mercredi 18 juin 2025

Cảnh bần hàn

 

CẢNH BẦN HÀN


Truyện ngắn

Steele Rudd

Nhà văn Úc

( 1868 - 1935 )



 



Steele Rudd là bút danh của Arthur Hoey Davis, nhà văn Úc, nổi tiếng với tập truyện ngắn On Our Selection. Ông là con thứ tám của một gia đình có tới 13 người con. Thuở nhỏ, Steele Rudd học tại một trường nhỏ ở địa phương nhưng nghỉ học sớm, khi mới 12 tuổi và đi làm những việc lặt vặt tại một nhà ga, ba năm sau là người chăn súc vật ở nơi đây. Năm 18 tuổi, ông được bổ làm thư ký trong văn phòng của người phụ trách những vùng đất vô chủ ở Brisbane.

Năm 1889, Davis được chuyển đến văn phòng quận trưởng, và thời gian rảnh ông thường đi chèo thuyền và bắt đầu viết trong một chuyên mục về môn này trên một tuần báo địa phương với bút danh Steele Rudd.

Khoảng cuối năm 1895, Davis gởi một bản tóm tắt về kinh nghiệm của cha ông “ Khởi nghiệp “ cho tờ The Bulletin. Bài này được in vào số báo ngày 14/12/1899. Được khích lệ, ông tiếp tục viết và vẫn được đăng. Sau này những bài đó được đăng trên những ấn phẩm rẻ tiền, đến 1930 đạt tới 250 000 bản.

Năm 1930, tuyển tập On Our Selection ra đời và cũng vào năm này ông từ bỏ đời công chức. Tháng 1 năm 1904, Davis mua hẳn tạp chí Rudd’s Magazine, báo ra hàng tháng và tiếp tục được bốn năm. Ban đầu báo xuất bản ở Brisbane, sau chuyển về Sydney. Tạp chí này sống lâu hơn những tờ khác nhưng vẫn không có nhiều độc giả, suốt bảy năm, báo đổi tên nhiều lần.

Davis cho in loạt bài trên tuyển tập On Our Selection. Phần lớn đều thành công tuy nhiên vẫn không có nhiều lợi nhuận vì giá rẻ. Gần cuối đời, ông còn in hai tác phẩm nữa nhưng ông vẫn thấy nếu mong nổi tiếng về một phương diện thôi thì khó có độc giả cho những tác phẩm viết nghiêm túc hơn. 

Danh tiếng của Davis chủ yếu nhờ vào những truyện ngắn viết về đời sống nông thôn. 

Truyện ngắn dưới đây là tiêu biểu cho khuynh hướng đó: nước Úc mùa khô hạn, thường xảy ra cháy rừng, không trồng trọt gì được. Nhan đề của truyện là “ When the wolf was at the door “ là thành ngữ không dịch theo nghĩa đen được, ý chỉ tình trạng khó khăn, thiếu thốn. Người dịch chuyển thành Cảnh bần hàn.


Truyện trích từ tuyển tập On Our Selection, Chương IV.



***



Cảnh bần hàn.


Thời tiết khô hạn kéo dài, và gia đình tôi nạo vét hồ nước. Bố đang ở dưới đó xúc từng xẻng đất hất tung lên, Joe thì ngồi trên bờ bắt ruồi rồi vặt hết cánh thả cho chúng đi, một trò chơi ưa thích của nó, trong khi đó anh Dan và Dave xẻ rãnh để dẫn nước chảy từ đỉnh núi vào hố khi trời mưa. Bố khát khô cổ họng, bảo Joe đi kiếm thứ gì uống.

Joe nói với Bố:

  • Bố ơi, bố xem con ruồi này có bay được bằng một cánh không nhé. 

Nói xong, nó bước đi, nhưng quay trở lại và nói: “ Trong thùng không còn giọt nước nào bố ạ. Mẹ lấy nấu bí đỏ hết rồi. “ Và nó lại bắt ruồi. Bố cố nhổ nước bọt và đang định nói thì mẹ đã đi đến khoảng giữa căn nhà và hố nước rồi kêu lên rằng cả đồng cỏ đang bị cháy. 

  • Bố xem này, thế là xong”. Joe vừa nói vừa lấy ngón tay từ từ và nhẹ nhàng rút đầu con ruồi ra. 

Bố nhoài người ra khỏi hố nhìn và chỉ nói có một chữ: “ Trời!” 

Bố chạy thật là nhanh. Bọn tôi chạy theo sau, trừ thằng Joe không sao chạy nhanh được vì hôm trước nó đã cỡi con ngựa tồi, đi tới mười lăm dặm lại không thắng yên. Đến gần đám cháy, bố dừng lại để nhổ một bụi cây xanh. Bố vớ phải một bụi rất chắc. Bố rất vội nhưng nào cây có vội gì đâu. Bố vừa văng tục, vừa dùng hết sức bình sinh mà kéo. Rồi cái bụi cây cũng bật lên, làm bố ngã ngửa rất mạnh, thế là bố lại văng tục.

Bố lo nhất làm sao cứu được hàng rào cây quanh vườn. Chúng tôi vung cành dập lửa tứ phía. Nóng quá sức, nóng khủng khiếp. Gió ngừng lúc nào chúng tôi làm việc lúc ấy. Cành cây của bố vung lên vun vút chẳng khác gì cánh cối xay gió. Khi cành cây bố dùng để dập lửa đã cháy cụt thì chỉ thoáng một cái bố đã kiếm được một cành khác. Khi chúng tôi đã gần dập được đám cháy thì gió lại ào đến ngọn lửa lại bốc cao hơn và nhanh hơn lúc trước nhiều lắm.

Cuối cùng bố nói: “ Vô ích”, bố một tay vò đầu, còn một tay ném cành cây xuống. Tất cả chúng tôi làm theo, đứng nhìn hàng rào cháy trụi. Ăn tối xong, chúng tôi lại ra và thấy hàng rào vẫn đang cháy. Joe hỏi bố xem ông có thấy cảnh đó huy hoàng không. Bố không trả lời, tối hôm đó hình như bố không có hứng thú trò chuyện thì phải.

Chúng tôi quyết định dựng lại hàng rào. Anh Dan đi lấy cái dũa hỏng ra mài lại cái rìu cho sắc, rồi cùng bố định bắt tay làm thì mẹ đến hỏi phải làm thế nào với chỗ bột mì. Mẹ bảo vét mãi mới đủ làm bánh cho bữa sáng, và nếu không kiếm đâu ra nữa thì bữa tối sẽ không có bánh mì ăn.

