vendredi 18 juillet 2025

Bản di chúc

 

BẢN DI CHÚC


Truyện ngắn

Guy de Maupassant 




Tôi quen anh chàng cao cao tên là René de Bourneval đó. Anh có thái độ đối xử dễ thương, tuy hơi âu sầu, hình như ngán ngẩm mọi chuyện, khá hoài nghi, một kiểu hoài nghi chính xác và cay độc, đặc biệt khéo léo vạch trần mọi thói đạo đức giả của người đời chỉ bằng một từ thôi. Anh thường nói:" Chẳng có người lương thiện đâu, hoặc ít ra họ chỉ lương thiện tương đối so với bọn bất lương."


Anh có hai người anh mà anh chẳng mấy khi gặp, những người mang họ de Courcils. Tôi nghĩ anh là anh em khác cha vì thấy mang họ khác. Nhiều lần tôi nghe nói trong gia đình này có chuyện ly kỳ lắm, nhưng không nói rõ chi tiết.


Tôi rất thích anh chàng này và chúng tôi đã sớm kết thân. Một tối kia, trong khi chỉ hai người cùng ăn tối chung, tôi buột miệng hỏi: " Anh là con của cuộc hôn nhân đầu hay thứ hai?" Tôi thấy mặt anh hơi tái rồi đỏ bừng, anh lặng im vài giây, lộ rõ vẻ bối rối. Rồi, nở nụ cười buồn bã và hiền lành quen thuộc, anh nói: " Bạn thân mến, nếu anh không chán, tôi sẽ kể cho anh những chi tiết lạ lùng về gốc gác của tôi. Tôi biết anh là người thông minh, nên tôi không ngại chuyện kể sẽ ảnh hưởng đến tình bạn của anh, mà nếu có ảnh hưởng thì tôi cũng không thiết tha chuyện coi anh là bạn nữa". 


Mẹ tôi, bà de Courlis, là một phụ nữ nhỏ bé, rụt rè, đáng thương, do có của cải mà được cưới làm vợ. Cuộc đời bà là cả một nỗi thống khổ. Với tâm hồn nhân hậu, sợ sệt, tế nhị, bà bị ngược đãi không ngừng bởi người đáng lẽ là cha tôi, là một trong những nông dân mà người ta gọi là quý tộc nhà quê. Lấy vợ được một tháng, ông sống với một người tớ gái. Ngoài ra, ông còn lấy vợ và con của các tá điền làm nhân tình, trong khi vợ vẫn sinh cho ông hai đứa con, nếu tính cả tôi nữa thì là ba. Mẹ tôi chẳng hó hé gì, trong căn nhà lúc nào cũng ồn ào này bà sống như những con chuột nhắt lén lút dưới bàn ghế. Mờ nhạt, ẩn khuất, run rẩy, bà nhìn mọi người bằng đôi mắt sáng đầy âu lo, luôn linh hoạt, đôi mắt hốt hoảng do nỗi sợ không rời. Tuy nhiên, bà đẹp, rất đẹp, mái tóc vàng, màu vàng xám, một sắc vàng  nhợt nhạt, chừng như tóc bà vì sợ hãi liên miên mà phai màu đi. 


Trong số những người bạn hay lui tới lâu đài của ông de Courcils, có một cựu sĩ quan kỵ binh, goá vợ, người được nể sợ, dịu dàng và mạnh mẽ, có thể đưa ra những quyết định cương quyết nhất, đó là ông de Bourneval, mà tôi đang mang họ đây. Ông ấy cao lớn, mảnh khảnh, râu mép đen rậm. Tôi giống ông lắm. Ông đọc nhiều và  tư tưởng của ông không giống chút nào những người cùng tầng lớp với ông. Bà cố của ông từng là bạn của J.J.Rousseau (1), và có thể nói là ông đã thừa hưởng chút gì từ mối quan hệ này của tiền nhân. Ông thuộc lòng " Khế ước xã hội " (2) , " Héloïse mới" (3) và tất cả các sách thuyết lý chuẩn bị từ sớm sự đảo lộn sau này của các tập quán xưa cũ, các thành kiến, các luật lệ lỗi thời, nền luân lý ngu xuẩn.


Có vẻ như ông yêu mẹ tôi, và được yêu lại. Mối quan hệ này hoàn toàn bí mật đến độ không ai nghi ngờ gì. Người phụ nữ đáng thương, rầu rĩ, bị bỏ rơi, hẳn phải tuyệt vọng gắn bó với ông, mong nhờ sự giao thiệp này mà có được lối nghĩ, tư tưởng tình cảm tự do, yêu đương táo bạo, nhưng, do bản tính rụt rè, chẳng bao giờ bà dám lên tiếng, tất cả những điều kia bị dồn nén, cô đọng, ép chặt lại trong con tim không cởi mở bao giờ của bà.


Hai người anh của tôi, cũng như cha, đối đãi thô bạo với bà, chẳng lúc nào dịu ngọt, và ở trong nhà chẳng xem bà ra gì cả, phần nào chỉ xem là con ở thôi.


Tôi là con trai độc nhất yêu bà thực sự và được bà yêu.


Bà qua đời. Lúc đó tôi mười tám tuổi. Để anh hiểu chuyện tiếp theo, tôi phải nói thêm rằng chồng bà đã  biết được sự tư vấn pháp lý quyết định việc phân chia tài sản có lợi cho mẹ tôi, nhờ vào sự vận dụng khôn khéo pháp luật và sự tận tuỵ thông minh của công chứng viên, bà được giữ quyền lập di chúc để lại tài sản theo ý mình.


Như vậy, chúng tôi được thông báo là bản di chúc hiện có tại văn phòng công chứng, và được mời tới nghe công bố.


