jeudi 31 juillet 2025

Cơn bão

 

CƠN BÃO

Truyện ngắn


Kate Chopin

Nhà văn Hoa Kỳ

( 1850 - 1904 ) 

.



Catherine O' Flaherty sinh năm 1850 tại Saint - Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hoá, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh. Theo học bậc tiểu học và trung học tại một trường công giáo với các nữ tu. Ở nhà, được nuôi dạy bởi mẹ, bà, và bà cố. Sự giao tiếp thường xuyên với những người phụ nữ ở chung quanh giúp cô bé sớm có nhận xét về vai trò của phái nữ trong gia đình và xã hội, định hình cho những ý tưởng và quan niệm cá nhân của nhà văn tương lai.


Kate Chopin ( Kate là Catherine, Chopin là họ chồng ) chịu nhiều đau thương mất mát ngay khi còn nhỏ. Cha chết vì tai nạn đường sắt khi mới lên năm (1855), bà cố, người đã dạy cho cô tiếng Pháp và văn hoá Pháp, qua đời năm 1863. Trong thời Nội chiến Hoa Kỳ ( 1861 - 1865 ), cô lại mất thêm người anh ( tham gia đội quân của Liên minh miền Nam - Confederate - ).

Kate Chopin kết hôn năm 1870 với Oscar Chopin, một thương gia chuyên buôn bán bông vải, và cũng là người gốc Pháp ).Từ năm 1871 đến 1879, Kate Chopin sinh được 5 trai và 1 gái, và số phận rủi ro vẫn không buông tha, Kate lại chịu tang chồng năm 1882, chỉ sau mười hai năm chung sống. Trở thành quả phụ năm 32 tuổi, Kate Chopin vừa nuôi con, vừa tiếp tục công việc của chồng, và không tái giá. 

Đây là chân dung Kate Chopin giai đoạn này, như ghi nhận của nhà phê bình Barbara Ewell: 


" Kate là một người khá nổi bật và quyến rũ. Không cao lắm, có khuynh hướng mập ra, thực sự xinh đẹp, mái tóc nâu dày, dợn sóng, sớm điểm bạc, đôi mắt nâu sáng trong. Bạn bè nhớ nhiều nhất là thói quen im lặng và sự nhanh trí kiểu Ái Nhĩ Lan, thêm điểm nhấn là biệt tài bắt chước. Một bà chủ nhà duyên dáng, dễ tính, thích cười, thích âm nhạc và khiêu vũ, đặc biệt là kiểu nói chuyện thông minh, bà có thể diễn đạt quan điểm cá nhân với sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên."


Sau khi chồng chết không lâu, Kate Chopin trở về sống tại St- Louis để con cái có điều kiện học hành tốt hơn. Năm 1885, đến lượt mẹ Kate Chopin qua đời.


Một bác sĩ sản khoa, cũng là bạn thân của gia đình, khuyến khích Kate viết văn, như là một liệu pháp chống buồn nản và cô đơn sau khi chồng và mẹ lần lượt đi xa.  Nghe theo lời khuyên, Kate bắt đầu cầm bút và truyện ngắn đầu tiên của bà đã được đăng trên tờ St Louis Post Dispatch năm 1889, và một năm sau, bà hoàn thành cuốn tiểu thuyết At Fault.


Hơn mười năm tiếp sau đó, Kate Chopin vừa duy trì hoạt động xã hội, vừa không ngừng sáng tác, hoàn thành được trên dưới một trăm truyện ngắn. Truyện ngắn của Kate Chopin được công bố trên những tạp chí nổi tiếng như Vogue và Atlantic Monthly. Hai tuyển tập lần lượt ra mắt: Bayou Folk, 23 truyện (1894), A Night in Acadie, 21 truyện (1897). Giới phê bình có người cho là truyện chỉ có tính địa phương, chỉ phản ảnh những sinh hoạt tại vùng Louisiana và Missouri.  Đến năm 1899, bà cho xuất bản cuốn The Awakening ( Tỉnh  thức ), thu hút nhiều nhận định đánh giá trái ngược nhau. Một vài nhà phê bình khen ngợi tính nghệ thuật của tác phẩm, nhưng cũng không ít người cho là " nhàm chán ", " tầm thường", " không lành mạnh ",  thậm chí "  độc hại ". Tất cả chỉ vì Kate Chopin là người phụ nữ " đi trước thời đại ", thông qua các nhân vật của mình, bà đã bày tỏ quan niệm ( và phản ứng ) về gia đình, hôn nhân, ly dị, ngoại tình, nữ quyền, chống lại lề thói cổ truyền ( tradition ) và quyền hành ( authority ). ( Mà đâu chỉ trong tác phẩm, ngay trong sinh hoạt đời thường, Kate Chopin cũng tỏ ra " tiên phong " đấy chứ: thời còn sống tại New Orleans hay khi về một thị trấn nhỏ ở St- Louis, bà đã làm mọi người ngạc nhiên khi đi dạo một mình, hút thuốc, ăn mặc kiểu cách và cỡi ngựa hai chân hai bên. ) 


Kate Chopin qua đời đột ngột năm 1904, xuất huyết não. 

Trong một thời gian dài, tác giả và tác phẩm bị lãng quên, ngoại trừ một số rất ít truyện được giới thiệu trong các tuyển tập xuất bản mấy năm sau khi tác giả qua đời.


Sự lãng quên ( bất công và đau đớn ) này kéo dài tới gần ... 70 năm, mãi cho đến năm 1969, khi nhà phê bình người Na Uy, Per Seyersted viết cuốn chuyên luận về tiểu sử của Kate Chopin với nhận định: 

" ( Kate Chopin ) là nhà văn nữ đầu tiên trên đất nước mình nhìn nhận đam mê như là một chủ đề chính thống của tiểu thuyết nghiêm túc, công khai. Chống lại lề thói cổ truyền và quyền hành, với một sự táo bạo mà ngày nay chúng ta khó khăn mới thấu hiểu, với sự thành thực cương quyết, không có chút gì kích động, bà đảm đương việc nói lên sự thật không che đậy về mặt khuất của đời sống người phụ nữ. Bà như là người tiên phong đề cập thẳng thắn những vấn đề dục tính, ly dị, và sự thôi thúc của giới nữ mong muốn tồn tại thực sự. Trong nhiều khía cạnh, bà là một nhà văn hiện đại, nổi bật về nhận thức những phức tạp của  sự thật và tính đa dạng của tự do."


Phong trào nữ quyền ở Mỹ phát triển ngày càng mạnh từ những năm 1960 tạo thuận lợi cho việc đánh giá về tài năng và cống hiến của Kate Chopin. Tác phẩm của bà được tái bản và giới thiệu trở lại.