Bố ngẫm nghĩ, còn anh Dan lấy ngón tay cái rờ vào lưỡi rìu.

Bố hỏi:” Thế bà Dwyer không cho vay một ít cho tới lúc chúng ta có à?”

“ Không”, mẹ trả lời. Chưa trả được chỗ bột mì mình còn nợ, đâu dám hỏi vay nữa.

Bố lại ngẫm nghĩ.

  • Còn bên nhà ông Andersen thì sao ? 

Mẹ lắc đầu, hỏi rằng làm như thế liệu có ích gì khi mới vừa sáng nay họ đã hỏi vay bà một ít.

  • Thôi được rồi, chúng ta phải cố hết sức thôi. Bố trả lời. Để tối nay tôi ra cửa hàng xem sao. 

Dẫu bố vội đến đâu nhưng công việc dựng lại cái hàng rào thì lại vô cùng phiền toái. Bố đốn cây con, mà đâu chỉ có cây con, trong đó có cả cây to, còn chúng tôi mồ hôi nhễ nhại kéo những cây gỗ đó thành hàng. Bố làm hùng hục như trâu và ông mong chúng tôi cũng làm như thế.

  • Việc gì cứ phải ngó nghiêng thế. Bố lại nói mỗi khi bắt gặp chúng tôi nhìn mặt trời xem đã đến giờ ăn tối chưa. - Có muốn dựng cái hàng rào cho xong và thu hoạch cho tốt thì phải nhanh chân nhanh tay lên.

Anh Dan làm việc hăng say không kém bố cho đến lúc một cái gốc cây con rơi vào chân khiến anh phải nhảy lò cò, kêu đau và chán không muốn làm cái hàng rào chết tiệt kia nữa, Anh tranh luận với bố, dứt khoát cho rằng cứ dựng ngay một hàng rào bằng dây thép còn tốt hơn nhiều, thế là ổn thoả thôi, chẳng hơi đâu lãng phí thời gian vào cái thứ rồi thế nào cũng bị cháy lần nữa ấy.

  • Bố tính xem mất độ bao lâu mới kiếm đủ cọc. Không thể một tuần được.

Nói xong anh nện cái gậy cầm tay xuống đất một cách bực bội.

  • Đồ ăn hại! Bố nói. Thế mày không còn biết nghĩ cái gì nữa à con? Không có  dây thép thì làm quái gì dựng được hàng rào chứ.

Sau đó, chúng tôi nghỉ tay đi ăn cơm tối.

Bữa ăn đó chẳng ai thấy hứng thú trò chuyện. Mẹ ngồi im lặng cuối bàn ăn và rót nước trà, còn bố ở đầu bàn bên kia múc canh bí đỏ và chia món thịt ướp nguội lạnh, Mẹ không đụng đến món thịt, không thôi một trong chúng tôi sẽ không có gì mà ăn cả.

Tôi không hiểu vì cãi cọ với anh Dan hay là vì bữa tối không có bánh mì  ăn nên bố cáu kỉnh. Bố mắng Joe ăn cơm mà để tay dơ. Joe kêu rằng nó không rửa tay được vì khi anh Dave rửa xong, anh đã hất cả chỗ nước đi. Bố quắc mắt nhìn anh Dave, còn Joe tuồn cái bát xin thêm bí đỏ.

Bữa ăn sắp xong thì anh Dan trông có vẻ vẫn đói đã nhe răng cười và hỏi đùa anh Dave có muốn ăn bánh mì không. Nghe thấy thế bố chồm lên giận điên người. 

  • Mày hỗn xược quá! Bố mắng anh Dan. Mày dám nhạo báng chuyện đó à?
  • Ai nhạo báng hả bố ? Anh Dan lại cười nhăn nhở.
  • Cút ngay! Bố giận dữ quát, tay chỉ ra cửa. Cút ngay ra khỏi nhà tao, đồ vô ơn!

Tối hôm đó anh Dan bỏ đi.

Sau đó bố phải hứa danh dự là sẽ trả bớt nợ trong hai tháng, người chủ cửa hàng mới để chúng tôi mua chịu một bao bột mì nữa. Bao bột mì đó mang lại bao thay đổi trong nhà tôi! Ngay lập tức, cả nhà trở nên vui vẻ. Và bố tỏ ra rất phấn khởi khi nói về trang trại và viễn cảnh của mùa tới.

Bốn tháng trôi qua. Đến một lúc nào đó cũng đã dựng xong hàng rào và một hecta lúa mì đã được trồng nhưng không có mưa nên không một cây lúa nào mọc được, hoặc có khả năng nẩy mầm được. Từ ngày đi đến giờ, anh Dan vẫn bặt vô âm tín. Bố nói chuyện với mẹ về anh.

  • Thằng vô lại bỏ đi đúng lúc ta cần nó giúp đỡ. Bao nhiêu năm nay tôi quần quật làm để nuôi nó, vậy mà bà xem, tôi nhận được sự trả ơn như vậy đấy ! Nhưng tôi cam đoan, dù thế nào nó cũng vui mừng được trở về nhà.

Thời tiết vẫn khô hạn. Lúa mì không mọc được và bố lại thất vọng.

Tuần nào ông chủ cửa hàng cũng đến nhắc bố về lời hứa.

  • Hễ có là tôi mang trả ông ngay, ông Rice ạ, bây giờ tôi biết làm sao? Không thể      rút máu từ đá được. 
  • Đến trà uống nước chúng tôi cũng hết và bố nghĩ đến việc đòi ông Anderson tiền công ông làm hàng rào cho nhà anh ta để mua ít trà, nhưng Anderson tỏ ý tiếc rằng chưa có, và hứa sẽ trả khi bán được trấu. Mẹ nghe nói ông Anderson chưa trả mẹ khóc mà nói rằng trong nhà không còn tí đường nào, và cũng chẳng có tí vải nào để vá quần áo cho các con.

Chúng tôi không thể sống mà không có trà uống nên bố bày cho mẹ cách làm ra loại chè mới. Bố nướng một khoanh bánh mì cho đến khi cháy đen, sau đó đổ nước sôi vào và để cho nó ngấm. Bố nói nó có một mùi thơm tuyệt vời, ông thích lắm.

