jeudi 12 août 2021

BUỔI HỌC CUỐI CÙNG

 

BUỔI HỌC CUỐI CÙNG

Chuyện kể của một cậu bé người xứ Alsace



Truyện ngắn

Alphonse Daudet

(1840-1897)





Alphonse Daudet sinh năm 1840 tại Nîmes, tuổi thơ êm đềm trải qua tại miền nắng gió Provence, sau này sẽ là nguồn cảm hứng cho nhà văn khai thác trong các tác phẩm của mình. Chỉ tiếc là cả gia đình phải sớm rời nơi này để chuyển đến Lyon, khi xưởng tơ vải của người cha bị phá sản phải đóng cửa. Một thời gian sau, ông lại theo anh là Ernest lên Paris sinh sống. Chính người anh này đã khuyến khích Alphonse Daudet tập tành viết lách. Ông sáng tác tập thơ tình ( Les amoureuses ) rồi viết nhiều đoản văn phản ánh hiện thực xã hội. Có thể mầm mống văn tài sớm bộc lộ nên ông được  Công  tước de Morny 

( bộ trưởng dưới thời Napoléon Iii ) nhận làm thư ký, vị trí giúp ông bảo đảm cuộc sống. Cũng nhờ sự bảo trợ của vị này, ông viết được vài vở kịch ngắn, được mang đi trình diễn. (La Dernière idole, 1862; Les Absents, 1864; L'Œillet  blanc, 1865 ). Ông đảm nhiệm việc này cho đến lúc Công tước de Morny qua đời năm 1865. Từ đây Alphonse Daudet bắt đầu chính thức sống bằng ngòi bút của mình. Chỉ một năm sau, những sáng tác đầu tiên đã xuất hiện trên các báo. “ Tartarin de Tarascon “ là trường thiên tiểu thuyết gồm ba quyển, xuất bản năm 1872, được giới phê bình tán thưởng, khẳng định vị trí của tác giả trên văn đàn. 


Ông còn in thêm nhiều truyện dài khác nữa, nhưng đối với độc giả Việt Nam thì quen thuộc hơn hết vẫn là những tác phẩm sau:


Le Petit Chose, truyện dài ( hơn 200 trang, xuất bản năm 1868 ), thuật lại “ những cuộc phiêu lưu của một cậu bé đang dần trở thành người lớn”, vẽ nên khung cảnh thấm đẫm tình cảm nhân văn, với nhân vật chính sớm đánh mất tuổi thơ vì hoàn cảnh cuộc sống không như các bạn cùng lớp. Ai cũng gọi cậu bằng biệt danh “ Le Petit Chose“ mà không bao giờ gọi tên thật Daniel Eyssette. Đây là một dạng tự truyện với rất nhiều chi tiết liên quan đến nhân vật chính hoàn toàn giống với tác giả.


Lettres de mon moulin, tập truyện ngắn, xuất bản năm 1869, là một dạng hồi ký về thời niên thiếu của tác giả. “ Thư viết từ cối xay của tôi “ là khuôn mẫu của thứ văn phong nhẹ nhàng, trau chuốt, với những trang viết từng làm say đắm bao thế hệ học sinh yêu văn chương và ngôn ngữ Pháp. Bốn, năm chục năm sau, những người này vẫn còn nhớ mãi câu chuyện “ Những vì sao “ ( Les étoiles ) kể chuyện anh mục đồng mộng mơ lãng mạn ngắm sao trời ngỡ chuyện yêu thương. Anh thuộc tên các vì sao và muốn tìm hiểu sự bí mật của vũ trụ.

Truyện “ Con dê của ông Seguin “ ( La chèvre de monsieur Seguin ) hấp dẫn bạn đọc trẻ tuổi kiểu khác. Truyện mang tính triết lý, sự yên tĩnh của đồng quê có giới hạn của nó. Con dê đâu chỉ cần an toàn ăn cỏ trên đồng, nó còn thèm khát tự do. Nó bứt dây buộc, lên núi và gặp sói. Nó chiến đấu suốt đêm với con sói hung dữ, dù cuộc chiến không cân sức nhưng vẫn là một câu chuyện đẹp.