Tôi còn nhớ như chuyện mới xảy ra hôm qua. Quang cảnh hôm đó thật long trọng, kịch tính, khôi hài, bất ngờ, dẫn dắt bởi sự phản kháng muộn màng của người đã khuất, bởi tiếng thét đòi tự do, bởi nguyện vọng từ đáy mồ của người phụ nữ thống khổ bị phong tục đè nén suốt cả cuộc đời, và giờ đây, từ chiếc quan tài đóng kín, cất lên tiếng gọi đầy tuyệt vọng kêu đòi độc lập.


Người lâu nay vẫn tự cho là cha tôi, to béo, đỏ lừ, gợi hình ảnh anh hàng thịt, và các ông anh tôi, hai chàng khoẻ mạnh hai mươi và hai mươi hai tuổi, ngồi yên trên ghế chờ đợi. Ông de Bourneval, được mời tới dự, bước vào ngồi sau lưng tôi. Người bó sát trong chiếc áo choàng, ông trông xanh xao, thỉnh thoảng nhay nhay bộ râu mép nay đã hơi bạc. Hẳn là ông đã biết trước chuyện gì sẽ xảy ra.


Viên công chứng khoá kín cửa, mở chiếc phong bì gắn xi đỏ mà chính ông cũng không rõ nội dung, và bắt đầu đọc.


Đột nhiên bạn tôi ngừng lại, đứng lên đến ngăn kéo tủ lấy ra một mảnh giấy cũ, mở ra, hôn tờ giấy thật lâu, rồi mới nói tiếp. Đây là bản di chúc của người mẹ yêu quý của tôi.


" Tôi, ký tên dưới đây, Anne- Catherine- Geneviève- Mathilde de Croixluce, vợ hợp pháp của Jean- Léoplod-Joseph Gontran de Courcils, thể chất khoẻ mạnh, tinh thần tỉnh táo, bày tỏ ước nguyện cuối cùng của tôi như sau:


Trước tiên tôi cầu xin Chúa, sau đó là René con trai tôi, tha thứ cho hành động tôi sắp sửa phạm phải sau đây. Tôi nghĩ là con tôi đủ bao dung để hiểu và tha thứ cho tôi. Tôi đã đau khổ suốt đời. Chồng tôi đã cưới tôi vì tính toán, sau đó không ngừng khinh miệt, lạnh nhạt, ức hiếp, lừa dối tôi.

Tôi tha thứ cho ông ta, nhưng tôi không mắc nợ gì ông ta cả.

Những đứa con trai lớn của tôi không yêu thương, chiều chuộng tôi chút nào, chỉ bất đắc dĩ xem tôi là mẹ. 

Suốt đời tôi, tôi đã đối xử với chúng như bổn phận phải làm, tôi chết đi cũng chẳng nợ nần gì chúng.  Những mối quan hệ huyết thống không thể có được nếu không có tình thương bền vững, thiêng liêng, biểu lộ hàng ngày. Đứa con bất hiếu còn tệ hơn người dưng, mà là tên tội phạm, bởi nó không được phép tỏ ra dửng dưng với mẹ đẻ của mình. 

Tôi lúc nào cũng run sợ trước nam giới, trước những luật lệ bất công, những thói quen bất nhân, những thành kiến bất lương của họ. Trước Thượng đế, tôi không còn sợ nữa. Chết đi, tôi vứt bỏ thói đạo đức giả đáng hỗ thẹn khỏi mình, tôi dám nói lên điều mình nghĩ, bộc bạch và chịu trách nhiệm bí mật của con tim. 


Bởi lẽ đó, tôi chuyển cho ông Pierre-Germer-Simon de Bourneval, người tình yêu quý của tôi, toàn bộ phần tài sản mà luật pháp cho phép tôi sử dụng, để sau đó sẽ về phần con trai René thân yêu của chúng tôi.


( Ngoài ra ước nguyện này còn được ghi nhận cụ thể hơn trong một văn bản công chứng ).


Và, trước Đấng phán xử tối cao đang lắng nghe tôi đây, tôi xin tuyên bố là lẽ ra tôi đã nguyền rủa đất trời và lẽ sống nếu tôi không nhận được tình thương sâu sắc, tận tuỵ, ngọt ngào, bền vững của người yêu của tôi, nếu trong vòng tay ông ấy tôi không hiểu được rằng đấng Sáng tạo đã tạo ra con người là để yêu thương nhau, che chở nhau, an ủi nhau, và để cùng khóc trong những giờ phút cay đắng.


Hai con trai lớn của tôi đã có cha là ông de Courcils. Chỉ René là con ông de Bourneval. Tôi cầu xin đấng Quyền uy của con người và số phận của họ hãy nâng cha và con vượt lên trên những định kiến xã hội và hãy khiến hai cha con yêu thương nhau cho đến cuối đời và yêu cả tôi trong quan tài nữa.


Đấy là ý nghĩ cuối cùng và ước nguyện cuối cùng của tôi.

MATHILDE DE CROIXLUCE".


Ông de Courcils đứng dậy la lớn: " Đây là di chúc của một người điên!". Ngay lúc đó, ông de Bourneval nhích lên một bước và tuyên bố, giọng rõ ràng, quả quyết: 

" Tôi, Simon de Bourneval, tuyên bố rằng bản viết đó chứa đựng hoàn toàn sự thật. Tôi sẵn sàng bảo vệ nó trước bất cứ ai, và sẵn sàng chứng minh điều đó bằng số thư từ tôi đang giữ đây."