Truyện ngắn Cơn bão ( the Storm ) giới thiệu dưới đây được viết năm 1898 nhưng tác giả không thể công bố ngay vì bà biết không nơi nào chịu in một truyện đề cập thẳng thắn và thẳng thừng về tình dục như truyện này. ( lần đầu tiên truyện xuất hiện trong The Complete Works of Kate Chopin, in năm 1969,  tức là gần 70 năm sau khi ra đời! ).

Ba nhân vật trong truyện, Calixta, Bobinôt và Alcée Laballière, cũng là nhân vật của truyện At the Cadian Ball, viết trước đó 6 năm, tuy nhiên hai truyện vẫn có thể được đọc độc lập. Những tên riêng nghe có vẻ rất Pháp, cũng như các nhân vật trong tiểu thuyết The Awakening: Edna Pontellier, Léonce Pontellier, Robert Lebrun, Adèle Batignole, Alcée Arobin... Những tên này nên đọc theo âm Pháp, đặc biệt là những tên có các âm tiết on, un, in, đọc với âm mũi ( nasal sound ), khác với tiếng Anh. Đọc tên tác giả Chopin cũng vậy.


Không những chỉ đặt tên Pháp, Kate Chopin còn chèn tiếng Pháp vào trong câu văn rất nhiều chỗ ( Ma foi, Dieu sait, Je vous réponds, Bonté...). Biện pháp này, ở những đoạn hội thoại, phù hợp với hoàn cảnh câu chuyện, không ảnh hưởng mấy đến việc đọc hiểu. 

Thông thạo tiếng Pháp, thấm nhuần văn hoá Pháp, lúc sáng tác, Kate Chopin chịu nhiều ảnh hưởng của nhà văn Maupassant. Ở bậc thầy của thể loại truyện ngắn này, Kate Chopin nhận ra văn chương không phải chỉ là hư cấu, mà là chính cuộc sống, với những con người đang sống quanh ta. Nhà văn quan sát và ghi lại, trực tiếp và đơn giản, những gì mình nhìn thấy. Cũng như nhà văn Pháp, Kate Chopin thường viết lại, như kiểu ghi âm, những lời đối đáp của nhân vật với câu chữ, ngữ điệu nguyên thô, để người đọc tưởng mình đang nghe trực tiếp. Hãy thử đọc đoạn này, trích trong truyện Regret ( Nuối tiếc ) để thấy điều đó:


" T ain' ispected sich as you would know airy thing 'bout 'em, Mamzelle Aurlie. I see dat plainly yistiddy w'en I spy dat li'le chile playin' wid yo' baskit o' keys. You don' know dat makes chillun grow up hard-headed, to play wid keys? Des like it make 'em teeth hard to look in a lookin'-glass. Them's the things you got to know in the raisin' an' manigement o' chillun."


Một đặc trưng khác của Maupassant - mà Kate Chopin học tập - là cách kết cấu truyện ngắn, câu chuyện diễn tiến theo tâm lý nhân vật, tình tiết đan xen, và bỗng xoay sang một kết cuộc bất ngờ, tạo ngạc nhiên thú vị cho người đọc. Thủ pháp này biểu lộ rõ với truyện The Story of an hour ( Câu chuyện một giờ ), một trong những truyện ngắn hay nhất của Kate Chopin. 


Có tin chồng của Louise bị tai nạn chết. Biết nàng bị bệnh tim nên người thân và bạn bè tìm cách báo tin khéo léo, tránh xúc động đột ngột. Ban đầu, nàng cũng đau đớn, vật vã khóc than, rồi rút về ngồi một mình trong phòng riêng. Nơi đây, khi bình tâm nhìn khung cảnh bên ngoài, dường như nỗi đau dần nguôi ngoai. Nàng quan sát những cảnh trí quen thuộc, mây bay, trời trong, cây xanh, mưa nhẹ hạt, nàng lắng nghe những âm thanh quen thuộc, tiếng rao hàng, tiếng nhạc, tiếng chim hót... Thế là một cảm giác lạ lùng, hân hoan, phấn khởi xâm nhập tâm hồn nàng. Nàng buột miệng nói: Tự do, tự do... và thanh thản nghĩ về tháng ngày dài phía trước. Nàng sẽ được tự do sống với sở thích và ước muốn của riêng mình.


Đến đây " câu chuyện một giờ " tưởng chừng kết thúc được rồi. Nhưng...

Ngay lúc này anh chồng bước vào: anh vẫn còn sống, vì trễ tàu! Khi nhìn thấy chồng trở về, Louise lăn ra chết. Bác sĩ kết luận nàng chết vì bệnh tim, vì quá vui mừng. 

 

Câu chuyện kết thúc quá bất ngờ, để cho người đọc tiếp tục suy nghĩ: có phải thực sự Louise quá vui mừng mà chết không. Và từ đó mà bàn thêm những điều tác giả không nói, tình yêu giữa hai vợ chồng chẳng hạn...


Hiện nay, Kate Chopin được xem là một khuôn mặt lớn trong nền văn học Mỹ. Tác phẩm của bà đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng, kể cả tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Trung, tiếng Mã Lai, tiếng Á Rập... và tiếng Việt.








 1. Lá cây phẳng lặng như tờ cho dù Bibi nghĩ là trời sắp mưa. Bobinôt, vốn đã quen trò chuyện với con trai nhỏ bé của mình bằng ngôn ngữ hoàn toàn bình đẳng, nhắc con chú ý nhìn những đám mây đen sẫm cuộn tới từ phía tây báo hiệu thời tiết xấu, kèm theo tiếng ầm ầm dữ dội đe doạ. 

Hai cha con đang ở tiệm tạp hoá Friedheimer và định sẽ nán lại đó cho đến khi cơn bão qua đi. Họ ngồi phía bên trong cửa, trên hai cái thùng rỗng. Bibi bốn tuổi và trông có vẻ lanh lợi.

" Mẹ sẽ lo sợ lắm đấy", nó vừa nói vừa chớp mắt.

" Mẹ sẽ đóng cửa. Có thể mẹ sẽ nhờ cô Sylvie sang giúp chiều nay",  Bobinôt đáp, giọng trấn an.

" Không, mẹ sẽ không nhờ Sylvie. Sylvie đã giúp mẹ chiều hôm qua rồi", Bibi nói lớn.

 Bobinôt đứng dậy, đi tới quầy mua một lon tôm đóng hộp, thứ mà Calixta rất thích. Rồi anh quay lại chỗ ngồi của mình trên cái thùng và ngồi vô hồn, tay nắm hộp tôm, trong khi cơn bão bắt đầu bùng phát làm lay động chiếc rèm cửa bằng gỗ và hình như rạch những đường rãnh lớn nơi cánh đồng phía xa. Bibi đặt bàn tay bé nhỏ của mình trên đầu gối cha và không thấy sợ.