Contes du Lundi, tập truyện ngắn ( xuất bản năm 1873 ), gồm ba phần với tổng cộng 42 truyện, tất cả đều lấy cảm hứng từ cuộc Chiến tranh Pháp - Phổ, 1870-1871, trong đó “ La dernière classe “, Buổi học cuối cùng, là truyện đầu tiên và có lẽ cũng là truyện hay nhất của tuyển tập “ Truyện kể ngày thứ hai “ này.


Pháp thua trận, phải giao hai tỉnh Alsace và  Lorraine cho nước Phổ, và chính quyền mới buộc các trường học ở đây phải dạy tiếng Đức thay cho tiếng Pháp. Buổi học cuối cùng, vì thế, không phải là buổi học cuối của năm học để thầy trò chia tay về nghỉ hè, mà là buổi học cuối để sau đó thầy không thể dạy trò không thể học tiếng Pháp được nữa. Đến lúc này, thầy giáo mới có dịp giảng cho học trò rằng tiếng Pháp “là ngôn ngữ đẹp nhất trên thế giới, trong sáng nhất, hợp lý nhất, vững vàng nhất, và cần bảo vệ nó, đừng bao giờ được phép quên điều đó, vì khi một dân tộc bị rơi vào vòng nô lệ, chừng nào còn giữ vững tiếng nói của mình thì không khác gì nắm được chiếc chìa khoá mở cửa tù giam.”

Suy nghĩ bất chợt của cậu học trò Frantz khi nghe tiếng gù gù của mấy  con chim bồ câu “ Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ? “ là mối cảm hoài cay đắng, khi nhận ra mảnh đất quê hương không giữ được.





***********




Sáng hôm ấy tôi tới trường trễ, rất lo sẽ bị la, nhất là vì thầy Hamel đã dặn sẽ dò bài về thể phân từ, mà tôi thì không hiểu chữ nào. Có lúc tôi đã nghĩ đến chuyện trốn học, bỏ đi lêu lổng ngoài đồng. Trời thì ấm áp  và tươi đẹp quá thế này.


Nghe có tiếng chim ríu rít ở bìa rừng, và trên cánh đồng Rippert đàng sau xưởng cưa, đám lính Phổ đang tập trận. Những thứ này hấp dẫn tôi hơn cái món mẹo luật phân từ, nhưng tôi cũng còn cưỡng lại được, và tôi ba chân bốn cẳng chạy tới trường.


Khi đi ngang Toà Thị Chính, tôi thấy đám đông người đang tụ tập trước bảng cáo thị. Suốt hai năm qua, mọi tin xấu đều từ nơi đó mà ra, nào tin thua trận, nào là lệnh tuyển binh, rồi các chỉ thị của bộ chỉ huy, tôi tự hỏi, chân vẫn không dừng: “ Lại chuyện gì nữa đây?”

Thế rồi, khi tôi vội vàng chạy qua khu quảng trường, bác thợ rèn Wachter đang đứng đọc bảng cáo thị với anh học việc, nói lớn với theo tôi:

“ Chạy gì nhanh thế, cậu bé. cậu còn cả khối thời gian tới trường mà!” Tôi nghĩ là bác ấy đang giễu cợt tôi, và tôi thở hổn hển khi tới được mảnh sân nhỏ của thầy Hamel.


Thông thường, khi bắt đầu giờ vào lớp, luôn có những âm thanh ầm ĩ, ngoài đường cũng nghe thấy, tiếng mở đóng hộc bàn, tiếng học trò ôn bài đồng loạt, rất ồn ào vì cứ bịt tai mà đọc để nghe cho rõ, còn cả tiếng thầy gõ thước lên bàn nữa.


“ Tất cả im lặng nhé!”


Tôi hy vọng sẽ lợi dụng lúc chộn rộn này để vô lớp không bị ai nhìn thấy. Nhưng hôm nay sao lại yên lặng như đang là sáng chủ nhật thế này! Qua cửa sổ, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ đàng hoàng, còn thầy Hamel thì đang đi tới đi lui với cây thước kẻ bằng sắt đáng sợ kẹp dưới nách. Phải mở cửa bước vào trong không khí lặng lẽ đó. Bạn chắc là tưởng tượng ra mặt tôi đỏ rần và tôi run sợ như thế nào.


