhạc khác. Ca từ của Blues có hình thức một câu thơ bao gồm nhiều đoản khúc ( stanza ), mỗi đoản khúc có ba câu. Hai câu thơ đầu, mỗi câu được lặp lại hai lần, câu thứ ba là câu dùng để giải thích hay kết luận ý tưởng do câu đầu mở ra.

Blues thường hát về nỗi khổ đau hay thân phận của con người. Ca từ Blues gói ghém nỗi buồn nhân thế, là những bài học rút ra từ kinh nghiệm cuộc đời vì thế chứa đựng những hình ảnh của cuộc sống hiện thực. 

Còn Harlem là thành phố của người da màu di cư từ miền Nam lên để lập nghiệp Harlem cũng là nơi quy tụ những nhạc sĩ Jazz tài ba.

“ Most of my poems are racial in them and treatment, derived from the life I knew. In many of them I try to grasp and hold some of the meanings and rhythms of jazz.”

( Phần lớn thơ của tôi viết về chủ đề phân biệt chủng tộc, và cách ứng xử với tệ nạn này, rút từ kinh nghiệm cuộc đời theo sự hiểu biết của tôi. Trong nhiều bài thơ, tôi cố gắng chuyên chở ý nghĩa và nhịp điệu của jazz )


The Weary Blues 

Droning a drowsy syncopated tune,

Rocking back and forth to a mellow croon,

I heard a Negro play.

Down on Lenox Avenue the other night

By the pale dull pallor of an old gas light

He did a lazy sway. . . .

He did a lazy sway. . . .


Bài Blues mỏi mòn.

Đắm chìm trong điệu nhạc biến thể 

Ngả nghiêng trong tiếng hát ngọt ngào 

Tôi nhhe chàng nghệ sĩ da đen đánh đàn

Một đêm nào dưới đại lộ Lenox

Bên ngọn đèn hơi ga nhợt nhạt

Tiếng đàn lả lơi

Tiếng đàn lả lơi.


  • Lạc quan.

Ông hoàn toàn tin tưởng rằng sẽ có ngày mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn cho người da đen. Ông chỉ ra rằng cuộc đấu tranh của họ, sự kiên trì và nhẫn nại của họ sẽ không vô ích. Ông tin là thế giới sẽ thay đổi, sẽ tốt đẹp hơn, sẽ có công bằng xã hội bất chấp màu da. Những bài thơ chủ đề này rõ nét nhất là I, too; Youth; Black Workers; Freedom’s Plow; Life is Fine.


Life is Fine.

I went down the river 

I sat down on the bank

I tried to think but I couldn’t 

So I jumped in and sank.

I came up once and hollered

I came up twice and cried

If that water hadn’t a-been so cold 

I might’ve sunk and died 

But it was

Cold in that water

It was cold!

I took the elevator 

Sixteen floors above the ground 

I thought about my baby 

And thought I would jump down.


I stood there and I hollered

I stood there and I cried 

If it hadn’t been so high 

I might jump and died

But it was

High up there!

It was high!

So since I’m still here living 

I guess I will live 

I could’ve died for love 

But for living I was born 

Though you my dear my holler

And you may see me cry

I’ll be dogged, sweet baby,

If you gonna see me die

Life is fine

Life is wine

Life is fine.


Đời vẫn đẹp sao

Tôi đi xuống sông 

Tôi ngồi trên bờ 

Tôi cố nghĩ nhưng không thể.

Thế là tôi nhảy xuống nước và chìm lỉm

Tôi trèo lên bờ một lần và gào lên

Tôi trèo lên bờ lần hai và khóc !

Nếu nước không quá lạnh

Tôi có thể đã chìm và đã chết

Harlem

Dưới  nước 

Lạnh lắm

Lạnh quá chừng!


Tôi đi lên thang máy 

Mười sáu tầng trên mặt đất.

Tôi nghĩ đến người yêu của tôi 

Và nghĩ tôi có thể lao xuống 

Tôi đứng trên đó và gào !

Tôi đứng trên đó và khóc!

Nếu nó không cao đến vậy 

Tôi có thể đã nhảy xuống và đã chết.

    Nhưng trên đó.    Cao quá! Cao quá chừng!