 2. Ở nhà, Calixta không thấy lo ngại cho sự an toàn của hai cha con. Cô ngồi nơi cửa sổ phía một bên và mải miết đạp máy may. Cô quá bận rộn và không để ý cơn bão đang đến gần. Cô cảm thấy rất nóng nực và thỉnh thoảng phải ngừng tay để lau những giọt mồ hôi trên mặt. Cô nới lỏng chiếc khăn quàng màu trắng nơi cổ. Trời bắt đầu tối sẫm, cô chợt nhận ra tình hình nên vội đứng dậy đóng hết cửa sổ, cửa lớn.

Bên hiên ngoài, cô đã phơi quần áo mặc ngày chủ nhật của  Bobinôt, cô chạy vội ra gom vào trước khi trời mưa xuống. Khi cô bước ra bên ngoài, Alcée Laballière  cỡi ngựa đến trước cổng. Từ khi lấy chồng, cô ít khi gặp lại anh ta và không bao giờ gặp khi ở một mình. Cô đứng đấy, tay cầm cái áo khoác của Bobinôt; mưa bắt đầu rơi nặng hạt. Alcée cỡi ngựa đến chỗ trú ở mái hiên phía bên, nơi đàn gà con đang xúm xít và những cái cày, cái bừa chất đống bên góc.

  • " Tôi có thể vào hiên ngoài đợi cho đến lúc bão qua được không, cô Calixta? "
  • " Mời ông vào, M'sieur Alcée."   

Giọng nói của ông và giọng nói của chính cô làm cô hoảng hốt như vừa ra khỏi cơn hôn mê. Cô nắm chặt cái áo của Bobinôt. Alcée bước lên hiên nhà, túm cái quần và chộp lấy cái áo vét có dải viền vàng của Bibi suýt bị cơn gió mạnh đột ngột cuốn bay đi. Ông tỏ ý muốn đứng ở trước hiên, nhưng hiển nhiên như thế thì xem như ông đang ở ngoài trời: nước mưa dội mạnh vào các tấm ván lót sàn, ông bước vào bên trong, khép cửa lại sau lưng. Thậm chí phải chặn cái gì đó dưới cánh cửa để nước khỏi tràn vào.

" Chà! Mưa to quá! Dễ chừng hai năm nay mới có một trận mưa như thế này! ", Calixta thốt lên, tay cuộn tấm vải đang may, Alcée giúp cô nhét chúng vào một góc.

Cô trông có vẻ mập hơn so với lúc lấy chồng năm năm trước đây, nhưng vẻ rạng rỡ thì không kém chút nào. Đôi mắt xanh vẫn còn gợi cảm, và mái tóc vàng, mưa gió làm rối bù lên, bướng bỉnh bám chặt vào hai bên tai và thái dương.

Mưa dập vào mái lợp ván thấp ào ào dữ dội, đe doạ phá vỡ cánh cổng và ngập vào chỗ hai người. Họ đang ở trong phòng ăn, phòng khách, nhà bếp. Cạnh đấy là phòng ngủ của cô, chiếc giường nhỏ của Bibi đặt sát giường của cô. Cửa để mở, căn phòng với chiếc giường rộng màu trắng, các cánh cửa chớp khép kín, trông có vẻ mờ tối và đầy bí ẩn.

Alcée thả mình xuống chiếc ghế gỗ. Calixta bối rối nhặt dưới sàn nhà những mảnh vải bông cô đang may dở. 

" Nếu cứ tiếp tục thế này, không biết mấy cái bờ đê có đứng vững được không?" Cô thốt lên.

  " Cái gì khiến cô quan tâm đến những bờ đê đó?"

" Tôi phải quan tâm chứ! Bobinôt và Bibi sẽ gặp bão nếu họ chưa rời tiệm nhà Friedheimer."

" Cứ hy vọng đi, Calixta, Bobinôt đủ khôn ngoan để đối phó với cơn lốc ".

Cô đến đứng ở cửa sổ với vẻ mặt lo lắng. Cô lau khung của kính bị hơi nước làm mờ. Trời vẫn nóng ngột ngạt. Alcée đứng dậy, tới cửa sổ đứng gần và nhìn qua vai cô. Mưa vẫn như trút nước che mờ những căn nhà gỗ phía xa và phủ lên những cánh rừng một lớp sương mù xám. Những tia chớp vẫn loé lên không ngừng.

Một tiếng sét đánh vào một cây xoan cao bên rìa cánh đồng. Cả khoảng không gian trước mặt đều tràn ngập luồng ánh sáng chói loà và tiếng sấm nổ dường như phủ lên tấm ván chỗ họ đứng.

Calixta lấy tay che mắt, rồi khóc và loạng choạng lùi lại. Alcée quàng tay ôm lấy cô và kéo cô sát vào người mình trong chốc lát.

" Đừng!" cô khóc, vùng thoát khỏi vòng tay của ông và rời khỏi cửa sổ. 

" Căn nhà đó không biết sẽ ra sao. Giá như tôi biết được Bibi đang ở đâu! " Nàng không thể tự trấn tỉnh, và không thể ngồi yên được. Alcée siết chặt bờ vai cô, và nhìn vào mặt cô. Sự cảm nhận cơ thể ấm áp, phập phồng của cô khi ông vô tình kéo sát cô vào vòng tay đã đánh thức trong ông niềm say mê và nỗi khao khát da thịt cô từ lâu.

" Calixta, ông nói, em đừng sợ. Sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu. Căn nhà ấy thấp lắm, lại có nhiều cây cao bao quanh, nó sẽ không bị gió lốc cuốn đi đâu. Thôi nào, bình tĩnh đi em!" Ông vuốt mớ tóc che khuôn mặt ấm áp của cô. Môi cô đỏ mọng và ướt như hạt lựu. Cái cổ trắng ngần và bầu ngực đầy đặn rắn chắc của cô làm ông rung động mãnh liệt. Khi cô ngước mắt nhìn lên, nỗi sợ hãi trong đôi mắt xanh trong của cô chuyển thành một tia sáng mơ màng vô tình tiết lộ sự khao khát nhục cảm. Ông cúi nhìn vào đôi mắt ấy và không thể làm gì khác là hôn lên môi cô. Nụ hôn nhắc ông nhớ đến kỷ niệm hôm lễ Thăng thiên.