Thế nhưng, không. Thầy Hamel nhìn tôi không chút giận dữ và dịu dàng nói: “ Hãy vào chỗ ngồi nhanh đi, em Frantz. Lớp học bắt đầu mà vắng mặt em đó.”


Tôi nhảy qua băng ghế và ngồi xuống ngay bàn của mình. Đến lúc đó, khi đã bớt lo sợ tôi mới nhận ra là hôm nay thầy mặc cái áo khoác màu xanh thật đẹp, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ mặc những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng.


Thêm vào đó, hôm nay trường tôi có vẻ gì lạ lùng và trang nghiêm khác thường, nhưng điều làm tôi sững sờ hơn hết là trên mấy băng ghế đặt ở cuối lớp, mọi ngày bỏ trống, hôm nay lại thấy có mấy người dân trong làng đang ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi vậy. Ông già Hauser với cái nón xếp ba góc, ông cựu thị trưởng, ông cựu bưu tá, và nhiều người khác nữa, ai trông cũng buồn rầu. Ông Hauser có mang theo quyển sách vỡ lòng cũ, góc đã quăn queo, ông mở sẵn trên đùi, đặt cái kính đeo mắt trên trang sách.


Trong khi tôi đang tự hỏi về tất cả những điều đó thì thầy Hamel ngồi vào ghế của mình, và cất tiếng, cũng với cái giọng nhẹ nhàng và nghiêm trang mà lúc nãy thầy nói với tôi: “ Này các con, đây là buổi học cuối cùng thầy dậy các con. Lệnh đến từ Berlin là tất cả các trường học ở Alsace và Lorraine chỉ được phép dùng tiếng Đức mà thôi. Ngày mai sẽ có thầy mới tới đây và hôm nay là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Thầy mong các con phải chú ý thực kỹ. “


Những lời ấy khác nào sấm sét giáng xuống đầu tôi! Ôi, bọn khốn! Thì ra đây là cái mà chúng đã dán ở Toà Thị Chính!


Buổi học tiếng Pháp cuối cùng của tôi sao! Tôi còn chưa biết viết nữa mà! Tôi không được học nữa sao? Phải ngưng hết việc học ngay lúc này sao? Tôi giận mình biết bao về thời gian bỏ phí bấy lâu, tôi đã trốn học để đi tìm trứng chim hay đi trượt ván ở Saar! Những cuốn sách mà mới khoảnh khắc trước tôi cho là thứ khô khan, mang vác nặng nề, sách ngữ pháp , sách lịch sử linh thiêng, giờ tôi coi như những người bạn cũ, khó khăn lắm mới rời bỏ được. Và thầy Hamel cũng vậy. Nghĩ đến việc thầy sắp sửa đi xa, tôi sẽ không còn gặp thầy được nữa là tôi quên hết những hình phạt, những đòn đánh thước kẻ của thầy trước kia.

Tội Thầy quá!


Chính vì coi trọng buổi học cuối cùng này mà thầy đã mặc bộ đồ đẹp thường chỉ diện ngày chủ nhật, và lúc này tôi mới hiểu tại sao những vị bô lão trong làng đến ngồi trên những băng ghế nơi cuối lớp. Có vẻ như họ cũng hối hận rằng đáng lẽ họ phải đến trường siêng năng hơn. Đó là cách họ tỏ lòng tri ân thầy chúng tôi đã tận tuỵ suốt bốn mươi năm nay, và cũng để biểu lộ tình cảm ân nghĩa đối với tổ quốc nay đã mất đi.