Bởi vậy đến giờ tôi vẫn sống 

Tôi có thể đã chết vì tình yêu…

Nhưng nhờ cuộc sống tôi lại được sinh ra 

Dù em có thể nghe tôi gào

Dù em có thể thấy tôi khóc…

Tôi sẽ thật khốn kiếp, em à, 

Nếu em thấy tôi chết 

Đời thật đẹp sao! Đẹp như rượu hồng! Đời thật đẹp sao.



Langston Hugues có nhiều bài thơ rất ngắn, tưởng là giản dị nhưng bài nào cũng khiến người đọc phải suy nghĩ.


*   Dreams

Hold fast to dreams 

For if dreams die

Life is a broken winged bird 

That cannot fly.

Hold fast to dreams

For when dreams go

Life is a barren field 

Frozen with snow.


Hãy giữ chặt ước mơ 

Vì nếu mơ qua rồi 

Đời như chim gãy cánh 

Chẳng thể bay tung trời.


Hãy sống trọn ước mơ 

Vì khi cạn nguồn thơ 

Đời chỉ còn tuyết trắng 

Phủ cánh đồng ước mơ.


Hai tình huống nảy sinh nếu không còn ước mơ. Tầm quan trọng của ước mơ. Ông so sánh việc mất ước mơ như con chim gãy cánh ( cuộc sống vô dụng và vô vọng ). Rồi ông so sánh với cánh đồng tuyết phủ ( lạnh lẽo, cô quạnh ).

Bởi lẽ đó, ước mơ rất quan trọng. Không có nó, cuộc đời không còn ý nghĩa.


  • Black Workers

The bees work

This work is taken from them 

We are like the bees

But it won’t last.


Ong cần cù lao động

Thành phẩm bị tước đoạt mất 

Chúng ta chẳng khác nào loài ong 

Nhưng điều đó chẳng tồn tại lâu đâu.


Người Mỹ da màu là một thiểu số phải chịu áp bức, bất công, và kỳ thị trong mọi mặt của đời sống. Họ không được đối xử như người da trắng. Giống như ong, họ làm ra bao nhiêu bị tước đoạt hết. Nhưng cuối bài là một cảnh báo: Tình hình đó sẽ thay đổi.


  • History 

The past has been a mint

Of blood and sorrow 

That must not be

True of tomorrow.

 

Lịch sử.

Quá khứ từng là kho vô tận

Của máu và khổ đau 

Nhưng rồi sẽ không còn là

Sự thật mai này thôi.


Bài thơ nói lên hy vọng sẽ đổi thay, một tương lai tốt đẹp hơn cho những người da đen. Quá khứ buồn đau sẽ nhường chỗ cho tương lai huy hoàng.


  • Peace

We passed their graves 

The dead was there 

Winners and losers 

Did not care 

In the dark 

They could not see

Who had gained

The victory.


Hoà bình

Chúng tôi đi qua những nấm mộ 

Những người đã khuất an nghỉ nơi đây 

Người thắng và kẻ bại 

Khác gì đâu 

Trong đêm tối 

Họ không thể nhìn ra

Ai là người đã giành được 

Chiến thắng.


Bài thơ nói lên sự phù phiếm của chiến tranh. Thật mỉa mai khi nhận ra mục đích của chiến tranh là giành lấy hoà bình bằng mọi giá. Bài thơ bắt đầu bằng một giọng nghiêm trang. Mỗi dòng rất ngắn nêu bật ý tưởng mỗi người phải suy nghĩ xem chiến tranh có thật sự cần thiết không. Kết quả cuối cùng của chiến tranh chỉ là hủy diệt.


  • Sea calm.

How still 

How strangely still 

The water is today 

It is not good 

For water 

To be so still that way.


Biển lặng

Phẳng lặng biết mấy 

Phẳng lặng lạ thường biết mấy 

Nước hôm nay đó 

Chẳng tốt chút nào 

Nếu nước 

Phẳng lặng như thế kia.