" Em còn nhớ ngày lễ Thăng thiên không, Calixta?", ông hỏi, giọng thì thầm, xúc động. Ồ, cô nhớ chứ, hôm lễ Thăng thiên ông đã hôn cô, hôn và hôn mãi đến mất cảm giác, và để giữ gìn cho cô, ông đã tự đấu tranh mãnh liệt. Nếu ngày đó, cô không phải là con chim bồ câu trong trắng, cô vẫn không bị xâm phạm. Một sinh vật nồng nàn lấy chính sự yếu đuối làm phương thức bảo vệ đã ngăn cản không cho ông tìm cách chế ngự. Còn bây giờ đây, đôi môi, cái cổ tròn và trắng và bộ ngực còn trắng hơn của cô có vẻ như đang mời gọi.

Hai người không để ý đến cơn mưa như thác đổ và tiếng ầm ầm của sấm chớp khiến cô cười to khi cô đang nằm trong vòng tay ông. Cô là một hình ảnh phát  lộ ra trong căn phòng mờ ảo, đầy bí ẩn kia, mình trắng muốt như chiếc ghế dài  cô đang nằm lên trên. Da thịt rắn chắc, dẻo dai của cô lần đầu biết được quyền lực của mình, cũng giống như một cành hoa huệ trắng sữa mà ánh nắng mời gọi đem góp hơi thở thơm tho cho nhân sinh bất diệt.  

Niềm đam mê của cô, không chút mưu mô, lọc lừa, giống như một ngọn lửa sáng xâm nhập và tìm được sự tương hoà ở nơi sâu kín của bản năng nhục cảm của ông, điều mà ông chưa từng đạt tới.

Khi tay ông chạm vào, bộ ngực cô run rẩy đê mê, mời gọi đôi môi ông. Miệng của cô là cả nguồn khoái cảm. Và khi ông chiếm hữu cô, họ như ngây ngất nơi ranh giới tận cùng của bí mật cõi sống.

Ông vẫn nằm bên trên cô, nín thở, ngẩn ngơ, kiệt sức, tim đập thình thịch. Cô đưa một tay ôm lấy đầu ông, môi hôn nhẹ lên trán ông. Tay kia vuốt nhẹ lên đôi vai rắn chắc của ông. Tiếng sấm rền ở xa rồi ngừng lại. Tiếng mưa rơi gõ nhẹ trên mái nhà lợp ván, đưa họ chìm vào giấc ngủ mơ màng. Nhưng họ không dám buông xuôi.


 3. Cơn mưa đã tạnh, cả không gian xanh tươi mượt mà dưới ánh nắng trông như một lâu đài dát ngọc. Đứng ở hiên nhà, Calixta nhìn Alcée cỡi ngựa rời xa. Ông quay lui, cười với cô với vẻ mặt rạng rỡ, cô ngẩng cao chiếc cằm xinh xắn và cười lớn.

Bobinôt và Bibi mệt mỏi lê bước về nhà, dừng lại nơi bể nước, sửa soạn sao cho vẻ bên ngoài trông được một tí.

" Này, Bibi, mẹ sẽ nói sao đây? Con phải biết xấu hổ chứ! Con phải mặc cái quần tốt kia chứ!  Nhìn xem kìa! Và còn vết bùn trên cổ áo nữa.  Sao con lại để vấy bùn trên cổ áo? Bibi! Ba chưa thấy đứa trẻ nào như thế này. " 

Bibi trông thật tội nghiệp. Bobinôt tỏ ra rất lo lắng khi cố sức xoá đi trên người mình và trên người con trai những dấu vết của chặng đường khó khăn vượt qua trên những cánh đồng ẩm ướt. Ông lấy cái que gạt bớt bùn trên hai chân trần của Bibi và cẩn thận xoá hết các vết bùn trên đôi giày của mình. Sau đó, chuẩn bị điều tồi tệ nhất - đối mặt với bà nội trợ kỹ tính - họ thận trọng đi vào cửa sau.

Calixta đang chuẩn bị bữa tối. Cô sắp đặt bàn ăn và cho cà phê nhỏ giọt trong chiếc phin để trên lò sưởi. Cô vui sướng nhảy lên khi hai cha con bước vào.

" Ồ! Bobinôt! Anh trở về! Ôi! Em lo lắm! Anh ở đâu khi trời mưa? Và Bibi, con có bị ướt không? Con có hề gì không? "

Cô ôm lấy Bibi và hôn con tới tấp. Những lời giải thích và xin lỗi mà Bobinôt đã chuẩn bị trên đường về tan biến hết vì Calixta đang sờ xem người anh có khô ráo không, cô chẳng nói gì được mà tỏ ra sung sướng thấy chồng con trở về an toàn.

" Anh có mang một ít tôm về cho em đấy, Calixta!" Bobinôt nói và lôi hộp tôm từ chiếc túi rộng ra và đặt lên bàn.

" Tôm à, ôi Bobinôt, anh lúc nào cũng chu đáo! Cô hôn thật kêu vào má ông. " Em sẽ đền bù cho anh, tối nay chúng ta sẽ vui vẻ, hưm..hưm "

Bobinôt và Bibi bắt đầu nghỉ ngơi và thư giãn. Khi cả ba người ngồi vào bàn ăn, họ liên tục cười to đến nỗi ai cũng có thể nghe thấy, kể cả ở nơi xa như nhà của Laballière.


 4.  Tối hôm đó, Alcée Laballière viết thư cho Clarisse, vợ ông. Đó là một lá thư chan chứa tình cảm. Ông dặn bà không cần vội trở về, bà và các con nếu thích   Biloxi thì cứ ở lại thêm một tháng nữa. Ông ngày càng khá hơn rồi, và tuy rất nhớ vợ con, ông sẵn sàng chịu đựng sự xa cách này thêm một thời gian nữa, ông cho rằng sức khoẻ và sự vui thích của họ là đáng quan tâm hơn cả. 


 5. Về phía Clarisse, cô rất vui mừng nhận được thư chồng. Cô và các con vẫn khoẻ.  Các mối giao thiệp đều dễ chịu, nhiều bạn bè cũ và người quen của cô đang sống ở vùng vịnh. Và chuyến đi nghỉ mát đầu tiên của cô từ ngày lấy chồng có vẻ như đang  phục hồi sự thảnh thơi thú vị của tháng ngày độc thân. Cô vốn là người hết lòng hy sinh cho chồng, cuộc sống thân mật vợ chồng là chút gì cô mong muốn lãng tránh đi trong một thời gian.     


Vậy là cơn bão đã đi qua và mọi người đều cảm thấy hạnh phúc.