Tôi đang nghĩ về những điều này bỗng nghe tiếng thầy gọi tên. Đến phiên tôi phải đọc bài. Tôi có thể đánh đổi gì để có thể đọc được hết cái quy tắc về phân từ lẫy lừng đó, đọc thật to, thật rõ, không vấp váp chút nào nhỉ? Tôi chỉ ấp úng được mấy chữ đầu tiên thôi, rồi đứng yên như trời trồng, chết dí nơi băng ghế, tim đập mạnh, chẳng dám ngước mắt lên. Tôi nghe thầy Hamel nói với tôi: “ Này Frantz, thầy không la con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi, con thấy chưa, ngày nào ta cũng tự bảo: ấy, ta còn khối thời gian mà, để ngày mai rồi học cũng được. Và con thấy kết quả ra sao rồi đó... Ừ, tai hoạ lớn nhất của xứ Alsace chúng ta là bao giờ cũng trì hoãn việc học đến ngày mai. Và giờ đây, những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng: Thế nào! Các ngươi tự nhận mình là dân Pháp, thế mà sao các ngươi chẳng biết đọc biết viết được tiếng mẹ đẻ của mình! .. Trong chuyện này, trò Frantz à, con đâu phải là người tội lỗi nhất. Tất cả chúng ta đây đều phải tự trách mình cả đấy.


Bố mẹ các con không chăm lo lắm việc học hành của các con. Họ thích các con ra đồng làm việc hay vào nhà máy hơn để kiếm thêm chút tiền. Còn thầy đây, bộ thầy không có gì đáng trách à? Chẳng phải là thầy đã sai các con đi tưới hoa trong vườn thay vì bắt các con phải học bài. Và khi thầy muốn đi câu, thầy chẳng ngần ngại cho các con nghỉ học.


Thế rồi, từ chuyện này bắt sang chuyện khác, thầy Hamel nói về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ đẹp nhất trên thế giới, trong sáng nhất, hợp lý nhất, vững vàng nhất, và cần bảo vệ nó, đừng bao giờ được phép quên điều đó, vì khi một dân tộc bị rơi vào vòng nô lệ, chừng nào còn giữ vững tiếng nói của mình thì không khác gì nắm được chiếc chìa khoá mở cửa tù giam. Rồi thầy mở sách ngữ pháp ra và đọc bài học cho chúng tôi nghe. Tôi ngạc nhiên thấy mình hiểu thật thông suốt. Những điều thầy nói nghe thật dễ hiểu, thực sự rất dễ hiểu. Tôi cũng thấy rằng tôi chưa bao giờ chú ý nghe thầy giảng chăm chú đến thế, mà thầy cũng chưa bao giờ giảng giải mọi điều một cách kiên nhẫn đến thế. Như thể là trước khi đi xa thầy muốn truyền cho chúng tôi tất cả kiến thức của mình, cố trút hết vào đầu óc chúng tôi tất cả một lần.


Sau bài ngữ pháp, đến bài tập viết. Hôm đó, thầy đã chuẩn bị những tờ mẫu mới toanh, trên đó có viết bằng chữ rông thật đẹp: France, Alsace, France, Alsace... Những tờ giấy tập viết như những lá cờ nhỏ bay khắp phòng học, treo trên những thanh gắn trên mặt bàn học chúng tôi. Bạn phải nhìn thấy mọi người chăm chú làm việc như thế nào, và lớp học im lặng ra sao! Chỉ còn nghe được tiếng ngòi bút cào trên giấy. Có lúc, có vài con bọ bay vào phòng, nhưng chẳng ai để ý đến chúng, ngay cả những thằng nhỏ bé nhất đang cố công vạch những nét sổ thẳng, toàn tâm, toàn ý, chừng như những nét sổ đó cũng là tiếng Pháp. Trên mái nhà, những con bồ câu gù gù nho nhỏ, tôi nghe tiếng chim và nhủ thầm: “Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ? “


Có khi đang viết tôi ngước nhìn lên, tôi thấy thầy Hamel ngồi bất động trên ghế, mắt chăm chăm nhìn hết vật này sang vật khác, như muốn ghi sâu trong tâm trí mình tất cả hình ảnh ngôi trường nhỏ bé này. Thật lạ! Đã bốn mươi năm nay, thầy chẳng luôn ở đây, vẫn chỗ ngồi đó, vẫn sân chơi trước mặt, vẫn lớp học không đổi hay sao? Chỉ có mấy cái ghế, cái bàn sử dụng lâu ngày nay trơn mòn hơn, những cây hạt óc chó nay mọc cao hơn, và dây hoa bia do chính thầy trồng nay quấn quanh cửa sổ, leo lên tận mái nhà. Hẳn là thầy đau lòng lắm khi phải rời xa tất cả những thứ này, khi nghe tiếng cô em thầy ở tầng trên đang đi đi lại lại, đóng gói đồ đạc vào mấy cái rương, bởi vì họ phải rời khỏi xứ ngay ngày hôm sau.