Cái quần duy nhất mà anh Dave mặc đã rách rồi, Joe thì không có cái áo khoác tàm tạm nào để đi chơi ngày chủ nhật. Còn bố phải đi đôi ủng đế buộc dây thép, và mẹ thì đau. Bố làm hết sức, giúp đỡ mẹ, rồi chuyện trò, hy vọng về cảnh giàu có một ngày nào đó sẽ đến với chúng tôi. Vậy mà có lần nói chuyện với anh Dave , bố thất vọng hẳn và thề có đấng tối cao chứng giám, bố không biết phải làm gì nữa. Anh Dave không biết nói gì, anh cũng buồn ủ rũ thấy cảnh nhà cửa chẳng ra sao cả. 

Khi mẹ đau, bố phải dành hết thời gian để chăm sóc mẹ, khi trong nhà hầu như chẳng còn gì, khi thực sự cảnh bần hàn đã thường trực ở cửa thì anh Dave về, mang theo cả túi tiền và một gói dính dầu mỡ. Bố vô cùng sung sướng, bắt tay mừng anh trở về. Và anh Dave nói về chuyện chăn cừu, chăn ngựa. Nhiều lần anh khẩn khoản nói bố hãy đi xén lông cừu, cuộn thuốc lá hoặc đóng dấu gia súc, làm bất cứ việc gì còn hơn là làm việc để chết đói trong cảnh này.

Thế là, cách đây mười lăm nay, Bố vẫn ở lại nông trại.


THÂN TRỌNG SƠN 

dịch và giới thiệu 

( tháng 9/2023 )


Nguồn:


http://www.telelib.com/authors/R/RuddSteele/prose/onourselection/ourselection04.html





THÂN TRỌNG SƠN

dịch và giới thiệu

( tháng 9 / 2023 )


mardi 17 juin 2025

Cánh cửa xanh

 

CÁNH CỬA XANH

O. Henry

( 1862 - 1910 )


 


 O. HENRY – Bậc thầy truyện ngắn nước Mỹ


O’Henry, bút danh của William Sydney Porter, nhà văn Mỹ, tác giả của 273 truyện ngắn đăng trong các nhật báo và tạp chí, sau được in trong mười tám tập truyện. Cuộc đời của Ông rất phong phú : làm nhiều nghề khác nhau ( dược sĩ, vẽ kỹ thuật và kiến trúc, thư ký, đầu bếp nhà hàng, nhân viên công ty địa ốc, nhân viên xưởng in… ),  từng tham gia ca hát, diễn kịch, vẽ hí họa, có lúc bệnh nặng, có lúc ở tù. Có lẽ vì thế mà bối cảnh các truyện ngắn của Ông cũng rất phong phú, khắc họa xã hội nước Mỹ thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Phần lớn truyện ngắn của Ông có cốt truyện đơn giản, với nhiều tình tiết oái oăm, khắc nghiệt, có khi khôi hài để kết thúc bất ngờ. 


Về bút danh của ông, có một tờ báo đã hỏi ông chữ O có ẩn ý gì, và ông nói: " O là của Olivier, cái tên Pháp của Oliver". Và thực sự là đã có một vài truyện ông ký tên Olivier Henry.

William mất mẹ năm lên 3 tuổi và được bà nội cùng dì ruột nuôi dưỡng.

Ông học tại học viện Lindsey Street ở Greensboro, rồi làm việc trong hiệu thuốc và trở thành dược sĩ có chứng chỉ khi mới 19 tuổi.
Ông là người ham đọc sách, đặc biệt là truyện phiêu lưu và tiểu thuyết của Charles Dickens, Mark Twain và Sir Walter Scott, điều này ảnh hưởng mạnh đến văn phong của ông sau này.

Năm 1882, ông chuyển đến Texas để chữa bệnh (lao phổi) và bắt đầu một chuỗi nghề nghiệp đa dạng: chăn nuôi gia súc, họa sĩ minh họa, nhân viên kế toán và ngân hàng.
Năm 1887, ông cưới Athol Estes, một cô gái trẻ bị bệnh lao, và họ có một con gái tên là Margaret.
Khi làm việc tại First National Bank ở Austin, ông bị buộc tội biển thủ công quỹ, dù không rõ ông có thật sự phạm tội hay không. Để tránh bị bắt, ông bỏ trốn sang Honduras, nhưng quay về sau đó để chăm sóc vợ đang hấp hối. Vợ ông mất vào năm 1897.
Năm 1898, ông bị kết án 5 năm tù giam tại nhà tù liên bang ở Ohio. Tại đây, ông bắt đầu viết truyện ngắn nghiêm túc, gửi tác phẩm ra ngoài bằng bút danh O. Henry để che giấu thân phận tù nhân.

O. Henry là bậc thầy của truyện ngắn hiện đại với:
Kết thúc bất ngờ (“twist ending”) đầy cảm xúc hoặc châm biếm.
Lối kể chuyện dí dỏm, thấm đẫm tính nhân văn.
Nhân vật bình dân – thường là người lao động nghèo, trí thức thất thế, trẻ em, nghệ sĩ – được khắc họa sống động và gần gũi.

Bối cảnh truyện thường diễn ra tại New York, nơi ông từng sống và quan sát kỹ lưỡng.

Sau những năm tháng cùng quẫn, mặc dù đến lúc đã nổi danh và có tiền nhuận bút khá, O’ Henry vẫn không được hưởng hạnh phúc vào những năm cuối đời: khó khăn về tài chính vì chi tiêu quá cao, lại thêm chứng lao phổi lây từ người mẹ và tật nghiện rượu nhiễm từ người cha. Ông qua đời một cách khổ sở tại thành phố New York do bệnh lao cộng thêm chứng xơ gan khi mới 47 tuổi.

O’ Henry được xem như một trong những bậc thầy về truyện ngắn trên văn đàn thế giới, bên cạnh Tchekhov của Nga, Saki của Anh, Guy de Maupassant của Pháp.


Năm 1919, Hội Nghệ thuật và Khoa học ( Society of Arts and Sciences ) thiết lập 

“ Giải thưởng Tưởng niệm O’ Henry” ( O’ Henry Memorial Awards ), hàng năm trao cho những truyện ngắn đặc sắc.

Có lẽ nhờ cuộc đời phong phú của tác giả nên các truyện ngắn của O. Henry (tổng cộng gần 400 truyện ), cũng thể hiện các nét đa dạng của xã hội Mỹ đương thời. Người ta có thể tìm thấy những nhân vật làm các nghề mà chính tác giả đã trải qua, và còn nữa: chủ cửa hiệu, nhân viên bán hàng, ký giả, họa sĩ, bác sĩ, diễn viên sân khấu, thợ cắt tóc, cảnh sát, thanh tra, dân đi tìm vàng, cũng có những người vô nghề nghiệp vô gia cư, và kể cả kẻ tội phạm và tù nhân.