THÂN TRỌNG SƠN

dịch từ nguyên bản tiếng Anh


https://eclass.uoa.gr/modules/document/file.php/ENL216/TEXTS/The%20Storm%20Chopin.pdf





mercredi 30 juillet 2025

Tiểu thuyết ăn khách

 


TIỂU THUYẾT ĂN KHÁCH

O. Henry

( 1862 - 1910 )

 


O. Henry là một tác giả truyện ngắn người Mỹ, tên thật là William Sydney Porter. Kho tàng tác phẩm phong phú của ông phản ánh kinh nghiệm sống đa dạng và được biết đến với lối văn dí dỏm, sử dụng ngôn từ khéo léo và những cái kết bất ngờ đặc trưng.

Giống như nhiều nhà văn khác, sự nghiệp ban đầu của O. Henry khá mơ hồ, ông từng thử sức với nhiều công việc khác nhau trước khi tìm được con đường văn chương của mình. Năm 1879, ông bắt đầu làm việc tại hiệu thuốc của chú và trở thành dược sĩ có bằng hành nghề khi mới 19 tuổi. Những biểu hiện sáng tạo đầu tiên của ông đến từ chính công việc này, khi ông vẽ chân dung những người dân thường xuyên ghé qua cửa hàng. Các bức ký họa của ông được đón nhận nồng nhiệt, và ông được yêu mến vì tài năng hội họa.

Năm 1882, O. Henry chuyển đến Texas với hy vọng chữa khỏi căn ho kéo dài. Tại đây, ông sống tại một trang trại cừu, học chăn nuôi, nấu ăn, trông trẻ và cả tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức từ những người lao động nhập cư. Ông có đời sống xã hội khá sôi nổi ở Austin và là một nhạc công giỏi, chơi thành thạo guitar và mandolin. Trong những năm sau đó, Porter – tên thật lúc bấy giờ – làm đủ nghề: từ dược sĩ, kỹ thuật viên vẽ bản đồ, phóng viên đến nhân viên ngân hàng.

Và đây là lúc những khúc ngoặt thật sự bắt đầu. Công việc ngân hàng hóa ra không phù hợp với ông; O. Henry khá bất cẩn trong sổ sách kế toán, bị sa thải và buộc tội biển thủ công quỹ năm 1894. Bố vợ ông bảo lãnh tại ngoại, nhưng ông đã bỏ trốn trước phiên tòa năm 1896, chạy đến New Orleans rồi Honduras, nơi không có hiệp ước dẫn độ. Tại đây, ông kết bạn với một tên cướp tàu hỏa khét tiếng, Al Jennings, người sau này viết sách kể về tình bạn của họ. O. Henry gửi vợ và con gái trở lại Texas, còn bản thân ông ẩn náu trong một khách sạn và bắt đầu viết tập truyện đầu tay Cabbages and Kings, xuất bản năm 1904.

Khi biết tin vợ mình mắc bệnh lao và không thể sang Honduras, ông quay về Austin và ra tòa. Bố vợ lại bảo lãnh để ông được ở bên vợ cho đến khi bà mất năm 1897. Sau đó, ông bị kết án và thụ án tù liên bang tại Ohio trong 5 năm, từ 1898 đến 1902. Trong thời gian ngồi tù, ông lại hành nghề dược và được ở phòng riêng trong bệnh xá, không phải ở trong xà lim như các tù nhân khác.

O. Henry luôn yêu thích văn học cổ điển, và trong suốt những năm tháng phiêu bạt, ông đã bắt đầu viết như một thú vui. Khi mất việc ở ngân hàng, ông chuyển đến Houston năm 1895 và viết bài cho tờ The Post, với thù lao 25 đô la một tháng (mức lương trung bình thời đó chỉ khoảng 300 đô la một năm). Ông thường ngồi lỳ trong sảnh khách sạn, quan sát và trò chuyện với người lạ để tìm cảm hứng sáng tác – một sự thật thú vị mà bạn nên ghi nhớ khi đọc những kiệt tác hư cấu như Transients in Arcadia. Những biến cố và cuộc đời nhiều lối rẽ của ông, từ những chuyến đi ở Mỹ Latin đến quãng thời gian trong tù, đã trực tiếp truyền cảm hứng cho lối viết dí dỏm và đầy bất ngờ của ông.

Giai đoạn sáng tác sung mãn nhất của O. Henry bắt đầu vào năm 1902 khi ông sống tại New York. Ông đã viết 381 truyện ngắn, trong đó có thời gian hơn một năm ông đều đặn nộp một truyện mỗi tuần cho tạp chí New York World Sunday Magazine. Nhiều tác phẩm hay nhất và ít được biết đến nhất của ông nằm trong tuyển tập Cabbages and Kings, lấy cảm hứng từ bài thơ The Walrus and the Carpenter của Lewis Carroll. Các truyện này được đặt trong bối cảnh một thị trấn Trung Mỹ với các cốt truyện chính và phụ đan xen đầy cuốn hút.

Tuyển tập thứ hai The Four Million phát hành năm 1906, lấy bối cảnh thành phố New York và được đặt tên theo dân số thành phố lúc ấy. Tập truyện này bao gồm nhiều kiệt tác như The Gift of the Magi, The Cop and the Anthem, và nhiều truyện khác. O. Henry có một tình yêu đặc biệt với New York và sự đa dạng trong con người và nơi chốn, điều này thể hiện rõ trong nhiều truyện ngắn của ông. Dấu ấn phong cách O. Henry nằm ở những kết thúc bất ngờ đầy dí dỏm, nhân vật được khắc họa sinh động, và những hoàn cảnh trớ trêu nhưng đầy tính nhân văn. Truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông, The Gift of the Magi, chính là điển hình cho phong cách này: một cặp vợ chồng trẻ nghèo khổ cố gắng mua quà Giáng sinh cho nhau – và vấn đề tài chính được giải quyết theo một cách đầy bất ngờ và cảm động. The Cop and the Anthem kể về một gã lang thang ở New York tìm cách “vào tù” để tránh cái rét mùa đông. Một truyện khác, A Retrieved Reformation, kể về một tên trộm két sắt tên Jimmy Valentine mới ra tù, cuộc đời rẽ sang hướng khác trong khi anh ta cố sống lương thiện (hay là đang “thăm dò mục tiêu” mới?). The Ransom of Red Chief lại là một câu chuyện hài hước về hai kẻ bắt cóc phải “chịu trận” với cậu bé tinh quái mà chúng bắt cóc. Các truyện của O. Henry đều rất giải trí, dù đọc để thưởng thức hay để nghiên cứu trong lớp học.

Năm 1952, Marilyn Monroe và Charles Laughton tham gia phim O. Henry’s Full House, chuyển thể từ 5 truyện ngắn của ông. Bộ phim bao gồm: The Cop and the Anthem, The Clarion Call, The Last Leaf, The Ransom of Red Chief (do Fred Allen và Oscar Levant thủ vai), và The Gift of the Magi.