Ông de Courcils liền bước về phía ông. Tôi nghĩ là họ sẽ đánh nhau. Họ đứng kia, cả hai đều cao lớn, người mập, người gầy, đều giận run cả người. Chồng của mẹ tôi lắp bắp nói: " Đồ khốn nạn!". Người kia đáp trả, cũng giọng cương quyết và khô khan: " Chúng ta sẽ gặp nhau chỗ khác, thưa ông. Lẽ ra tôi đã tát vào mặt ông và thách đấu với ông từ lâu rồi nếu tôi không nghĩ đến, hơn mọi thứ, sự bình yên trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp mà ông đã gây ra quá nhiều đau khổ".


Rồi, quay sang tôi, ông nói: " Con là con của cha. Con muốn đi theo cha không? Cha không có quyền đưa con đi, nhưng cha sẽ nhận trách nhiệm đó nếu con đồng ý đi theo cha.".

Tôi bắt tay ông mà không đáp. Và chúng tôi cùng ra về. Người tôi cứ lâng lâng.


Hai ngày sau, ông de Bourneval bắn hạ ông de Courcils trong cuộc thách đấu . Mấy người anh của tôi đã nín thinh vì ngại tai tiếng xấu xa. Tôi nhường cho họ và họ đã nhận một nửa gia tài mẹ tôi để lại.

Tôi lấy lại họ của người cha thực sự của tôi, từ khước cái họ không đúng mà luật 

pháp gán cho tôi. 

Ông de  Bourneval mất đã năm năm rồi. Tôi vẫn chưa nguôi ngoai nỗi buồn.


Bạn tôi đứng dậy, tiến vài bước tới ngồi trước mặt tôi: " Tôi cho rằng bản di chúc của mẹ tôi là một trong những thứ đẹp đẽ nhất, trung thực nhất, cao cả nhất mà một người phụ nữ có thể thực hiện. Ý anh chẳng phải vậy sao? "

Tôi chìa ra cả hai tay cho anh:  " Vâng, chắc chắn là tôi cũng nghĩ thế, bạn ạ!"




_________________________


  1. J.J. Rousseau (1712-1778),nhà tư tưởng, nhà giáo dục học, nhà văn.
  2. Khế ước xã hội, Contrat social,  tiểu luận triết học chính trị của Rousseau, 1762.
  3. Julie, ou la nouvelle Héloïse, tiểu thuyết, 1762.





THÂN TRỌNG SƠN

dịch từ nguyên bản tiếng Pháp

( Le testament - 7 novembre 1882 )


http://www.bmlisieux.com/litterature/maupassant/testamen.htm




   

Con mèo

 


CON MÈO

Truyện ngắn 

Mary E. Wilkins Freeman

( 1852 - 1930 )

 



Freeman truyền tải câu chuyện được dàn dựng công phu này với sự tinh ranh và kiên nhẫn, giống như câu chuyện của con mèo. Nó nói về nhu cầu có bạn đồng hành, ngay cả với những người có thể sống sót một mình trong những điều kiện khắc nghiệt nhất.


 

 “ Dù tôi có mệt mỏi hay khốn khổ đến đâu, một con mèo con ngồi ở ngưỡng cửa cũng có thể làm tôi xao lãng.”

 “ No matter how tired or wretched I am, a pussycat sitting in a doorway can divert my mind.” 

   Khi sáng tác những mô tả hiện thực được đón nhận nồng nhiệt về cuộc sống của phụ nữ ở các ngôi làng ở New England, Mary E. Wilkins Freeman đã viết về những con người và những địa điểm mà cô đã biết cả đời. Sinh ra ở Randolph, Massachusetts, Freeman lớn lên trong sự quen thuộc mật thiết với hoàn cảnh kinh tế suy thoái và hệ thống niềm tin nghiêm khắc của người theo chủ nghĩa Calvin đã hình thành nên cuộc sống của phần lớn các nhân vật của cô. Năm mười lăm tuổi, Freeman cùng gia đình chuyển đến Brattleboro, Vermont, nơi cha cô mở một cửa hàng bán đồ khô với nỗ lực cải thiện tình hình tài chính của họ. Sau khi tốt nghiệp trường trung học Brattleboro, Freeman học một năm tại Chủng viện Nữ Mt. Holyoke nhưng không tận hưởng cuộc sống đại học hay sống xa nhà. Trở về Vermont, cô phải đối mặt với hàng loạt bất hạnh: sự nghiệp giảng dạy không thành công, chị gái qua đời, công việc kinh doanh của cha cô thất bại và mẹ cô buộc phải hỗ trợ gia đình bằng cách làm quản gia cho bộ trưởng thị trấn. Freeman gặp khó khăn trong việc giải quyết hoàn cảnh nghèo khó của gia đình cô; cô cảm thấy đặc biệt nhục nhã khi phải chuyển đến sống ở khu dành cho người hầu tại ngôi nhà nơi mẹ cô làm giúp việc.


   Năm 1883, sau khi cả cha lẫn mẹ cô đều qua đời, Freeman chuyển về Randolph để sống với người bạn thời thơ ấu của cô, Mary Wales. Ở đó, cô phát triển sự nghiệp viết lách mà cô đã bắt đầu vài năm trước đó với việc xuất bản một số truyện và thơ cho trẻ em. Cô sớm tìm thấy một thị trường sẵn sàng cho những tác phẩm thể hiện hiện thực của mình về cuộc sống ở New England, đăng các câu chuyện trên Tạp chí Hàng tháng Mới của Harper danh tiếng và cuối cùng xuất bản tuyển tập truyện dài cả sách của riêng mình. Tác phẩm của cô đã được cả giới phê bình và độc giả đón nhận nồng nhiệt, những người bị thu hút bởi sự tập trung của cô vào lối sống khu vực đang nhanh chóng bị tuyệt chủng. Freeman là một nhà văn sung mãn: trong suốt sự nghiệp của mình, bà đã xuất bản 15 tập truyện ngắn (tác phẩm mà bà được biết đến nhiều nhất hiện nay), hơn 50 truyện và tiểu luận chưa sưu tầm, 14 tiểu thuyết, 3 vở kịch, 3 tập thơ, và tám cuốn sách dành cho trẻ em. Với sự giúp đỡ của Wales, Freeman đã trở thành một doanh nhân khôn ngoan và thành đạt. Những bức thư còn sót lại của cô tiết lộ mối quan tâm sâu sắc của cô với việc kiếm sống bằng nghề tác giả cũng như tối đa hóa phí và tiền bản quyền của mình.