Những bối cảnh trong các truyện ngắn cũng phong phú, với nhiều truyện lấy Thành phố New York - nơi O. Henry sống tám năm cuối đời ông - làm bối cảnh, cộng thêm những mẩu chuyện phiêu lưu trong vùng Trung và Tây - Nam nước Mỹ. Tất cả đều biểu hiện khung cảnh xã hội kinh tế nước Mỹ vào thời khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, lúc đường Thành phố New York còn được thắp sáng bằng đèn ga, người còn dùng xe ngựa để di chuyển, nhiều dân chăn bò (cowboy, hay "cao bồi") vẫn còn sống bờ sống bụi và xem pháp luật bằng nửa con mắt, dân đi tìm vàng tự lập nên những thị trấn mới rồi "tự cai tự quản", v.v.

Người đọc truyện của Ông không bao giờ đoán trước được đoạn kết.

Tác phẩm nổi bật:
The Gift of the Magi (Món quà của nhà thông thái) – câu chuyện cảm động về tình yêu và sự hy sinh.
The Last Leaf (Chiếc lá cuối cùng) – nói về hy vọng và tình thương giữa những người nghệ sĩ nghèo.
The Ransom of Red Chief – câu chuyện hài hước về hai kẻ bắt cóc bị “nạn nhân nhí” hành hạ.
The Green Door – câu chuyện về định mệnh, tình cờ và lòng trắc ẩn.

Ông đã viết hơn 600 truyện ngắn trong sự nghiệp, hầu hết được đăng báo trước khi in thành tuyển tập. Dù nổi tiếng và được yêu mến, O. Henry gặp nhiều khó khăn tài chính do thói nghiện rượu, sức khỏe kém và cách sống thất thường.

Ông qua đời năm 1910, vì xơ gan, biến chứng bệnh tiểu đường và chứng phổi nặng.

Trước khi chết, ông đã nói: “Turn up the lights—I don’t want to go home in the dark.” (“Hãy bật sáng đèn – tôi không muốn về nhà trong bóng tối.”)

O. Henry được coi là một trong những cây bút truyện ngắn vĩ đại nhất nước Mỹ, có ảnh hưởng đến nhiều nhà văn sau này, trong đó có Saki, Roald Dahl, và Jeffrey Archer.

Giải thưởng O. Henry (O. Henry Award) – một trong những giải thưởng truyện ngắn danh giá nhất Hoa Kỳ – được thành lập từ năm 1919 để tôn vinh di sản văn chương của ông.


“The Green Door” – Cánh cửa định mệnh và tiếng gọi của lòng trắc ẩn.


Trong nền văn học Mỹ đầu thế kỷ XX, O. Henry nổi lên như một cây bút truyện ngắn tài hoa, với lối kể chuyện dí dỏm, nhân vật đời thường và đặc biệt là những kết thúc bất ngờ đầy xúc cảm. Truyện ngắn “The Green Door” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, nơi sự tình cờ, tưởng như là trò đùa ngẫu nhiên của số phận, lại trở thành khởi đầu cho một mối nhân duyên – và hơn thế, là biểu hiện sâu sắc của chủ nghĩa nhân văn lãng mạn mà O. Henry hằng theo đuổi.

 Cánh cửa xanh – Biểu tượng của định mệnh và khát vọng phiêu lưu

Ngay từ nhan đề “The Green Door”, O. Henry đã cài cắm một hình ảnh biểu tượng mạnh mẽ: cánh cửa màu xanh – cánh cửa của bí ẩn, của những gì đang chờ ở “bên kia cuộc sống thường nhật”. Rudolf Steiner, nhân vật chính, là một chàng trai bình thường, làm việc bán đàn piano vào ban ngày, nhưng luôn mang trong mình khát vọng phiêu lưu, sẵn sàng “nhặt mọi chiếc găng tay bị ném xuống sàn đấu của cuộc đời”.

Sự lựa chọn cánh cửa xanh trong hành lang đầy những cánh cửa giống hệt nhau không chỉ là một cú đánh may rủi, mà còn là hành động có ý chí, được dẫn dắt bởi một trực giác sâu xa về cái đẹp và điều đúng đắn. Ở đây, O. Henry cho thấy rằng những cuộc phiêu lưu lớn nhất đôi khi bắt đầu bằng một bước nhỏ nhưng quả cảm – một cái gõ cửa đầy niềm tin vào điều bất ngờ.

Khác với những “kẻ mộng du” trong tiểu thuyết lãng mạn cổ điển, Rudolf của O. Henry là một “người bình thường” giữa lòng đô thị hiện đại. Nhưng chính anh, với trái tim biết rung động và đôi mắt luôn tìm kiếm cái lạ, lại đại diện cho tinh thần lãng mạn hiện đại: không phải là chạy trốn thực tại, mà là khám phá những điều phi thường ẩn trong đời sống thường nhật.

Khi Rudolf cứu giúp cô gái nghèo kiệt sức vì đói, hành động ấy không bắt nguồn từ đạo đức giáo điều mà là sự thôi thúc nhân bản sâu xa: anh giúp vì anh tin rằng có điều gì đó ý nghĩa sau cánh cửa đó, và anh đã đúng. Chính sự “phi lý” của quyết định ấy – gõ cửa một căn phòng xa lạ chỉ vì hai chữ “Green Door” viết tay – lại làm nổi bật chất thơ và chất người trong Rudolf.

Cô gái sau cánh cửa xanh là hình ảnh thuần khiết của cái đẹp bị bỏ quên, của những mảnh đời chìm khuất trong đô thị, không phải vì họ không đáng sống, mà vì không ai gõ cửa họ. Ba ngày không ăn, kiệt sức vì đói và bị xã hội bỏ rơi, cô gái ấy vẫn giữ sự thanh lịch tự nhiên, lòng tự trọng kín đáo và một nụ cười nhân hậu.

O. Henry không cần xây dựng một bi kịch lớn lao để gây xúc động – chỉ một cái nhìn, một lát cắt nhỏ của cuộc đời cũng đủ khiến người đọc cảm nhận sự mong manh và cao cả của con người. Tình yêu chớm nở giữa Rudolf và cô gái không phải là tình yêu “tiếng sét ái tình” kiểu cổ tích, mà là tình yêu từ lòng trắc ẩn, từ sự nhận ra nhau trong khổ đau và tử tế.