Nhưng rồi thầy cũng can đảm dạy hết cả buổi học. Sau phần tập viết, chúng tôi học về lịch sử, sau đó các trò nhỏ bi ba bi bô đánh vần. Dưới kia, ở cuối lớp, cụ Hauser đeo cặp  kính vào mắt, hai tay nâng sách vỡ lòng lên cùng đánh vần theo chúng. Ai cũng thấy là cụ cũng rất chăm chú, giọng run run vì xúc động, nghe rất buồn cười khiến chúng tôi vừa muốn cười vừa muốn khóc. Ôi chao, tôi nhớ buổi học cuối cùng ấy biết bao!


Đột nhiên chuông nhà thờ gõ mười hai tiếng. Rồi đến hồi chuông cầu kinh Đức Bà. Đồng thời tiếng kèn đồng của đám lính Phổ đi tập trận về vang lên dưới mấy cửa sổ phòng học. Thầy Hamel đẩy ghế đứng dậy, mặt tái xanh. Chưa lúc nào tôi thấy thầy cao đến vậy.

Thầy nói: “ Các bạn, các bạn, tôi...tôi...”

Có cái gì đó làm thầy nghẹn lại, không nói hết câu được.

Thầy xoay người về phía bảng đen, nhặt một mẩu phấn, và bằng hết sức mình ấn lên phấn, thầy viết hàng chữ to hết cỡ : “ NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM “.


Thế rồi, thầy ngừng tay, đầu gục lên tường, không nói một lời, thầy xua tay ra dấu như bảo chúng tôi: 

“ Lớp học kết thúc...mọi người về đi!”



THÂN TRỌNG SƠN

dịch và giới thiệu

theo nguyên bản tiếng Pháp.

( Les Contes du lundi / Chuyện kể ngày thứ hai )


https://beq.ebooksgratuits.com/vents/Daudet-lundi.pdf



NGƯỜI THẦY

 

NGƯỜI THẦY


                                  

                             Elisabeth Silance Ballard.



Một truyện ngắn cảm động về tình thầy trò. Có hai chi tiết khiến người đọc có thể nghĩ chuyện xảy ra ở Việt Nam, không phải ở Mỹ, chuyện hôm nay, không phải cách đây hơn bốn mươi năm. Đó là việc giáo viên đối xử công bằng, đồng đều với tất cả học sinh là điều rất khó, đến nỗi nếu giáo viên hứa với học sinh của mình như thế, thì chính thầy hay cô  đó biết ngay là mình đang nói dối! Thứ hai là việc học sinh tặng quà đồng loạt cho giáo viên nhân một cơ hội nào đó, tưởng là đơn giản nhưng có khi lại khá tế nhị, gây bối rối cho học sinh nếu em nào đó không có điều kiện, chỉ có thể mang đến một món quà tầm thường, khiến cả lớp phải cười nhạo. Xử lý tình huống này tuỳ bản lĩnh và cái tâm của người thầy.


Kể từ khi được đăng tải trên tạp chí Home Life năm 1976, truyện trở nên nổi tiếng, được phổ biến rộng rãi, dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhiều người tin đây là một câu chuyện có thật, và hơn thế nữa, còn quả quyết nhân vật chính hiện nay là bác sĩ đang làm việc tại Trung tâm Ung thư của một bệnh viện thuộc tiểu bang Iowa. 