    Trong khi sự nghiệp thành công của Freeman mang lại cho cô sự đảm bảo về tài chính và rất nhiều quyền tự chủ, thì tiểu thuyết hay nhất của cô lại tập trung vào hoàn cảnh của những người phụ nữ có cuộc sống bị ràng buộc bởi nghèo đói và những ràng buộc xã hội áp đặt lên họ bởi niềm tin tôn giáo khắt khe và vị thế phụ nữ của họ. Bị cuốn hút bởi tác động của các giá trị Thanh giáo truyền thống về tính phục tùng, tính tiết kiệm và sự từ bỏ bản thân đối với văn hóa New England, Freeman thường miêu tả những nhân vật tạo ra trở ngại cho hạnh phúc của chính họ bằng cách tuân thủ nghiêm ngặt đạo đức của người theo chủ nghĩa Calvin. Tuy nhiên, trong những câu chuyện khác, cô khám phá những cuộc nổi loạn và chiến thắng của những người phụ nữ có vẻ nhu mì, miêu tả chiến lược của họ nhằm giành và duy trì quyền kiểm soát hoàn cảnh gia đình bằng sự hài hước và nhạy cảm. Cô đã cung cấp những bức chân dung chân thực về cả những khó khăn của “tình trạng cô độc” và những động lực quyền lực thường mang tính áp bức đã cấu trúc nên hôn nhân thế kỷ 19.


    Bản thân Freeman kết hôn muộn, cưới bác sĩ Charles Freeman khi bà bốn mươi chín tuổi. Sau một thời gian hòa hợp ban đầu, cuộc hôn nhân kết thúc trong ly thân khi chồng cô phải nhập viện vì chứng nghiện rượu. Năm 1926, bà được Viện Hàn lâm Văn học Hoa Kỳ trao tặng Huy chương Vàng William Dean Howells về Tiểu thuyết, và cuối năm đó, bà được giới thiệu vào Viện Nghệ thuật và Văn chương Quốc gia danh giá.



   Một chú mèo tên Kitty thích dành một ngày một mình có cơ hội được sống một mình trong nhà và làm những việc mình thích, nhưng cô nhớ chủ và muốn gặp chủ. Nó đi ra ngoài để tìm kiếm chủ nhân của mình nhưng gặp phải nhiều chướng ngại vật trên đường đi.

   Mèo là sinh vật có niềm tin tuyệt đối và niềm tin vào suy luận của nó không bao giờ dao động. Con thỏ đã chui vào đó giữa những cành thông thấp. Bây giờ ô cửa nhỏ của nó có một tấm màn tuyết xù xì phía trước, nhưng nó đang ở trong đó.

   The Cat bắt đầu vào một mùa đông chết chóc, và chủ nhân của con mèo - một ông già - đã rời túp lều trên núi của mình và đi về làng để trốn mùa vì “cái lạnh khắc nghiệt của vùng núi bám chặt lấy sức sống của ông như một con báo”. Thay vì mang theo con mèo, tên vô lại đã bỏ con mèo trong lều để tự lo liệu! Vì vậy, khi chúng ta gặp con mèo lần đầu tiên, nó đang đói và kiên nhẫn chờ đợi để săn một con thỏ.


    Phần đầu tiên của câu chuyện - từ lúc con mèo chờ đợi để đi giết người cho đến khi nó kéo con thỏ vào túp lều - không phải là một đoạn đọc dễ chịu. Thật đau lòng khi tưởng tượng con mèo phải sống một mình trong cái lạnh buốt giá này. Vì vậy, người đọc rất vui khi một người đàn ông khác, “một Ishmael già lang thang giữa đồng loại của mình,” quyết định tìm nơi trú ẩn trong cùng một túp lều.


   Người đàn ông quá ốm để có thể tự mình di chuyển và tìm kiếm thức ăn, vì vậy con mèo chia sẻ mỏ đá với anh ta, và cuối cùng, họ vượt qua mùa đông bằng cách bầu bạn với nhau.


   Mặc dù con mèo sống sót trong câu chuyện nhưng đó vẫn là một câu chuyện khiến bạn đọc khó chịu vì cách con người đối xử với nó. Tuy nhiên, mọi người vẫn thấy thích thú với cách Freeman giới thiệu con mèo của cô ấy khá giống Tibby trong An Old Woman and Her Cat của Lessing. Có thể dễ dàng tưởng tượng một con chó chia sẻ thức ăn của mình với một người đang cần giúp đỡ, nhưng một con mèo thì sao? Có lẽ  không nên quá ngạc nhiên. Có bài viết này về một nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học tại Đại học Bang Oregon cho thấy mèo thích sự tương tác giữa con người với thức ăn hơn! Vậy có lẽ mèo cũng hòa hợp hơn với nhu cầu của con người?