Bài thơ ngắn chứa đựng một thông điệp sâu xa. Khi viết phẳng lặng biết mấy, nhà thơ không hỏi người đọc. Thay vào đó, ông muốn nói lên sự phẳng lặng của mặt nước, đến độ trở thành tự nhiên. Nếu người da đen cứ im lặng, chịu đựng bất công thì hoàn toàn không có lợi. Họ phải nói lên quyền lợi của mình, chiến đấu cho độc lập và bình đẳng. Ngược lại, cũng như nước lặng, họ sẽ chìm, không còn có ích nữa.


* Songs 



I sat there singing her      

 Songs in the dark.           


She said;                          

'I do not understand.         

The words'.


I said;                               

'There are                         

 No words'.


BÀI HÁT


1. Tôi ngồi hát

Cho nàng nghe

Trong bóng tối.


Em không sao

Hiểu được lời

Nàng nói.


Bài ca này

Chẳng có lời 

Em ơi.


2. Tôi ngồi hát 

Cho em nghe

Trong bóng tối

Tiếng thầm thì.


Ôi anh ơi

Em không hiểu

Lời bài ca

Muốn nói gì.


Không, bài hát

Chẳng có lời

Anh hát tiếp

Em nghe đi.


3. Ngồi trong bóng tối

Tôi hát nàng nghe.


Anh ơi - nàng nói

Em không hiểu lời.


Em ơi - đừng hỏi : 

Bài ca không lời!


4. Lặng lẽ em ơi ngồi nghe anh hát

Bóng tối mịt mùng, bóng tối vây quanh.


Lặng lẽ em nghe những lời anh hát

Mà sao không hiểu là sao hở anh?


Lặng lẽ em ơi bài ca anh hát

Không lời, không tiếng, không ảnh, không hình!


Bài thơ ngắn nhưng rất khó hiểu. Nó ẩn chứa một ý nghĩa, một thông điệp khó giải thích. Không biết nhà thơ đang hát cho ai đây. Theo đại từ được dùng ( she ) đây là một cô gái. Nhưng đại từ she cũng có thể là nước Mỹ. Nhà thơ hát cho nàng trong bóng tối ( in the dark ). Ông đang hát cho đất nước mình ngay cả trong tình huống đen tối. Ông làm thơ cho nỗi đau thân phận của người da đen, nhưng đất nước ông, chính phủ ông, những người làm luật không hiểu lời ông. Họ chẳng làm gì cho tự do của người nô lệ.  Có những bài ca không lời, không phải viết để nghe hay để đọc. Mà để cảm nhận nỗi đau của dân tộc ông.

Bài thơ,  suy cho cùng, mang một ý nghĩa triết lý.



***



Sau bao nhiêu năm chiến đấu không mỏi mệt chống nạn kỳ thị chủng tộc, khép lại cuộc đời 65 năm, Langston Hugues qua đời tại một bệnh viện ở New York sau cuộc giải phẫu vì bệnh ung thư đại tràng. Hôm đó là 22/5/1967.

Vinh quang dành cho ông không thiếu:

Ông đã từng đạt nhiều giải thưởng: 

năm 1926, Witter Bynner Undergraduate Poetry Prize.

năm 1954, Anisfield - Wolf Book Award.

Sau khi Ông mất 

năm 1979, một trường trung học ở Reston, Virginia mang tên Ông

năm 2009, đến lượt một trường khác ở Fairburn, Georgia.


Langston Hugues là người Mỹ da đen đầu tiên có thể tự nuôi sống mình với tư cách một nhà văn chuyên nghiệp. Ông cũng là một trong những nhà văn Hoa Kỳ đón nhận sự chú ý nghiêm túc về văn hoá những người da đen ở Hoa Kỳ. 

Trong nửa sau của thế kỷ XX, Ông là một tiếng nói có trọng lượng về nền văn hoá da màu trong thế giới da trắng người Mỹ.



THÂN TRỌNG SƠN 

dịch và giới thiệu 

( tháng 1/2023 ).


lundi 2 janvier 2023

CON MÈO CON MẺO CON MEO

 

CON MÈO CON MẺO CON MEO.



Năm Nhâm Dần sắp hết, năm Quý Mão đã lấp ló bên hiên nhà. Trong cái lạnh thấu xương của những ngày cuối đông, mọi người bỗng thấy thời gian qua mau. Mặc cho Ông Hổ gặm mối căm hờn trong cũi sắt, con thú cưng của nhiều gia đình cứ nhởn nhơ đi lại trong nhà. Nó còn bạo gan đi vào ca dao:


Con mèo mà trèo cây cau 

Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà

Chú chuột đi chợ đàng xa

Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.