Đáng tiếc thay, bi kịch cá nhân của O. Henry là nghiện rượu nặng. Từ năm 1908, sức khỏe ông suy giảm nghiêm trọng và năng suất sáng tác cũng theo đó giảm sút. Ông qua đời năm 1910 vì xơ gan, biến chứng của tiểu đường và bệnh tim. Lễ tang tổ chức tại New York, nhưng thi thể ông được an táng tại Bắc Carolina – nơi ông sinh ra. O. Henry là một nhà văn truyện ngắn tài năng, để lại một di sản văn học đồ sộ và phong phú cho hậu thế.


O. Henry – bậc thầy truyện ngắn Mỹ – được yêu mến bởi nghệ thuật kể chuyện tài hoa, sự hài hước nhẹ nhàng và những cái kết bất ngờ mang tính nhân văn sâu sắc. Trong truyện ngắn “Best-Seller”, ông một lần nữa thể hiện tài năng ấy qua câu chuyện tưởng như đơn giản về một nhân viên bán kính John Pescud và hành trình tình cảm lãng mạn đầy ngẫu hứng của anh. Tựa đề “Best-Seller” – ám chỉ các tiểu thuyết bán chạy – lại là một lời châm biếm tinh tế cho chính nhân vật chính, người từng phê phán những câu chuyện tình lãng mạn viển vông, nhưng rốt cuộc lại sống đúng như thế.

Ngay từ nhan đề, O. Henry đã gieo vào lòng người đọc một sự mỉa mai nhẹ nhàng: những “best-seller” thường bị xem là phi lý, mộng mơ, thiếu thực tế – và Pescud cũng nghĩ như vậy. Thế nhưng chính anh lại hành động như một nhân vật bước ra từ chính những trang sách ấy: bỏ công việc, theo đuổi một cô gái xa lạ đến tận một thị trấn miền Nam xa xôi, tìm hiểu về thân thế cô, và thậm chí tiếp cận cha cô để xin được làm quen. Hành động ấy thể hiện một tình cảm chân thành nhưng cũng rất… “tiểu thuyết hóa”. Bằng cách đặt tên truyện là “Best-Seller”, O. Henry không chỉ châm biếm những định kiến về thể loại văn học bình dân, mà còn cho thấy cuộc sống đôi khi lại phản ánh đúng cái mà người ta cho là “viển vông” trong sách.

Pescud xuất hiện là hình mẫu điển hình của một người Mỹ thế kỷ XX đầu tiên: chăm chỉ, thực dụng, gắn bó với công việc. Anh tự hào về công việc bán kính, lương bổng ổn định, nhà cửa đàng hoàng. Trong lời kể của mình, anh phê phán gay gắt các tiểu thuyết lãng mạn với nhân vật nam đến từ Pittsburgh yêu một công chúa Hungary – điều mà anh cho là nhảm nhí, phi lý.

Thế nhưng, điều trớ trêu là chính anh lại đang sống trong một phiên bản như thế: từ Pittsburgh, anh theo đuổi một cô gái có xuất thân quý tộc miền Nam, con của một đại tá dòng dõi lâu đời. Việc anh kiên trì theo dấu nàng đến tận Virginia, âm thầm theo dõi, tiếp cận, tỏ tình, đều mang đậm chất tiểu thuyết. Điều đó cho thấy trong con người thực tế như Pescud vẫn có một trái tim lãng mạn, chỉ là anh không nhận ra điều ấy – hoặc cố tình phủ nhận nó.

Câu chuyện đậm chất hài hước nhờ cách kể dí dỏm, đối thoại sinh động, và đặc biệt là sự tương phản giữa lời nói và hành động của Pescud. Người đọc cảm thấy thú vị trước những ngược đời nho nhỏ – như việc anh chê các tiểu thuyết hư cấu nhưng lại đi “theo dấu người đẹp” như một thám tử, hay việc anh khẳng định tình cảm của mình rất thực tế, trong khi hành vi thì hoàn toàn cảm tính và phiêu lưu.

Tuy nhiên, ẩn dưới lớp vỏ hài hước ấy là một tinh thần nhân văn ấm áp: sự chân thành trong tình yêu, dũng cảm vượt qua khoảng cách giai cấp, và niềm tin rằng con người ta có thể thay đổi vì một điều gì đó xứng đáng. Colonel Allyn – biểu tượng cho tầng lớp quý tộc cũ – cũng thể hiện sự bao dung khi đồng ý tiếp Pescud, và điều này cho thấy một sự hòa giải mang tính biểu tượng giữa “hai miền” nước Mỹ: công nghiệp – truyền thống, hiện đại – cổ điển.

“Best-Seller” không chỉ là một truyện ngắn hài hước, mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự giao thoa giữa lý trí và cảm xúc, giữa đời thực và mộng tưởng. Qua hình ảnh John Pescud – người từng cười cợt các tiểu thuyết bán chạy, nhưng cuối cùng lại sống đúng như một nhân vật bước ra từ đó – O. Henry nhẹ nhàng nhắc nhở người đọc rằng: những điều tưởng như ngốc nghếch trong truyện, đôi khi lại là điều chân thật nhất trong đời.



  • * *


I


Một ngày hè năm ngoái tôi đến Pittsburgh — thật ra là tôi phải đi công tác.

Toa ghế mềm của tôi khá đầy người, toàn kiểu người ta thường thấy trên những toa như thế. Hầu hết là các quý bà mặc váy lụa nâu, cổ vuông, có ren đan xen, và mang mạng che mặt chấm bi — những người kiên quyết không cho mở cửa sổ. Rồi có một số đàn ông trông như thể có thể làm bất cứ nghề gì và đang đi đến bất kỳ nơi nào. Một số người tinh thông tâm lý có thể nhìn một người trên toa Pullman và đoán được quê quán, nghề nghiệp, và vị thế xã hội của anh ta — cả ở ga chính lẫn ga phụ; nhưng tôi thì chịu. Cách duy nhất để tôi đánh giá đúng bạn đồng hành là khi tàu bị bọn cướp chặn, hoặc khi anh ta và tôi đồng thời với tay lấy chiếc khăn mặt cuối cùng trong phòng rửa mặt trên toa nằm.


Anh phụ tàu đến và quét lớp bụi bồ hóng tích tụ trên thành cửa sổ sang ống quần trái của tôi. Tôi gạt nó đi với vẻ ái ngại. Nhiệt độ lúc ấy là tám mươi tám độ (Fahrenheit). Một trong những quý bà mạng che mặt chấm bi yêu cầu đóng thêm hai lỗ thông hơi nữa, và nói to về Interlaken. Tôi ngả người lười nhác ra sau ở ghế số 7, và nhìn với chút tò mò nhợt nhạt về phía cái đầu đen nhỏ, có đốm hói, vừa hiện lên phía trên tựa ghế số 9.