  • *    *

 



   Tuyết đang rơi và bộ lông của con mèo dựng đứng cứng ngắc, nhưng nó vẫn bình tĩnh. Nó ngồi thu mình, sẵn sàng cho cú bật chết chóc, nó  đã ngồi hàng giờ đồng hồ. Trời đã tối - nhưng điều đó không có gì khác biệt - mọi thời điểm của Mèo đều giống như khi nó đang rình mồi. Ngoài ra, nó cũng không bị ràng buộc bởi ý chí con người, vì nó sống một mình vào mùa đông năm đó. Không nơi nào trên thế giới có giọng nói nào gọi nó; trên không có lò sưởi có một cái đĩa thức ăn chờ nó . Nó khá tự do ngoại trừ những ham muốn của chính mình, thứ đã hành hạ nó khi không được thỏa mãn như bây giờ. Con mèo đang rất đói – thực tế là gần như sắp chết đói. Trong nhiều ngày, thời tiết rất khắc nghiệt, và tất cả những loài hoang dã yếu ớt vốn là con mồi của nó theo di sản để lại , những con thú sinh ra để phục vụ cho giống nòi của nó, phần lớn đã giấu mình ở khắp mọi nơi, trong những cái tổ và những cái hang của chúng, và cuộc săn lùng kéo dài của Mèo đã chẳng mang lại thứ gì.

    Nhưng nó đã chờ đợi với sự kiên nhẫn và bền bỉ không thể tưởng tượng được của chủng tộc mình; Ngoài ra, nó tin chắc. Mèo là sinh vật có niềm tin tuyệt đối và niềm tin vào suy luận của nó không bao giờ dao động. Con thỏ đã biến mất giữa những cành thông thấp. Bây giờ ô cửa nhỏ của nó lúc trước đã biến thành một tấm màn tuyết xù xì phía trước, nhưng thỏ đang ở trong đó. Mèo đã nhìn thấy nó chạy vào, giống như một cái bóng xám nhanh nhẹn đến nỗi ngay cả đôi mắt sắc bén và thành thạo của nó cũng phải liếc nhìn lại để tìm vật theo sau, rồi biến mất. Vì vậy, nó ngồi xuống và chờ đợi trong đêm trắng, giận dữ lắng nghe cơn gió bắc bắt đầu từ những đỉnh núi cao với những tiếng la hét xa xa, rồi bùng lên thành một cơn thịnh nộ khủng khiếp và sà xuống với đôi cánh trắng giận dữ. Tuyết như một đàn đại bàng hung dữ lao vào các thung lũng và khe núi. Con Mèo đang ở sườn núi, trên một khoảng đất có cây cối rậm rạp. Phía trên nó cách đó vài mét là ngọn núi đá cao chót vót như bức tường của một thánh đường. Mèo chưa bao giờ leo lên đó - cây cối là những bậc thang dẫn đến đỉnh cao cuộc đời của nó. Nó thường nhìn tảng đá với vẻ kinh ngạc, và ca thán một cách cay đắng và bực bội như con người thường làm khi đối mặt với Thượng đế ghê gớm . Bên trái là vách núi dựng đứng. Phía sau , với một đoạn cây gỗ ngắn mọc ở giữa, là bức tường vuông góc đóng băng của một dòng suối trên núi. Trước mắt nó là con đường về nhà. Khi con thỏ chạy ra thì nó đã bị mắc kẹt; đôi chân chẻ đôi nhỏ bé của nó không thể leo lên những con dốc liên tục như vậy. Thế là Mèo chờ đợi.

    Nơi nó ở trông giống như một vũng nước xoáy của khu rừng. Những bụi cây rậm rạp bám vào sườn núi với những bộ rễ cứng cáp, những thân và cành rũ xuống, những dây leo ôm lấy mọi thứ bằng những nút thắt và cuộn dây sinh trưởng mạnh mẽ, có một hiệu ứng kỳ lạ, như thể những thứ đã quay cuồng trong nhiều thời đại. trong một dòng nước cuồng nộ, chỉ có điều đó không phải là nước mà là gió, thứ đã sắp đặt mọi thứ theo đường vòng tròn để nhường chỗ cho những điểm khởi phát khốc liệt nhất của nó. Và bây giờ, trên khắp vòng xoáy của gỗ, đá, thân cây, cành cây và dây leo chết, tuyết rơi xuống. Nó thổi xuống như làn khói trên đỉnh đá phía trên; nó đứng thành một cột xoay tròn giống như một hồn ma nào đó của thiên nhiên, trên mặt phẳng, sau đó nó lao qua mép vực thẳm, và con Mèo thu mình lại trước sự lùi lại dữ dội của nó. Như thể những mũi kim băng đâm vào da qua bộ lông dày đẹp đẽ của nó, nhưng nó không bao giờ chùn bước và chưa một lần khóc. Nó chẳng được gì từ việc khóc lóc, và có thể mất đi mọi thứ, con thỏ sẽ nghe thấy tiếng mèo khóc và biết nó đang đợi.


   Trời càng lúc càng tối hơn, với một làn sương trắng kỳ lạ thay vì màu đen tự nhiên của màn đêm. Đó là một đêm giông bão và cái chết đến theo đêm tối của thiên nhiên. Tất cả những ngọn núi đều bị che khuất, bao bọc, bị bao bọc và hỗn loạn, nhưng ở giữa nó đang chờ đợi, hoàn toàn không bị khuất phục, sự kiên nhẫn và sức mạnh nhỏ bé, kiên cường, sống động dưới lớp áo lông nhỏ màu xám.

    Một tiếng nổ dữ dội quét qua tảng đá, cuốn theo một cơn lốc mạnh ngang qua mực nước, rồi lao qua vách núi.