Khi Rudolf phát hiện tất cả các cánh cửa trong tòa nhà đều được sơn xanh, và tấm “thẻ bài định mệnh” thực ra là tờ quảng cáo cho một vở kịch tên The Green Door, anh bỗng nhận ra rằng câu chuyện tình cờ này có thể đã không xảy ra, hoặc xảy ra với một người khác.

Tuy nhiên, thay vì cảm thấy mình bị lừa, Rudolf lại mỉm cười và tin rằng: “Đó chính là bàn tay của Định mệnh”. Ở đây, O. Henry đặt ra một câu hỏi sâu xa: Liệu định mệnh là thứ được định sẵn, hay là sự lựa chọn của chính ta khi ta dám bước qua cánh cửa lạ? Rudolf tin vào định mệnh, nhưng định mệnh ấy chỉ đến với những ai có lòng, có gan và có tình.

The Green Door không chỉ là một câu chuyện tình đẹp, mà còn là một lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự hiện diện của cái thiện giữa lòng thế giới vô cảm. Nó khẳng định rằng:

Tình người vẫn có thể được khơi dậy chỉ từ một cái gõ cửa.

Lòng tốt – dù ngẫu nhiên hay hữu ý – vẫn có thể thay đổi số phận của một con người.

Chúng ta ai cũng có thể là người gõ vào “cánh cửa xanh” của một đời khác – nếu

ta dám.

Với “The Green Door”, O. Henry đã viết nên một truyện ngắn mang đậm chất thơ, đầy tình người và ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Truyện không chỉ là một minh chứng cho tài năng xây dựng cốt truyện bất ngờ của ông, mà còn là một tuyên ngôn âm thầm về lòng trắc ẩn, khát vọng sống, và vẻ đẹp của những cuộc gặp gỡ tình cờ.

Trong thế giới hiện đại đầy ngờ vực và hối hả, The Green Door nhắc ta rằng: hãy lắng nghe tiếng gọi của trái tim – bởi đôi khi, đằng sau một cánh cửa vô danh, chính là định mệnh đang đợi ta bước vào.



* * *


“Cánh Cửa Xanh” là một truyện ngắn đầy dí dỏm và tinh tế của O. Henry, xoay quanh định mệnh, chủ nghĩa lãng mạn và cách ta nắm bắt cánh cửa cơ hội của mình.


Giả sử bạn đang đi dọc đại lộ Broadway sau bữa tối, dành ra mười phút để vừa nhâm nhi điếu xì gà, vừa cân nhắc giữa một vở bi kịch gây xúc động và một tiết mục tạp kỹ có phần nghiêm túc. Đột nhiên, một bàn tay đặt lên tay bạn. Bạn quay lại và nhìn vào đôi mắt mê hoặc của một người phụ nữ xinh đẹp, lộng lẫy trong những món kim cương và áo lông chồn Nga. Cô vội vã nhét vào tay bạn một chiếc bánh mì cuộn nóng hổi còn bơ đang tan chảy, rút ra một chiếc kéo nhỏ xíu, cắt phăng chiếc cúc thứ hai trên áo khoác của bạn, thốt ra một từ duy nhất đầy ẩn ý: “hình bình hành!”, rồi vội vã rẽ vào một con phố nhỏ, vừa chạy vừa ngoái nhìn về phía sau đầy sợ hãi.


Đó sẽ là cuộc phiêu lưu đích thực. Bạn có đón nhận nó không? Không đâu. Bạn sẽ đỏ mặt vì lúng túng; thẹn thùng làm rơi chiếc bánh và tiếp tục bước đi trên đại lộ Broadway, lóng ngóng lần mò chiếc cúc bị mất. Bạn sẽ hành xử như thế, trừ khi bạn thuộc về số ít người được chúc phúc – những người mà tinh thần phiêu lưu thuần túy chưa từng lụi tắt.

Những nhà phiêu lưu chân chính chưa bao giờ là nhiều. Những người được sách vở gọi là phiêu lưu thường chỉ là thương nhân với những phương pháp mới lạ. Họ mải miết đuổi theo những thứ mình khao khát – bộ lông cừu vàng, chén thánh thiêng, người yêu trong mộng, kho báu, vương miện, hay danh vọng. Kẻ phiêu lưu đích thực thì lên đường vô định, không toan tính, để đón chào và đối diện với số phận chưa biết. Một ví dụ tuyệt vời là Người Con Hoang Đàng – khi anh ta bắt đầu quay trở về nhà.

Những kẻ phiêu lưu nửa vời – dũng cảm và huy hoàng – thì nhiều vô kể. Từ các cuộc Thập tự chinh đến mỏm Palisades, họ đã làm giàu cho nghệ thuật của lịch sử và hư cấu, cũng như cho ngành tiểu thuyết lịch sử. Nhưng mỗi người trong số họ đều có một phần thưởng phải giành lấy, một mục tiêu để đá vào, một lưỡi rìu cần mài, một cuộc đua phải chạy, một nhát kiếm mới phải tung ra, một cái tên phải khắc ghi, một mối thù cần giải quyết – vì vậy họ không phải là những kẻ đi theo con đường phiêu lưu thuần túy.

Trong thành phố lớn, hai linh hồn song sinh Lãng Mạn và Phiêu Lưu luôn rong ruổi, đi tìm những người xứng đáng. Khi ta lang thang trên các con phố, chúng lén lút liếc nhìn ta và thử thách ta trong hàng chục lốt khác nhau. Không hiểu vì sao, ta bỗng ngẩng đầu lên và thấy một gương mặt trong khung cửa sổ như thể thuộc về phòng trưng bày ký ức thân mật của riêng mình; trong một con phố vắng, ta nghe thấy tiếng kêu đau đớn và sợ hãi phát ra từ một ngôi nhà đóng kín; xe ngựa không dừng ở vỉa hè quen thuộc mà thả ta trước một cánh cửa lạ, có người hé mở và mỉm cười mời ta bước vào; một mảnh giấy có chữ viết rơi xuống chân ta từ ô cửa cao của sự ngẫu nhiên; ta trao đổi những ánh mắt thù ghét, trìu mến hay sợ hãi thoáng qua với người xa lạ giữa dòng người vội vã; một cơn mưa bất chợt – và chiếc ô của ta có thể đang che chở cho con gái của Mặt Trăng Tròn và chị họ của Hệ Tinh Tú; ở mỗi góc phố, khăn tay rơi xuống, ngón tay vẫy gọi, ánh mắt vây bủa, và những manh mối phiêu lưu – lạc lõng, đơn côi, mê đắm, bí ẩn, hiểm nguy – đều được bí mật trao vào tay ta. Nhưng ít ai trong chúng ta đủ can đảm để giữ chặt và bước theo chúng.