Bất chợt, người ngồi ghế số 9 quăng một quyển sách xuống sàn giữa ghế và cửa sổ, và tôi nhìn thấy đó là quyển “Quý cô hoa hồng và Trevelyan”, một trong những tiểu thuyết bán chạy nhất hiện nay. Và rồi nhà phê bình — hoặc là tay phàm phu tục tử — quay ghế về phía cửa sổ, và tôi nhận ra ngay đó là John A. Pescud đến từ Pittsburgh, nhân viên kinh doanh của một công ty kính tấm — một người quen cũ mà tôi đã hai năm chưa gặp.

Chỉ trong hai phút, chúng tôi đã quay mặt về phía nhau, bắt tay, và trao đổi xong các chủ đề như: mưa, tình hình làm ăn, sức khỏe, nơi cư trú và điểm đến. Có thể là chính trị sẽ theo sau; nhưng tôi may mắn không bị đến mức đó.

Tôi ước gì bạn có thể biết John A. Pescud. Anh ấy thuộc tuýp người mà các anh hùng hiếm khi có may mắn được xây dựng dựa trên. Anh ta là một người nhỏ con, có nụ cười tươi rói, và ánh mắt dường như luôn chăm chăm nhìn vào chóp mũi đỏ của bạn. Tôi chưa từng thấy anh ta đeo loại cà vạt nào khác ngoài một kiểu duy nhất, và anh tin vào đồ giữ cổ tay áo lẫn giày có khuy bấm. Anh ấy cứng cỏi và trung thực như bất cứ sản phẩm nào từ xưởng thép Cambria; và anh tin rằng chỉ cần Pittsburgh bắt buộc dùng thiết bị lọc khói, thì thánh Phêrô sẽ đích thân xuống ngồi ở cuối đường Smithfield, giao lại cổng thiên đàng cho ai đó khác trông coi. Anh tin rằng loại kính tấm “của ta” là hàng hóa quan trọng nhất thế giới, và rằng một người khi ở quê nhà thì phải sống tử tế và tuân thủ pháp luật.

Trong thời gian quen biết anh ở “thành phố của bóng đêm ban ngày”, tôi chưa từng nghe quan điểm của anh về cuộc sống, tình yêu, văn chương hay đạo lý. Những lần gặp nhau trước, chúng tôi chỉ trò chuyện về chuyện địa phương, rồi chia tay sau khi dùng Chateau Margaux, món hầm Ireland, bánh kếp vải flannel, bánh pudding nhà tranh và cà phê (à này — cà phê với sữa để riêng nhé). Nhưng lần này tôi sẽ được nghe nhiều hơn về những quan điểm sống của anh. Còn về thực tế, anh nói rằng công việc đã khấm khá hơn kể từ sau đại hội đảng phái, và rằng anh sẽ xuống ở ga Coketown.

— Này, Pescud nói, lấy mũi giày bên phải hất cuốn sách anh ta vừa bỏ dở, anh đã bao giờ đọc mấy cuốn tiểu thuyết ăn khách kiểu này chưa? Ý tôi là loại truyện mà nhân vật chính là một anh chàng Mỹ hào hoa, đôi khi thậm chí còn đến từ Chicago yêu một công chúa hoàng gia từ châu Âu đang đi du lịch dưới một cái tên giả, rồi bám theo cô ta về tận vương quốc hay công quốc của cô ta? Tôi đoán là anh có rồi. Chúng đều giống nhau cả thôi. Đôi khi cái anh chàng say mê đó là phóng viên một tờ báo ở Washington, đôi khi là một quý ông Van-gì-đó đến từ New York, hoặc một tay buôn lúa mì ở Chicago với tài sản năm chục triệu. Nhưng hắn luôn sẵn sàng chen chân vào hàng ngũ vương giả của bất kỳ nước nào gửi hoàng hậu hay công chúa sang Mỹ để thử mấy chiếc ghế bọc nhung mới trên tuyến Big Four hay B&O. Chẳng có lý do gì khác trong sách để họ đến đây cả.

-  Rồi cái anh chàng đó, như tôi nói, bám theo người đẹp hoàng gia về nhà, phát hiện ra thân phận thật của nàng. Một buổi tối, anh ta gặp nàng trên đường lớn hoặc hẻm, và chúng ta được mười trang hội thoại. Nàng nhắc anh ta rằng giữa họ có sự khác biệt về địa vị, và thế là anh ta có cơ hội nói một tràng dài ba trang về những vị “vua không vương miện” của nước Mỹ. Nếu anh lấy mấy lời đó mà phổ nhạc, rồi lại gỡ phần nhạc ra, thì chúng sẽ nghe y như một bài hát của George Cohan.

- Anh biết truyện nó tiếp tục thế nào mà, nếu anh từng đọc vài cuốn kiểu đó — hắn tẩn tụi cận vệ Thụy Sĩ của nhà vua như điên mỗi lần họ cản đường. Hắn là tay đấu kiếm cừ khôi nữa. Tôi thì biết một vài tay ở Chicago nổi tiếng là “fence” (gian thương), nhưng chưa từng nghe nói đấu kiếm là môn thể thao phổ biến ở đó. Hắn đứng ở bậc thang đầu tiên trong lâu đài Schutzenfestenstein, tay cầm kiếm lấp lánh, biến sáu trung đội phản loạn định ám sát vua thành bữa thịt nướng Baltimore. Rồi hắn đấu tay đôi với vài vị tể tướng, phá âm mưu của bốn ông đại công tước Áo định chiếm vương quốc để dựng trạm xăng.

- Nhưng đoạn đỉnh cao là khi kẻ tình địch của hắn, Bá tước Feodor, tấn công hắn giữa cửa sập và nhà nguyện đổ nát, mang theo một khẩu mitrailleuse, một thanh yataghan, và hai con chó săn máu Siberia. Chính cảnh này khiến cuốn sách được tái bản đến lần thứ hai mươi chín trước khi nhà xuất bản kịp viết séc tạm ứng nhuận bút.

 Chàng trai Mỹ cởi áo khoác, quăng lên đầu bọn chó, tát cái bốp vào khẩu mitrailleuse, nói “Yah!” với cây yataghan, và đấm kiểu Kid McCoy vào mắt trái của Bá tước. Tất nhiên, ngay lập tức, ta có một trận quyền anh đúng nghĩa. Bá tước — để cho kịch bản khả thi — cũng là tay cao thủ quyền anh; và thế là ta có trận Corbett–Sullivan dưới dạng văn học. Cuốn sách kết thúc với cảnh tay môi giới và công chúa tay trong tay như tranh bìa của John Cecil Clay dưới hàng cây đoạn trên lối Gorgonzola. Câu chuyện tình thế là khép lại quá đẹp. Nhưng tôi để ý thấy sách luôn né phần kết thực sự. Ngay cả tiểu thuyết ăn khách cũng đủ thông minh để không đưa một tay buôn lúa mì ở Chicago lên ngai vàng xứ Lobsterpotsdam hay đưa một công chúa thực sự sang sống ở một căn nhà kiểu Ý trên Đại lộ Michigan để ăn cá và salad khoai tây. Anh nghĩ sao về mấy truyện kiểu đó?