   Sau đó, Mèo nhìn thấy hai mắt sáng lên vì kinh hãi, điên cuồng vì thôi thúc muốn bay, nó nhìn thấy một cái mũi hơi run run, giãn ra, nó thấy hai cái tai vểnh lên, và nó đứng yên, từng dây thần kinh và cơ bắp căng ra như dây điện. . Sau đó con thỏ đã ra ngoài – có một hàng dài những kẻ bỏ chạy và kinh hoàng – và con Mèo đã bắt được nó.


     Sau đó, Mèo về nhà, kéo lê  con mồi của nó xuyên qua tuyết.


     Mèo sống trong ngôi nhà mà chủ nó đã xây, thô sơ như căn nhà gỗ của một đứa trẻ, nhưng cũng đủ chắc chắn. Tuyết rơi dày đặc trên độ dốc thấp của mái nhà, nhưng nó sẽ không lắng xuống dưới đó. Hai cửa sổ và cửa ra vào được đóng chặt , nhưng Mèo biết đường vào. Nó trèo lên cây thông phía sau nhà, mặc dù việc đó thật vất vả với con thỏ nặng nề của nó, và sau đó nó ở trong cửa sổ nhỏ dưới mái hiên. xuống căn phòng bên dưới qua cái bẫy, rồi lên giường của chủ nhân với một chiếc lò xo và một tiếng kêu chiến thắng vang dội, cả con thỏ và tất cả. Nhưng chủ của nó không có đó; ông ấy đã đi từ đầu mùa thu và bây giờ là tháng Hai. Ông sẽ không trở lại cho đến mùa xuân, vì ông đã già, cái lạnh khắc nghiệt của miền núi bám chặt vào cơ thể ông như một con báo, và ông đã về làng để trú đông. Mèo đã biết chủ của mình đã đi từ ​​lâu, nhưng suy tính của nó luôn tuần tự và mạch lạc; luôn luôn đối với nó những gì đã xảy ra, và càng dễ dàng hơn với khả năng chờ đợi kỳ diệu nên nó luôn về nhà với mong muốn tìm thấy chủ nhân của mình.


   Khi thấy ông chủ vẫn đi vắng, nó kéo con thỏ ra khỏi chiếc giường xuống sàn, đặt một chân móng vuốt nhỏ lên xác con vật để giữ cho nó đứng vững và bắt đầu ngoạm với cái đầu nghiêng  sang một bên để mang lại hàm răng chắc khỏe nhất mà dứt miếng thịt.

   Trong nhà tối hơn là bên ngoài rừng, cái lạnh như muốn cướp đi sinh mạng của mọi sinh vật , mặc dù không quá khắc nghiệt. Nếu Mèo mù quáng không đón nhận  chiếc áo khoác lông của mình mà Thượng đế ban tặng, nó sẽ rất biết ơn vì mình đã có được tấm áo lông ấy . Nó có màu xám lốm đốm, màu trắng trên mặt và ngực, lông dày hết mức có thể.


    Gió thổi tuyết đập vào cửa sổ mạnh đến mức kêu lạch cạch như mưa đá, và ngôi nhà hơi rung chuyển. Đột nhiên, Mèo nghe thấy một tiếng động, ngừng gặm con thỏ và lắng nghe, đôi mắt xanh sáng ngời của nó dán chặt vào cửa sổ. Sau đó nó nghe thấy một tiếng hét khàn khàn, một tiếng la hét tuyệt vọng và cầu xin; nhưng nó biết chủ chưa về nên nó chờ đợi, một chân vẫn đặt trên con thỏ. Sau đó, tiếng hú lại vang lên và Mèo trả lời. Nó nói tất cả những điều cần thiết khá rõ ràng theo sự hiểu biết của mình . Trong tiếng kêu đáp lại của nó có sự điều tra, thông tin, cảnh báo, khủng bố và cuối cùng là lời đề nghị kết bạn; nhưng người đàn ông bên ngoài không nghe thấy vì tiếng bão đang gào thét.


    Sau đó có một tiếng đập mạnh vào cửa, rồi một tiếng nữa, và một tiếng nữa. Mèo kéo con thỏ của mình xuống gầm giường. Những cú đánh ngày càng dày hơn và nhanh hơn. Đó là một cánh tay yếu ớt đã mang lại , nhưng nó khiến căng thẳng vì tuyệt vọng. Cuối cùng, cái khóa cũng long ra và người lạ bước vào. Sau đó, chú Mèo ngó từ dưới gầm giường lên, chớp mắt với một ánh sáng đột ngột, và đôi mắt xanh của nó nheo lại.

     Người lạ bật một que diêm và nhìn quanh. Mèo nhìn thấy một khuôn mặt hoang dại và xanh xao vì đói và lạnh, và một người đàn ông trông nghèo hơn và già hơn người chủ già tội nghiệp của nó , người bị loài người ruồng bỏ vì sự nghèo khó và bí ẩn thấp hèn của tổ tiên; và nó nghe thấy một giọng nói đau khổ lẩm bẩm khó hiểu từ cái miệng khắc nghiệt đáng thương. Trong đó có cả những lời báng bổ và cầu nguyện, nhưng Mèo không biết gì về điều đó.