Chúng ta đã trở nên cứng nhắc với chiếc “thanh kỷ luật” cắm dọc sống lưng. Chúng ta bước qua. Và rồi một ngày nào đó, ở cuối một đời nhàm chán, ta mới nhận ra rằng chuyện tình lãng mạn của mình chỉ là một cuộc hôn nhân hay hai, một bông hồng satin cất trong két sắt, và một mối hận suốt đời với chiếc lò sưởi hơi nước.

Rudolf Steiner là một nhà phiêu lưu đích thực. Hiếm có buổi tối nào mà anh không rời căn phòng ngủ nhỏ nằm cuối hành lang để lên đường tìm kiếm điều bất ngờ và kỳ lạ. Với anh, điều thú vị nhất trong cuộc sống chính là thứ có thể đang ẩn náu ngay sau góc phố tiếp theo. Đôi khi, lòng sẵn sàng thách thức định mệnh đã đưa anh vào những lối rẽ lạ lùng. Đã hai lần anh phải qua đêm tại đồn cảnh sát; hết lần này đến lần khác anh trở thành nạn nhân của những kẻ lừa đảo tinh ranh và hám tiền; đồng hồ và ví của anh đã từng là cái giá cho một lời quyến rũ ngọt ngào. Thế nhưng với nhiệt huyết không hề suy giảm, Rudolf vẫn tiếp tục nhặt lên mọi chiếc găng tay bị ném xuống sàn đấu vui nhộn của cuộc phiêu lưu.

Một buổi tối nọ, Rudolf đang dạo bước trên một con phố ngang trong khu trung tâm cũ kỹ của thành phố. Hai dòng người chen chúc trên vỉa hè - một bên vội vã trở về nhà, bên còn lại là những kẻ bồn chồn bỏ lại tổ ấm để đi tìm sự đón tiếp hào nhoáng của những bữa ăn bàn dài dưới ánh đèn ngàn nến.

Chàng trai phiêu lưu trẻ tuổi có vẻ ngoài ưa nhìn và bước đi với vẻ điềm tĩnh nhưng tỉnh táo. Ban ngày, anh là một nhân viên bán hàng tại cửa tiệm đàn piano. Anh cài cà vạt bằng cách luồn qua một chiếc nhẫn đá topaz thay vì dùng ghim như thường lệ; và đã từng viết thư cho biên tập viên một tạp chí rằng cuốn “Thử thách tình yêu của Junie” của cô Libbey là quyển sách có ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc đời anh.

Trong lúc đi dạo, tiếng va chạm lạch cạch của những chiếc răng giả trong một chiếc tủ kính trên vỉa hè lúc đầu khiến Rudolf chú ý — với chút rợn người — đến một nhà hàng phía trước; nhưng nhìn kỹ lại, anh phát hiện dòng chữ điện tử của một biển hiệu nha sĩ treo cao bên cửa kế bên. Một người da đen to lớn, ăn vận kỳ quặc với áo khoác thêu đỏ, quần vàng và mũ quân đội, đang khéo léo phát các tấm thiệp cho những người đi đường bằng một phong cách hết sức lịch thiệp.

Kiểu quảng cáo dịch vụ nha khoa này vốn không xa lạ gì với Rudolf. Thông thường, anh đi ngang qua người phát thiệp mà chẳng buồn nhận lấy tấm nào; nhưng tối nay, người đàn ông da đen ấy đã lén lút nhét một tấm thiệp vào tay anh một cách tài tình đến mức anh mỉm cười vì sự khéo léo đó và cứ giữ tấm thiệp trong tay.

Đi được vài bước nữa, Rudolf liếc nhìn tấm thiệp một cách hờ hững. Bất ngờ, anh quay lại nhìn kỹ hơn với vẻ thích thú. Một mặt của tấm thiệp trống trơn; mặt kia được viết bằng mực ba chữ: The Green Door” (Cánh cửa xanh). Và rồi Rudolf thấy, chỉ cách anh ba bước chân, một người đàn ông vừa nhận thiệp từ người da đen lúc đi ngang qua cũng thản nhiên ném nó xuống đất. Rudolf cúi nhặt lên. Đó là tấm thiệp in tên và địa chỉ của nha sĩ, cùng lịch làm răng giả, trám răng, và những lời hứa hẹn trơn tru về “quy trình không đau”.


Chàng bán đàn thích phiêu lưu dừng lại ở góc phố, suy nghĩ. Rồi anh băng qua đường, đi ngược lại một đoạn, rồi lại băng sang bên kia và hòa vào dòng người đang đi lên. Lúc đi ngang qua người da đen lần nữa, anh cố tỏ ra không để ý và nhận lấy một tấm thiệp được trao với vẻ thờ ơ. Đi thêm mười bước, anh kiểm tra tấm thiệp. Lại là dòng chữ quen thuộc bằng nét chữ tay giống hệt lần trước: The Green Door.”

Ba, bốn tấm thiệp nữa bị người đi đường - cả phía trước lẫn phía sau anh - vứt xuống vỉa hè. Tất cả đều rơi xuống với mặt trống hướng lên. Rudolf cúi xuống lật chúng lại. Mỗi tấm đều in sẵn nội dung quảng cáo của “phòng khám nha khoa.”

Hiếm khi thần phiêu lưu phải vẫy gọi Rudolf Steiner đến lần thứ hai. Nhưng nay điều đó đã xảy ra - và cuộc truy tìm đã bắt đầu. Rudolf thong thả quay lại chỗ người da đen to lớn đang đứng bên chiếc tủ răng giả lạch cạch. Lần này, khi anh đi ngang qua, người đó không đưa cho anh tấm thiệp nào. Bất chấp bộ trang phục lòe loẹt và kỳ cục, người đàn ông da đen ấy vẫn toát lên vẻ oai phong hoang dã một cách tự nhiên, khi anh ta đứng đó, lịch thiệp phát thiệp cho một số người, còn những người khác thì để yên cho đi qua. Cứ nửa phút, anh ta lại cất lên một câu nói khàn khàn, khó hiểu, nghe giống như tiếng lảm nhảm của nhân viên tàu điện hoặc một đoạn hát trong vở opera lớn. Và không chỉ là không đưa thiệp, Rudolf còn có cảm giác rằng anh nhận được từ gương mặt đen bóng đồ sộ kia một ánh nhìn lạnh lùng, gần như khinh khỉnh.