Tác giả Elisabeth Silance Ballard ( một nhà hoạt động xã hội, tác giả nhiều truyện ngắn ) phải lên tiếng xác nhận truyện hoàn toàn hư cấu, không có cô giáo Thompson nào, cũng không có học sinh cá biệt Teddy nào cả, tuy bà có dựa vào vài chi tiết đời tư để sáng tác.

Người đọc khỏi cần bận tâm về chuyện hư thực đó vẫn thấy được vấn đề cốt lõi của công việc người thầy là lương tâm chức nghiệp và quan hệ thầy trò được tác giả nêu lên và giải quyết khá tinh tế. Không giải thích, không bình luận, rất ít lời, chỉ những sự kiện sắp xếp cạnh nhau, ngắt câu, ngắt đoạn bất ngờ, độc đáo, văn phong giản dị. Chừng đó đủ để tạo ra một câu chuyện thú vị, gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc, nhất là những ai đang hoặc đã từng dạy học.



Cách đây nhiều năm rồi, có một câu chuyện về một cô giáo dạy tiểu học. Tên cô là Cô Thompson. Hôm đó là ngày đầu tiên của năm học. Khi cô đứng trước lớp 5 do cô phụ trách, cô đã nói với bọn trẻ điều dối trá. Cũng như hầu hết giáo viên khác, cô đưa mắt  nhìn học trò và nói là cô sẽ yêu thương và đối xử công bằng với tất cả. Nhưng điều đó có lẽ sẽ khó thực hiện, bởi ngay ở hàng ghế đầu, cô thấy ngồi lù lù thằng bé Teddy Stoddard. 


Cô Thompson đã biết đến thằng Teddy từ năm ngoái và đã nhận xét rằng nó chẳng chơi được với bọn trẻ khác, áo quần thì lôi thôi lếch thếch và có vẻ như lúc nào cũng cần phải tắm gội. Tóm lại, nó thật khó ưa.

Chuyện dẫn tới mức cô giáo cứ gặp bài của thằng nhỏ là sẵn sàng đánh dấu X thật đậm - với cây bút đỏ to - và ghi chữ F thật lớn trên đầu tờ giấy. (1)


Trong trường cô Thompson dạy, như các giáo viên khác, cô phải xem lại kết quả học tập những năm trước của học sinh và cô đã để hồ sơ của Teddy đến cuối cùng mới xem.

Tuy nhiên, khi cô xem đến hồ sơ của thằng nhỏ, cô đã rất mực ngạc nhiên.


Giáo viên lớp một phê, “ Teddy là một học sinh sáng dạ và vui nhộn, làm việc gì cũng ngăn nắp, cư xử tốt... Em luôn mang đến niềm vui  cho những người xung quanh...”

Giáo viên lớp hai nhận xét, “ Teddy là một học sinh xuất sắc, bạn bè đều yêu mến, nhưng em đang gặp khó khăn vì mẹ em đang mắc bệnh hiểm nghèo, cuộc sống gia đình hẳn là vất vả lắm.”

Giáo viên lớp ba ghi, “Cái chết của mẹ đã gây chấn động mạnh lên Teddy. Em đã cố gắng hết sức nhưng người cha thiếu quan tâm, cuộc sống ở nhà sẽ ảnh hưởng đến em nếu tình hình không cải thiện.” 

Giáo viên lớp bốn phàn nàn, “ Teddy buông xuôi, và không thể hiện niềm hứng thú trong việc học hành. Em không có nhiều bạn bè và thường ngủ gật trong lớp.” 


Đến lúc đó, cô Thompson đã hiểu được vấn đề và thấy xấu hổ về mình. Cô càng thấy   ray rứt hơn khi học sinh tặng cô quà Giáng sinh, tất cả đều được gói giấy bóng loáng và cột dải ruy băng xinh xắn, chỉ trừ quà của Teddy.


Quà của thằng nhỏ được gói vụng về trong một tờ giấy nâu thô ráp, có lẽ lấy từ bọc giấy đựng đồ tạp nham nào đó. Cô Thompson thấy nhói đau khi mở gói quà của Teddy giữa những món quà khác. Một số đứa đã bật cười khi cô lấy ra một vòng đeo tay bằng đá thiếu mất vài hột và một lọ nước hoa chỉ còn một phần tư.