Chuột đâu có làm tổ trên cây cau mà mèo trèo lên làm gì? Mà làm giỗ sao lại mua mắm muối? Dù có nhiều cách giải thích khác nhau, ta nên xem đây chỉ là một bài đồng dao thuần tuý, trước hết nhằm củng cố cho trẻ em những hiểu biết thường thức từ gần đến xa, từ cụ thể đến trừu tượng, trong bước đầu các cháu làm quen với sự vật hiện tượng tự nhiên và xã hội xung quanh mình.


Con vật trong nhà đó lại rủ rê nhau đột nhập cả kho tàng tục ngữ, thành ngữ, ca dao khác.

  • Chó giữ nhà, mèo bắt chuột: ai cũng có nghề nghiệp chuyên môn của mình, đừng tị nạnh nhau, đừng can thiệp vào công việc của nhau.
  • Chó treo, mèo đậy: Thức ăn treo cao để tránh chó ăn, đậy kỹ không để mèo lục, ý khuyên cảnh giác cửa nẻo phòng trộm cắp.
  • Chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào: nghĩa bóng nói mỗi người đều có sở trường riêng, chưa chắc ai đã hơn ai.
  • Chửi chó mắng mèo: tức giận, mắng chửi vu vơ.
  • Giấu như mèo giấu cứt: chê người giấu diếm thứ gì, điều gì quá kỹ.
  • Không có chó bắt mèo ăn cứt: phải dùng một người không đúng khả năng, sở trường của người ta.
  • Mèo ốm bắt chuột cống: chỉ người tuổi trẻ tài cao, làm được những việc mà người lớn làm không nổi.
  • Mèo mù vớ cá rán: vận may bất ngờ đến với kẻ đang túng quẫn.
  • Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang: một quan niệm mê tín thời xưa còn truyền lại.
  • Mèo già hoá cáo: người già sống lâu đúc kết nhiều kinh nghiệm quý báu, người mới đầu làm việc gì thì rụt rè, nhút nhát nhưng lâu năm thì tinh ma, ranh mãnh.
  • Mèo khen mèo dài đuôi: tự đề cao, khen ngợi.
  • Mèo mả, gà đồng: hạng người vô lại, trai trộm cắp, gái lăng loàn.
  • Mỡ để miệng mèo: đặt trước mặt người ta thứ mà người ta đang thèm.
  • Như mèo thấy mỡ: giễu người tỏ vẻ hăm hở trước thứ đang thèm muốn.
  • Tiu nghỉu như mèo cắt tai: thất vọng, buồn rầu không muốn nói năng, không muốn làm gì.
  • Lèo nhèo như mèo vật đống rơm: nói dai, nói đi nói lại để van xin.
  • Hùm mất hươu hơn mèo mất thịt: càng mất quyền lợi địa vị cao càng đau khổ hơn người ở địa vị thấp.
  • Im ỉm như mèo ăn vụng: ám chỉ những kẻ cố tình che giấu tôi lỗi của mình, cố im lặng tuyệt đối, hoặc những kẻ hễ thấy lợi là giấu diếm hưởng một mình, không cho ai hay biết.
  • Chuột cắn dây buộc mèo: làm ơn cho kẻ có thể hại mình.
  • Con mèo con mẻo con meo / Muốn ăn thịt chuột phải leo xà nhà: muốn ăn thì phải làm.
  • Mèo lại hoàn mèo: bản chất thế nào thì vẫn thế ấy, khó thay đổi.
  • Mèo nằm xó bếp: chỉ kẻ lười biếng.
  • Rình như mèo rình chuột: ngồi rình một cách chăm chú, kiên nhẫn.
  • Chó chê mèo lắm lông: mình cũng xấu kém lại chê người khác xấu kém.
  • Mèo già khóc chuột: chỉ kẻ đạo đức giả.
  • Con mèo con chó có lông / Cây tre có mắt nồi đồng có quai: Câu ca dao nghe qua tưởng là giản dị vì đã nói lên những chuyên đương nhiên, ai cũng hiểu, ai cũng biết. Mèo chó có lông, tre có mắt, nhưng nồi đồng có quai thì đâu có phải là đương nhiên. Thử tìm hiểu thêm thì mới vỡ lẽ: Quảng Nam Phú Tập Ký Sự của Mai Thị do Lê Đăng Hiển sao lục đời Minh Mạng có ghi việc Ông Bùi Tá Hán, đô tướng Quảng Nam dinh ( tức vùng đất bao gồm Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và một phần của Phú Yên hiện nay) dạy dân Quảng Nam cách sinh hoạt thường ngày như xây nhà ba gian tám cột, đào giếng, khuyên phụ nữ thôi mặc quần không đáy mà mặc quần có ống như nam giới, phải làm nồi đồng có quai ở cổ để tiện việc bưng lên bưng xuống.   Nguồn gốc sâu xa là vậy nên hiểu đúng câu ca dao này cũng thật nhiêu khê.