Cái nhìn ấy khiến chàng phiêu lưu nhói lòng. Trong đó, Rudolf đọc thấy một lời buộc tội thầm lặng rằng anh đã bị xét là kém cỏi. Dù những chữ viết bí ẩn trên tấm thiệp có ý nghĩa gì đi nữa, người da đen kia đã hai lần chọn anh giữa đám đông để trao thiệp; vậy mà giờ đây lại có vẻ như lên án anh không đủ thông minh và dũng cảm để dấn thân vào điều bí ẩn ấy.

Tránh sang một bên khỏi dòng người vội vã, chàng trai trẻ nhanh chóng quan sát tòa nhà mà anh tin là nơi cuộc phiêu lưu đang chờ đợi. Nó cao năm tầng. Tầng hầm là một nhà hàng nhỏ. Tầng trệt, giờ đã đóng cửa, dường như từng là cửa hàng mũ hoặc đồ lông thú. Tầng hai, qua những dòng chữ điện nhấp nháy, là nơi đặt phòng khám nha sĩ. Trên nữa là một loạt biển hiệu hỗn độn bằng nhiều thứ tiếng, chen chúc quảng cáo cho các thầy bói, thợ may, nhạc sĩ và bác sĩ. Cao hơn nữa, những tấm rèm buông kín và những chai sữa trắng trên bậu cửa sổ cho thấy đó là khu vực cư trú.

Sau khi quan sát kỹ, Rudolf rảo bước lên bậc thang đá cao để vào tòa nhà. Anh đi tiếp lên hai tầng cầu thang trải thảm, rồi dừng lại ở chiếu nghỉ. Hành lang ở đó được chiếu sáng lờ mờ bởi hai ngọn đèn khí nhỏ — một ở xa bên phải, một ở gần bên trái. Anh nhìn về phía ngọn đèn gần và thấy, trong quầng sáng nhợt nhạt của nó, một cánh cửa xanh. Trong một thoáng, anh do dự; rồi như thấy lại cái cười mỉa mai đầy khinh bỉ của gã da đen phát thiệp, anh liền bước thẳng tới cánh cửa xanh và gõ lên đó.

Những giây phút trôi qua trước khi tiếng gõ được đáp lại như đo bằng nhịp thở gấp gáp của một cuộc phiêu lưu đích thực. Có thể có gì sau cánh cửa xanh kia? Những tay bạc đang chơi; những kẻ gian xảo giăng bẫy bằng thủ đoạn tinh vi; một mỹ nhân đang yêu lòng dũng cảm và sẵn sàng để được tìm thấy; nguy hiểm, cái chết, tình yêu, thất vọng, chế giễu — bất cứ điều gì trong số đó đều có thể là câu trả lời cho cú gõ liều lĩnh ấy.

Một âm thanh khẽ như tiếng sột soạt vang lên từ bên trong, rồi cánh cửa chậm rãi mở ra. Một cô gái chưa đầy hai mươi tuổi đứng đó, mặt tái nhợt và lảo đảo. Cô buông tay khỏi tay nắm cửa và nghiêng người yếu ớt, chới với tìm chỗ bám. Rudolf vội đỡ lấy cô và đặt cô nằm lên chiếc ghế bành cũ kỹ đặt sát tường. Anh đóng cửa lại và đảo mắt nhanh quanh phòng dưới ánh đèn khí chập chờn. Căn phòng gọn gàng, nhưng sự nghèo túng đến tận cùng hiện rõ qua từng chi tiết.

Cô gái nằm im, như thể đã ngất đi. Rudolf lo lắng nhìn quanh phòng để tìm một cái thùng. Người ta phải lăn lên thùng những người… không, không, đó là cho người chết đuối. Anh bắt đầu quạt cho cô bằng chiếc mũ của mình. Việc đó có hiệu quả, vì anh lỡ đánh vào mũi cô bằng vành mũ cứng, khiến cô mở mắt. Và rồi chàng trai trẻ nhận ra rằng đây chính là gương mặt duy nhất còn thiếu trong bộ sưu tập chân dung thân quen của trái tim anh. Đôi mắt xám trong sáng, chiếc mũi nhỏ hơi hếch đáng yêu, mái tóc hạt dẻ xoăn nhẹ như dây leo đậu — tất cả như phần thưởng xứng đáng cho mọi cuộc phiêu lưu kỳ diệu mà anh từng trải qua. Nhưng khuôn mặt ấy gầy gò và nhợt nhạt đến xót xa.

Cô gái nhìn anh điềm tĩnh, rồi mỉm cười.

“Em ngất đúng không?” cô yếu ớt hỏi. “Vâng, ai mà chẳng ngất! Anh thử nhịn ăn ba ngày liền xem sao!”

“Himmel!” Rudolf bật thốt, bật dậy. “Chờ anh quay lại ngay!”

Anh lao ra khỏi cánh cửa xanh, chạy xuống cầu thang. Hai mươi phút sau, anh quay lại, dùng mũi giày gõ vào cửa để cô ra mở. Trên tay anh là một đống hàng hóa ôm chặt lấy thân người - từ tiệm tạp hóa và nhà hàng. Anh đặt chúng lên bàn: bánh mì và bơ, thịt nguội, bánh ngọt, bánh nướng, dưa muối, hàu, một con gà quay, một chai sữa và một bình trà đỏ nóng hổi.

“Thật vô lý,” Rudolf nói to vẻ giận dữ, “nhịn ăn thế này là không được! Em phải dừng ngay những vụ cá cược bầu cử kiểu này. Bữa tối đã sẵn sàng rồi.” Anh đỡ cô ngồi vào ghế bên bàn và hỏi: “Có cái cốc nào để rót trà không?”

“Trên kệ, bên cửa sổ,” cô đáp. Khi anh quay lại với cái cốc, anh thấy cô với đôi mắt sáng long lanh, đang bắt đầu ăn một quả dưa muối to mà cô đã moi ra từ đống túi giấy - đúng với bản năng không thể nhầm lẫn của một người phụ nữ. Anh cười, lấy lại quả dưa và rót đầy cốc sữa.