    Người lạ mặt đã cài then cánh cửa mà ông đã đập lấy một ít củi từ đống xếp trong góc rồi nhóm lửa trong cái bếp cũ nhanh nhất có thể trong khả năng đôi bàn tay gần như tê cóng của ông cho phép. Ông lắc lư một cách đáng thương khi làm việc đến nỗi con mèo dưới gầm giường cũng cảm nhận được sự rung chuyển đó. Sau đó, người đàn ông nhỏ bé, yếu đuối và đầy những vết sẹo đau khổ mà ông đã tự kéo xuống trên đầu mình, ngồi xuống một trong những chiếc ghế cũ và cúi xuống đống lửa như thể đó là tình yêu và ham muốn duy nhất của ông , giơ đôi bàn tay vàng khè như móng vuốt vàng khè, rên rỉ. Con mèo từ gầm giường bước ra và nhảy lên đùi ông ta với con thỏ. Người đàn ông hét lên một tiếng lớn và bắt đầu kinh hãi, rồi nhảy dựng lên, con mèo trượt chân xuống sàn, còn con thỏ ngã bất động, người đàn ông dựa vào tường, thở hổn hển vì sợ hãi và ghê rợn. Con mèo tóm lấy gáy con thỏ và kéo nó đến chân người đàn ông. Rồi nó cất tiếng kêu chói tai, dai dẳng, cong lưng lên cao, đuôi là một chùm lông vẫy lộng lẫy. Nó cọ vào bàn chân của người đàn ông đang tuột ra khỏi đôi giày rách của ông .


   Người đàn ông nhẹ nhàng đẩy con mèo ra và bắt đầu lục lọi xung quanh căn nhà gỗ nhỏ. Ông ta thậm chí còn khó nhọc leo lên thang lên gác xép, bật một que diêm và nhìn lên trong bóng tối với đôi mắt căng thẳng. Ông sợ rằng có thể có một người đàn ông vì ở đó có một con mèo. Trải nghiệm của ông với đàn ông không hề dễ chịu, và trải nghiệm với đàn ông cũng không dễ chịu với anh. Ông là một Ishmael già lang thang giữa đồng loại; ông tình cờ đến nhà một người anh em, người anh em đó không có ở nhà, ông mừng rỡ.


    Ông quay lại chỗ con Mèo, khom người xuống và vuốt ve lưng nó, con vật cong cái lưng lên như một giây cung.


    Rồi ông nhấc con thỏ lên và háo hức nhìn nó bằng ánh sáng hắt ra từ bếp lửa. Hai hàm của ông chem chép. Ông gần như có thể nuốt chửng con vật . Ông mò mẫm – con mèo bám sát gót ông – xung quanh mấy cái kệ và một cái bàn thô kệch, và tìm thấy, với một tiếng càu nhàu tự mãn, một chiếc đèn có dầu bên trong. Rồi ông châm đèn ; sau đó tìm một cái chảo rán và một con dao, lột da con thỏ và chuẩn bị nấu nó , con mèo luôn ở bên cạnh ông .


   Khi mùi thịt nấu tràn ngập ngôi nhà gỗ , cả người đàn ông và con mèo đều trông như sói. Người đàn ông một tay lật  con thỏ và cúi xuống vỗ nhẹ con mèo bằng tay kia. Mèo nghĩ ông ta là một người đàn ông tốt. Nó yêu quý ông bằng cả trái tim, mặc dù nó mới biết ông một thời gian ngắn, và mặc dù người đàn ông này có khuôn mặt vừa đáng thương hại vừa ma mãnh.


    Đó là một khuôn mặt với những vết xám xịt của tuổi tác, với những nốt rỗ vì thủy đậu trên má và những ký ức về sai lầm trong đôi mắt lờ mờ, nhưng Mèo đã chấp nhận người đàn ông đó mà không nghi ngờ gì và yêu mến ông ta. Khi con thỏ đã chín một nửa, cả người và mèo đều không thể đợi được nữa. Người đàn ông lấy nó ra khỏi bếp lửa, chia ra chính xác làm hai phần, đưa cho Mèo một nửa và tự mình lấy một nửa. Sau đó cả hai cùng ăn.


Sau đó, người đàn ông tắt đèn, gọi Mèo lại, lên giường, kéo tấm trải giường rách rưới rồi ngủ với Mèo trong lòng ngực.


   Người đàn ông là khách của Mèo trong suốt thời gian còn lại của mùa đông, và mùa đông ở vùng núi rất dài. Người chủ hợp pháp của túp lều nhỏ đã không trở lại cho đến tháng Năm. Suốt thời gian đó, Mèo làm việc cực nhọc và ngày càng gầy đi vì nó chia sẻ mọi thứ với khách của mình, ngoại trừ chuột; và đôi khi con mồi rất thận trọng, và thành quả của sự kiên nhẫn trong nhiều ngày là rất ít đối với cả hai . Tuy nhiên, người đàn ông đó ốm yếu và không thể ăn nhiều, điều này thật may mắn vì anh ta không thể tự mình đi săn. Suốt ngày ông nằm trên giường, hoặc ngồi thu mình bên bếp lửa. Thật tốt là củi đã có sẵn để lấy, không phải cách cửa một quãng ngắn, vì việc đó ông phải tự lo liệu.


     Mèo kiếm ăn không mệt mỏi. Đôi khi nó đi vắng nhiều ngày, và lúc đầu người đàn ông này thường rất sợ hãi, nghĩ rằng mèo sẽ không bao giờ quay trở lại; rồi nghe thấy tiếng kêu quen thuộc ngoài cửa, loạng choạng đứng dậy để nó vào. Rồi cả hai cùng nhau dùng bữa, chia đều; sau đó Mèo sẽ nghỉ ngơi và kêu gừ gừ, rồi cuối cùng ngủ trong vòng tay của người đàn ông.