Mỏi mệt với kho tàng văn học dân gian, mèo tìm chút thoải mái hơn với thơ, trước hết là thơ cho trẻ em.


Mèo con đi học.

     Hôm nay trời nắng chang chang 

     Mèo con đi học chẳng mang thứ gì 

     Chỉ mang một cái bút chì,

     Và mang một mẩu bánh mì con con.

        Thơ Phan Thị Vàng Anh ( đã đưa vào sách lớp 1 )


Chú mèo mướp 

  Chú mèo mướp 

  Thích leo trèo 

  Trèo không khéo 

  Nên nằm khoeo! 

     Thơ Phạm Văn Tịnh ( đã đưa vào sách lớp 2 )


Mèo đi lạc đến miền quá khứ 

    Gặp Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ:

   Bóng nắng dọi trứng gà trên vách, thằng bé tri trô

   Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.


    Rồi Nguyễn Trãi với Quốc Âm Thi Tập và bài MIÊU:

   Lọ vằn sinh lạ mãi phương Tây

   Phụng sự Như Lai trộm phép thầy 

   Hơn chó được ngồi khi mặt bếp 

   Tiếc hùm chẳng bảo chuốc leo cây.

   Đi: nào kẻ cấm buồng the kín

   Ăn: đợi ai làm bàn soạn đầy

   Khó liền say chẳng nỡ phụ

   Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày.


Mèo lại đi nữa và diện kiến Cử Trị với Vịnh con mèo:


   Mấy từng đài các sải chân leo

   Nhảy lẹ chi hơn bằng giống mèo 

   Vuốt nanh đã có vàng khoe sắc

   Vằn vện đành không bụi đóng meo 

   Trăm tuổi hồn dần về chín suối 

   Nắm lông để lại giúp trò nghèo.


Chừng như không hiểu thấu thơ cổ, Mèo tìm đến thơ hiện đại.

Đây rồi, ông thầy dạy triết làm thơ:

   Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm

   Như con mèo ngái ngủ trên tay anh

   Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình

   Để anh giận sao chẳng là nước biển.

          Nguyên Sa.

Đi nữa, Mèo gặp Đoàn Văn Cừ:

   Ông lão nằm chơi ở giữa sân

   Tàu cau lấp lánh ánh trăng ngần

   Thằng cu đứng vịn bên thành chõng

   Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân. 

               ( Trăng hè )

Rồi tới Hoàng Nhuận Cầm:

   Ta đã đi như mèo trên phố vắng 

   Gọi tên con như gọi các thiên thần 

   Có một nốt chưa bao giờ con biết tới 

   Là nốt buồn cha đã nuốt thay con.

                 ( Nhớ ngày mai )


Và còn Đoàn Mạnh Phương nữa:

   Chuột đuổi nhau trên căn gác cũ

   Mắt mèo hoang lấp lánh như sao

   Gió như muốn gọi nhau thành bão

   Chém vào đêm những nhát ngọt ngào

           ( Đêm tối trời).

 

***

  Cái tính ưa đi hoang nên Mèo muốn đi xa nữa. Thôi ráng chiều vậy.