Nhưng cô đã làm cho những tiếng cười kia im bặt khi cô khen chiếc vòng đẹp, rồi đeo vào tay, và thoa một ít nước hoa lên cổ tay.

Và hôm đó Teddy Stoddard đã nấn ná ở lại trường một lát chỉ để nói, “ Cô ơi, hôm nay cô thơm như mẹ em trước đây vậy.” 


Bọn trẻ về hết, cô giáo khóc cả tiếng đồng hồ. Và cũng từ ngày đó, cô không chỉ dạy đọc, dạy viết, dạy làm toán, cô bắt đầu dạy dỗ bọn trẻ. Cô đặc biệt quan tâm đến Teddy.

Và do được cô theo sát, đầu óc thằng nhỏ như sinh động hẳn lên. Cô càng khích lệ thì nó càng đáp ứng nhanh. Đến cuối năm học, Teddy trở thành một trong những học sinh xuất sắc nhất lớp, và, tuy cô đã nói dối là sẽ yêu thương bọn trẻ như nhau, Teddy đã trở thành “ học trò cưng “ của cô giáo.

Một năm sau, ở bục cửa nhà mình, cô thấy có tờ giấy nhỏ của Teddy, nói rằng cô là người thầy tuyệt với nhất nó từng gặp trong đời.


Sáu năm sau cô lại thấy một mảnh giấy khác của Teddy. Nó viết rằng nó đã học xong trung học, được xếp hạng ba trong lớp, và cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất.


Bốn năm nữa trôi qua, cô lại nhận một lá thư khác của Teddy, cậu nói rằng tuy có lúc gặp khó khăn bất ổn trong đời, cậu vẫn theo đuổi việc học và sắp tốt nghiệp thủ khoa đại học. Cậu đoan chắc rằng cô vẫn là người thầy tuyệt vời, mà cậu yêu quý nhất trong đời.


Rồi lại bốn năm nữa trôi qua, lại một bức thư nữa được gởi đến cô. Lần này cậu giải thích là sau khi đỗ cử nhân, cậu quyết định tiến xa hơn. Bức thư nói rằng cô vẫn cứ là người thầy tuyệt vời, được yêu quý nhất trong đời cậu. Nhưng giờ đây, tên của cậu đã dài hơn, tên cậu ký bây giờ ghi thế này: Theodore F. Stoddard, Bác sĩ Y khoa.


Thế nhưng, câu chuyện chưa dừng lại ở đây. Đến mùa xuân lại có một bức thư khác. Teddy kể là cậu đã gặp một cô gái và họ sắp kết hôn. Cậu nói là cha cậu đã mất mấy năm trước, cậu hỏi rằng liệu cô có thể đến dự đám cưới và ngồi vào vị trí vẫn thường dành cho mẹ chú rể không.


Tất nhiên cô Thompson nhận lời. Bạn thử đoán chuyện gì xảy ra. Cô đã đeo chiếc vòng tay khuyết mấy hạt đó. Và cô cũng đã xức thứ nước hoa cũ mà Teddy nhớ là mẹ cậu vẫn thường dùng trong dịp lễ Giáng sinh cuối cùng họ ở cùng nhau.


Hai cô trò ôm choàng lấy nhau, và Bác sĩ Stoddar thì thầm vào tai cô, “ Thưa Cô, con cám ơn cô đã đặt niềm tin vào con. Cám ơn Cô rất nhiều vì cô đã làm cho con có cảm giác mình là quan trọng, chỉ cho con thấy rằng con có thể tạo ra điều khác biệt.” Cô Thompson, mắt đẫm lệ, khẽ đáp: “ Teddy, em nhầm hoàn toàn rồi. Em mới chính là người đã dạy cho cô rằng cô có thể làm nên điều khác biệt. Thực ra cô không biết dạy như thế nào cho đến  khi cô gặp được em.”



—————————————————


  1. Dấu X để đánh dấu chỗ sai trong bài làm, F là điểm kém.




Nguồn: http://www.livinglifefully.com/flo/flothreeletters.htm