 

    Gần về mùa xuân, việc săn mồi ngày càng khắm khá hơn ; nhiều động vật nhỏ hoang dã hơn bị dụ rời khỏi nhà của chúng để tìm kiếm bạn tình cũng như thức ăn. Một ngày nọ, Mèo gặp may mắn - một con thỏ, một con gà gô và một con chuột. Nó không thể mang tất cả chúng cùng một lúc, nhưng cuối cùng đã lôi được chúng trước cửa nhà. Rồi nó cất tiếng kêu , nhưng không ai trả lời. Tất cả các dòng suối trên núi đều đã tan băng, không khí tràn ngập tiếng róc rách của nhiều dòng nước, thỉnh thoảng mấy cái mỏ  chim chúi xuống xuyên qua mặt nước. Cây cối xào xạc tiếng gió mùa xuân mới; có một vệt màu hồng và xanh vàng trên bề mặt của một ngọn núi xa xa nhìn qua khe hở trong rừng. Đầu những bụi cây căng phồng và lấp lánh màu đỏ, thỉnh thoảng lại nở một bông hoa; nhưng Mèo không liên quan gì đến hoa cả. Nó đứng cạnh chiến lợi phẩm trước cửa nhà, rồi kêu với vẻ đắc thắng, xen lẫn lời phàn nàn và nài nỉ không ngừng, nhưng không có ai đến mở cửa cho nó vào. Sau đó, con mèo để lại kho báu  của mình nơi cánh cửa và đi vòng ra phía sau nhà đến cây thông, leo lên thân cây một cách điên cuồng, rồi đi vào qua cửa sổ nhỏ, đi xuống qua cái bẫy để vào phòng, và người đàn ông đã biến mất.


    Con Mèo lại kêu lên - tiếng kêu của con vật mong có bạn đồng hành là một trong những nốt nhạc buồn của thế giới; nó nhìn vào mọi ngóc ngách; nó nhảy tới chiếc ghế cạnh cửa sổ và nhìn ra ngoài; nhưng không có ai đến. Người đàn ông đã ra đi và không bao giờ trở lại nữa.


     Mèo ăn chuột trên bãi cỏ cạnh nhà; con thỏ và con gà gô nó nặng nhọc mang vào nhà nhưng người đàn ông không đến chia sẻ chúng. Cuối cùng, trong một hoặc hai ngày, nó đã tự mình ăn hết chúng; sau đó ngủ một lúc lâu trên giường, và khi thức dậy thì người đàn ông đó đã không còn ở đó nữa.


     Sau đó, Mèo lại đi đến khu săn bắn của mình và trở về nhà vào ban đêm với một con chim béo núc , gan lì lý  luận với sự kiên trì không mệt mỏi của mình rằng người đàn ông sẽ ở đó; và có ánh sáng ở cửa sổ, và khi nó cất tiếng kêu , ông chủ cũ của nó đã mở cửa cho nó vào nhà.


     Chủ của con Mèo có tình bạn  bền chặt với Mèo, nhưng không có tình cảm. Ông chưa bao giờ vuốt ve nó như người đàn ông vô gia cư dịu dàng, nhưng ông có lòng tự hào về con mèo và lo lắng cho tính mạng của nó, mặc dù ông đã để nó một mình suốt mùa đông mà không hề đắn đo. Ông ta sợ rằng một điều bất hạnh nào đó có thể sẽ đến với Mèo, mặc dù nó rất to lớn và là một thợ săn dũng mãnh. Vì vậy, khi nhìn thấy con mèo ở cửa trong bộ áo khoác mùa đông bóng loáng, khuôn ngực trắng nõn và nét mặt sáng như tuyết dưới nắng, khuôn mặt ông rạng rỡ chào đón, còn Mèo thì ôm lấy chân ông với thân hình uốn lượn đầy sức sống. với những tiếng gừ gừ vui mừng.

     Mèo ăn con chim một mình, vì chủ của nó đã chuẩn bị bữa tối trên bếp. Sau bữa tối, ông chủ của Mèo lấy tẩu thuốc đi tìm một chút thuốc lá nhỏ mà ông đã để trong lều suốt mùa đông. Ông đã thường xuyên nghĩ đến điều đó; và con mèo dường như mới là lý do để trở về nhà vào mùa xuân. Nhưng thuốc lá đã hết, không còn đến cả một hạt bụi. Người đàn ông chửi thề một chút với giọng đều đều nghiệt ngã, khiến cho những lời báng bổ mất đi tác dụng thông thường. Ông đã và đang là một người nghiện rượu nặng; ông đã đi khắp thế giới cho đến khi dấu vết  xó xỉnh của nó in sâu vào tâm hồn ông, do đó trở nên chai sạn, cho đến khi khả năng nhạy cảm với sự mất mát của anh trở nên mờ nhạt. Ông ấy đã là một ông già rất già.


   Ông tìm kiếm thuốc lá với một kiểu kiên trì chống cự buồn tẻ, rồi ông nhìn chằm chằm khắp phòng với vẻ ngạc nhiên ngẩn ngơ. Đột nhiên, nét mặt ông co giật thay đổi. Một cái nắp nồi nữa bị vỡ; một tấm thảm cũ được buộc trên cửa sổ để ngăn gió lạnh; củi của ông đã hết sạch. Ông nhìn và không còn dầu trong lon nữa. Ông nhìn tấm trải giường; ông nhấc chúng lên và lại cất tiếng phàn nàn trong cổ họng. Rồi ông lại tìm thuốc lá.


   Cuối cùng ông cũng phải từ bỏ nó. Ông ngồi bên bếp lửa, vì tháng Năm trên núi vẫn còn lạnh; ông ngậm chiếc tẩu rỗng trong miệng, cái trán thô ráp nhăn lại, ông và Mèo nhìn nhau qua hàng rào yên lặng không thể vượt qua đã được đặt ra giữa con người và thú vật từ khi tạo ra thế gian.


( Con Mèo được giới thiệu là Truyện Ngắn Trong Ngày vào Thứ Ba, ngày 12 tháng 3 năm 2024 )


THÂN TRỌNG SƠN 

dịch và giới thiệu 

( tháng 10 / 2024 )


Nguồn:


https://americanliterature.com/author/mary-e-wilkins-freeman/short-story/the-cat/