“Uống cái này trước,” anh ra lệnh, “rồi sẽ được uống trà, sau đó là một chiếc cánh gà. Nếu em ngoan, mai sẽ được ăn dưa muối. Còn giờ, nếu em cho phép, anh sẽ là khách dùng bữa tối nay.”

Anh kéo chiếc ghế còn lại ra ngồi. Trà làm sáng đôi mắt cô gái và đem chút sắc hồng trở lại khuôn mặt. Cô bắt đầu ăn với vẻ thèm thuồng nhưng vẫn giữ được nét dịu dàng — như một con thú hoang nhỏ đói khát. Cô dường như xem sự hiện diện và sự giúp đỡ của chàng trai trẻ là điều tự nhiên — không phải vì coi thường lễ nghi, mà như thể hoàn cảnh nghiệt ngã đã cho cô quyền gạt bỏ những khuôn sáo để giữ lại tính người. Nhưng dần dần, khi sức lực và sự dễ chịu quay trở lại, thì cảm giác về những quy tắc nhỏ cũng trở lại theo, và cô bắt đầu kể anh nghe câu chuyện nhỏ của mình.

Đó là một câu chuyện trong hàng ngàn câu chuyện mà thành phố thờ ơ nghe mỗi ngày — câu chuyện của một cô gái bán hàng với đồng lương ít ỏi, lại bị trừ tiền vì những “khoản phạt” để tăng lợi nhuận cho cửa hàng; rồi thời gian nghỉ việc do ốm đau; tiếp đến là mất việc, mất hy vọng — và rồi, là tiếng gõ cửa của một kẻ phiêu lưu nơi cánh cửa xanh.

Nhưng với Rudolf, câu chuyện ấy vang lên vĩ đại như Iliad hay như chương gay cấn nhất trong “Thử thách tình yêu của Junie.”

“Thật không thể tin nổi là em đã phải trải qua tất cả chuyện đó,” anh thốt lên.

“Nó… khủng khiếp lắm,” cô gái nghiêm nghị nói.


“Và em không có họ hàng hay bạn bè nào trong thành phố sao?”

“Không một ai cả.”

“Tôi cũng cô đơn trên đời này,” Rudolf nói sau một khoảng lặng.

“Thế thì tốt quá,” cô gái đáp ngay; và không hiểu sao điều đó khiến chàng trai cảm thấy vui — như thể việc cô tán thành hoàn cảnh đơn độc của anh là một niềm an ủi ngọt ngào.

Bất chợt, mí mắt cô khép xuống và cô thở dài.

“Em buồn ngủ kinh khủng,” cô thì thầm, “và cảm thấy dễ chịu quá chừng.”

Rudolf liền đứng dậy, cầm lấy mũ. “Anh xin chào tạm biệt. Một giấc ngủ dài sẽ tuyệt vời cho em.”

Anh đưa tay ra, cô bắt lấy và nói “Chúc ngủ ngon.” Nhưng đôi mắt cô hỏi một điều gì đó — một cách tha thiết, thẳng thắn và đầy khẩn cầu đến mức anh phải đáp lời bằng tiếng nói:

“Ồ, mai anh sẽ quay lại xem em thế nào. Em không dễ gì tống khứ được anh đâu.”

Rồi, khi đã đứng ở cửa, như thể cách anh đến đây chẳng quan trọng bằng việc anh đã đến, cô hỏi:

“Sao anh lại gõ đúng cửa phòng em?”

Anh nhìn cô một lúc, nhớ đến hai tấm thiệp, và bỗng cảm thấy một nỗi ghen tuông xé lòng. Lỡ như thiệp rơi vào tay ai đó cũng liều lĩnh như anh thì sao? Anh lập tức quyết định rằng cô không bao giờ được biết sự thật. Anh sẽ không để cô hay rằng anh biết đến cách tuyệt vọng mà cô từng phải dùng để tìm sự cứu giúp.

“Một người lên dây đàn piano của chỗ anh sống ở tòa nhà này,” anh nói. “Anh gõ nhầm cửa thôi.”

Thứ cuối cùng anh thấy trong căn phòng trước khi cánh cửa xanh khép lại là nụ cười của cô.

Trên chiếu nghỉ cầu thang, Rudolf dừng lại và tò mò nhìn quanh. Rồi anh đi đến đầu kia hành lang; và, sau đó, lại leo tiếp lên tầng trên, tiếp tục cuộc khám phá đầy bối rối của mình. Mỗi cánh cửa anh thấy trong tòa nhà đều sơn màu xanh lục.

Vừa băn khoăn, anh bước xuống vỉa hè. Gã người Phi kỳ lạ vẫn đứng ở đó. Rudolf tiến lại gần, tay cầm hai tấm thiệp.

“Ông có thể nói cho tôi biết vì sao ông đưa tôi những tấm này, và chúng có ý nghĩa gì không?” anh hỏi.

Người da đen nở nụ cười tươi rói, để lộ một hàm răng trắng bóng — một quảng cáo tuyệt vời cho nghề của chủ hắn.

“Nó kia kìa, ông chủ,” hắn nói, chỉ xuống cuối phố. “Nhưng tôi đoán chắc là ngài đến hơi trễ cho màn đầu rồi.”

Rudolf nhìn theo hướng hắn chỉ và thấy phía trên lối vào một nhà hát đang rực sáng biển hiệu điện tử: Cánh Cửa Xanh”, vở kịch mới của rạp.


“Tôi nghe nói nó là một vở diễn xuất sắc, thưa ngài,” người da đen nói. “Người đại diện của vở đó có tặng tôi một đô la để phát vài tấm thiệp của họ chung với thiệp của ông bác sĩ. Ngài có muốn một tấm thiệp của ông bác sĩ không ạ?”


Khi đến góc phố nơi mình ở, Rudolf dừng lại, vào quán gọi một ly bia và một điếu xì gà. Khi bước ra ngoài, tay châm điếu xì gà, anh cài khuy áo khoác, đẩy ngược mũ lên và nói một cách quả quyết với cột đèn ở góc đường:

“Dù sao đi nữa, tôi tin đó là bàn tay của Định Mệnh đã bày ra con đường để tôi tìm thấy cô ấy.”

Và với kết luận ấy — trong hoàn cảnh ấy — Rudolf Steiner xứng đáng được ghi tên vào hàng ngũ những tín đồ chân chính của Lãng mạn và Phiêu lưu.



THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 6 / 2025


Nguồn 

https://americanliterature.com/author/o-henry/short-story/the-green-door/