Mời sang đất nước hình lục lăng đọc lại truyện cổ của Charles Perrault  ( 1628-1703), Le Chat Botté, tức là Con mèo đi hia:

   Câu chuyện bắt đầu với việc một bác thợ săn già qua đời và để lại gia tài là một cối xay gió, một con lừa và một con mèo cho ba người con trai. Người con trai cả giành lấy cối xay gió, người anh hai có được con lừa, còn phần của người em út là con mèo. Nhưng đó không phải là một con mèo bình thường, nó biết nói- yêu cầu chàng út cho nó một đôi hia và đã được đáp ứng. Nhất quyết muốn cho chủ mình được giàu sang, mèo đã dùng mưu bẫy được một con thỏ trong rừng rồi đem đến biếu nhà vua coi như một món quà đến từ chủ của mình, hầu tước xứ Carabas,một tước hiệu do mèo đặt ra. Ngày lại ngày, mèo đi săn và nuôi sống được chủ của mình. Bên cạnh đó nó còn đem dâng nhà vua những con mồi săn được, lúc thì một cặp gà gô, khi thì một con thỏ béo tốt, cứ thế trong vòng vài tháng,

     Một hôm, khi thấy đã đến lúc, mèo đi hia thuyết phục chủ mình đi ra bờ sông tắm khi biết nhà vua và công chúa sắp đi qua đây. Thực vậy, một lát sau xe của đức vua đến, mèo nói với nhà vua là chủ nhân của mình, hầu tước xứ Carabas, bị trộm mất quần áo khi đang tắm, thực ra mèo đã giấu quần áo của chàng sau tảng đá. Nhà vua nghe vậy, truyền cho người hầu lấy một trong số những bộ quần áo của mình cho chàng mặc và đưa chàng ngồi chung xe. Khoác lên mình bộ quần áo của nhà vua, chàng út trông chẳng khác gì một nhà quý tộc khôi ngô và lập tức lọt vào mắt xanh của công chúa.

       Con mèo đã chạy nhanh về phía trước theo con đường mà xe nhà vua sắp đi qua. Trên đường, gặp bất cứ người nông dân nào đang gặt lúa hay đang chăn gia súc, đốn củi, mèo yêu cầu những người đó nói với nhà vua rằng mảnh đất này thuộc về hầu tước xứ Carabas, nếu không họ sẽ gặp hoạ. Tiếp đó, mèo chạy đến một toà lâu đài lộng lẫy, hơn cả cung điện nhà vua, là nơi ở của một mụ phù thuỷ tàn ác có thể tự biến mình thành các sinh vật khác nhau. Theo lời sai bảo của mèo, phù thuỷ biến thành một con sư tử rồi cuối cùng biến thành một con chuột. Khi đó mèo vồ lây chuột và nhai ngấu nghiến. Khi nhà vua đến toà lâu đài, ngài rất thán phục trước sự giàu sang của hầu tước xứ Carabas và liền gả công chúa cho chàng. Sau đó, mèo đi hia sống cuộc đời hạnh phúc nhưng chỉ bắt chuột như một thú tiêu khiển.


Mèo còn muốn phiêu lưu thêm chút nữa. Rời nước Pháp bay tuốt sang Nam Mỹ gặp nhà văn Paolo Coelho. Ông có cuốn sách về sự điên rồ ( Veronika quyết định chết ) với bài 

Tầm quan trọng của con mèo trong Thiền định


Một thiền sư vĩ đại của Thiền, người phụ trách tu viện Mayu Kagi, có một con mèo là niềm đam mê của mình trong cuộc sống. Vì vây, trong các lớp thiền, ông thường giữ con mèo bên cạnh - để tận dụng tối đa công việc của mình. Một buổi sáng, ông chủ, người đã khá già, qua đời. Đệ tử tốt nhất của ông đã thay thế ông.

  • Chúng ta sẽ làm gì với con mèo? Ông hoi các nhà sư khác. 

Như một sự tôn vinh ký ức của người hướng dẫn cũ của họ, chủ mới quyết định cho con mèo tiếp tục tham gia các lớp học Thiền.

Một số đệ tử từ các tu viện lân cận, đi qua nơi đó, phát hiện ra ràng tại một trong các tu viện nổi tiếng nhất của khu vực, một con mèo đã tham gia vào các buổi thiền. Câu chuyện bắt đầu lan truyền.

Nhiều năm trôi qua và các chuyên luận kỹ thuật bắt đầu xuất hiện về tầm quan trọng của mèo trong Thiền định. Một giáo sư đại học đã phát triển một luận án, được cộng đồng học thuật chấp nhận, rằng một con mèo có khả năng tăng sự tập trung của con người và loại bỏ lượng tiêu cực. Và, vì vậy, trong cả một thế kỷ, con mèo được coi là một phần thiết yếu của nghiên cứu Phật giáo ở khu vực đó.

Cho đến khi một bậc thầy xuất hiện, người bị dị ứng với lông động vật, đã quyết định bỏ con mèo khỏi các bài tập của mình với các sinh viên.

Có một phản ứng dữ dội nhưng ông chủ mới nhấn mạnh, vì ông là một người hướng dẫn xuất sắc, các sinh viên tiếp tục đạt được tiến bộ tương tự, bất chấp sự vắng mặt của con mèo.

Dần dần, các tu viện - luôn tìm kiếm những ý tưởng mới và đã mệt mỏi vì phải nuôi rất nhiều mèo, bắt đầu loại bỏ các động vật khỏi các lớp học. Trong hai mươi năm, những lý thuyết cách mạng mới bắt đầu xuất hiện - với những tiêu đề rất thuyết phục như ra mắt Tầm quan trọng của việc Thiền định mà không cần mèo, hay Cân bằng vũ trụ Thiền bởi Will Power Alone, Không có sự giúp đỡ của Động vật.

Một thế kỷ nữa trôi qua, và con mèo đã rút hoàn toàn khỏi các nghi thức Thiền định trong khu vực đó. Nhưng hai trăm năm là cần thiết để mọi thứ trở lại bình thường, bởi vì trong suốt thời gian này, không ai hỏi tại sao con mèo lại ở đó.


***

Mèo của chúng ta còn muốn đi nữa. Lần này sang Bắc Mỹ gặp Nhà văn Edgar Allen Poe, với truyện Con mèo đen ( The Black Cat ).


Truyện là lời thú tội của nhân vật xưng Tôi. Tôi muốn kể lại câu chuyện của cuộc đời mình xoay quanh “ con mèo đen “. Thuở nhỏ, anh ta vốn là cậu bé nhút nhát, nhân hậu, yêu thú vật. Khi lớn lên, anh ta uống rượu rồi dần dần trở nên hung bạo hành hạ thú vật và đánh đập vợ.

Tôi khoét mắt, treo cổ con mèo đen tên Pluto, vốn là vật nuôi trước đây anh ta rất yêu quý.Hoả hoạn xảy ra, trên bức tường cháy loang lỗ hiện ra gương mặt con mèo khổng lồ và nút dây thắt cổ. Tôi hối hận và tìm kiếm con mèo trong các quán rượu.

Một hôm, anh ta tìm được một con mèo đen giống hệt Pluto, cũng bị khoét mắt nhưng nó có một đốm trắng ở cổ. Anh ta đem con mèo về nuôi và hứa sẽ yêu quý nó. Nhưng khi say rượu, anh lại chán ghét con mèo.

Một hôm khác, trên đường xuống hầm, bị con mèo quấn chân, anh ta định giết con mèo nhưng bị người vợ cản lại, nhân vật Tôi đã giết vợ và chôn xác sau bức tường trong hầm. Bốn ngày sau, cảnh sát đến điều tra. Anh vô cùng tự tin dẫn cảnh sát xuống hầm và gõ vào bức tường mới xây để chứng minh vô tội, thì có tiếng mèo kêu. Thì ra lúc chôn xác vợ,anh đã chôn luôn con mèo vào đó.


***

 Mèo của chúng ta rùng mình trước câu chuyện có phần kinh dị. Hơn nữa,cuộc phiêu lưu đã khá lâu, từ lúc đi ra khỏi hang chuột nên nó quyết định trở về để tiếp tục trèo lên cây cau, hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.


Mèo trở về, chuẩn bị nhận bàn giao từ ông ba mươi.


Và bạn đọc, nãy giờ theo con mèo đi xa rồi, cũng về đi, chuẩn bị cúng giao thừa, đón năm mới.

Xin tạm biệt.



THÂN TRỌNG SƠN.

 

Xuân Quý Mão.