- Ờm, tôi nói,tôi cũng không rõ lắm, John ạ. Có câu nói rằng: “Tình yêu san bằng mọi giai cấp,” anh biết đấy.

- Biết chứ, Pescud đáp, nhưng mấy chuyện tình kiểu này thì… san bằng cả phẩm chất. Tôi cũng biết chút ít về văn học, dù tôi làm nghề kính tấm. Những cuốn sách kiểu này là sai lầm, vậy mà mỗi lần tôi lên tàu là người ta chất đầy trước mặt tôi. Không có điều gì hay ho nảy sinh từ mấy vụ kết hợp quốc tế giữa giới quý tộc thế giới cũ với mấy anh chàng Mỹ láu cá. Ngoài đời thực, khi người ta kết hôn, họ thường tìm một người trong cùng tầng lớp. Một chàng trai thường chọn một cô gái học cùng trường phổ thông và tham gia cùng câu lạc bộ hợp xướng. Khi các triệu phú trẻ tuổi yêu ai đó, họ luôn chọn một cô diễn viên múa phụ biết ăn tôm hùm giống mình. Phóng viên báo chí ở Washington thì luôn cưới mấy bà goá hơn họ mười tuổi làm chủ nhà trọ. Không đời nào anh khiến tôi tin vào một cuốn tiểu thuyết khi nó để một tay “sáng chói” kiểu C. D. Gibson ra nước ngoài lật đổ vương triều chỉ vì hắn là người Mỹ kiểu Taft và từng tập thể hình. Mà nghe chúng đối thoại nữa chứ!

Pescud nhặt cuốn tiểu thuyết ăn khách lên, lật tới một trang.

- Nghe đoạn này xem, anh ta nói. Trevelyan đang nói chuyện với Công chúa Alwyna ở cuối vườn hoa tulip. Đoạn này thế này:

“Xin đừng nói thế, hỡi loài hoa đẹp nhất trần gian. Tôi có dám vọng tưởng đâu? Nàng là vì sao cao vời trong thiên cung vương giả, còn tôi chỉ là chính tôi. Nhưng tôi là một người đàn ông, và tôi có trái tim để hành động và dám nghĩ. Tôi chẳng có tước vị nào ngoài danh hiệu quốc vương chưa đăng quang; nhưng tôi có cánh tay và thanh gươm có thể giải phóng Schutzenfestenstein khỏi âm mưu phản loạn.”

- Thử nghĩ xem, một anh chàng Chicago mang theo kiếm và nói về việc giải phóng một nơi nghe như tên một hãng đồ hộp! Hắn có khi còn thích đi đấu tranh để áp thuế nhập khẩu lên nó hơn ấy chứ!

 Tôi nghĩ tôi hiểu anh rồi, John, — tôi nói. — Anh muốn các nhà văn viết tiểu thuyết phải nhất quán với bối cảnh và nhân vật của mình. Họ không nên trộn lẫn pasha Thổ Nhĩ Kỳ với nông dân Vermont, hay công tước Anh với dân đào sò Long Island, hay nữ bá tước Ý với cao bồi Montana, hay đại lý bia Cincinnati với mấy vị vương gia Ấn Độ.

Hay mấy tay doanh nhân bình thường với giới quý tộc thượng lưu, — Pescud thêm vào. — Nó không ăn nhập. Con người bị chia thành từng tầng lớp, dù ta có thừa nhận hay không, và bản năng ai cũng là tìm bạn đời trong tầng lớp của mình. Và người ta thực sự làm vậy đấy. Tôi không hiểu sao thiên hạ lại mua hàng trăm ngàn cuốn sách như thế. Anh không bao giờ thấy hay nghe mấy chuyện điên rồ kiểu đó xảy ra ngoài đời đâu.


III


— Thế nào, John — tôi nói —, tôi cũng đã lâu không đọc quyển best-seller nào rồi. Có lẽ tôi cũng có ý nghĩ giống anh về mấy quyển đó. Nhưng thôi, kể thêm về anh đi. Công việc ở công ty vẫn ổn chứ?

— Tuyệt vời — Pescud đáp, gương mặt sáng lên ngay —. Từ lúc gặp cậu đến giờ tôi đã được tăng lương hai lần, lại còn có thêm hoa hồng. Tôi vừa mua được một miếng đất xinh xắn ở khu Đông, và đã xây nhà xong rồi. Năm tới công ty sẽ bán cho tôi ít cổ phần. Ồ, tôi đang đi đúng đường dẫn đến Phồn Vinh Chung, bất kể ai lên làm tổng thống!

— Thế còn chuyện tình duyên thì sao, John?, tôi hỏi.

— Ồ, tôi chưa kể cậu nghe chuyện đó à?  Pescud cười toe toét.

- Ồ hô! , tôi nói. Thế là anh cũng đã tạm gác kính cường lực lại để yêu đương rồi à?


- Không, không. John nói. Không phải chuyện lãng mạn gì đâu! Nhưng để tôi kể cho cậu nghe.

— Cách đây khoảng mười tám tháng, tôi đi chuyến tàu hướng Nam về Cincinnati thì thấy bên kia lối đi có cô gái đẹp nhất tôi từng thấy. Không kiểu cách gì đặc biệt đâu, nhưng đúng kiểu phụ nữ để người ta muốn gắn bó cả đời. Tôi thì vốn không biết tán tỉnh kiểu khăn tay, ô tô, tem thư hay bậc thềm gì cả, mà cô ấy cũng không phải kiểu người bắt đầu mấy chuyện đó. Cô ấy đọc sách, làm việc của mình, mà việc của cô là làm cho thế giới này đẹp hơn và tốt hơn chỉ bằng cách hiện diện trong đó. Tôi cứ liếc trộm cô ấy mãi, và cuối cùng thì chuyện này không còn là kiểu gặp gỡ trên toa Pullman nữa, mà tôi bắt đầu mơ tới một căn nhà nhỏ với giàn dây leo phủ đầy hiên.

- Tôi không có ý định bắt chuyện với cô ấy, nhưng cũng quên luôn chuyện kính cường lực một lúc. Cô ấy đổi tàu ở Cincinnati, đi chuyến tàu ngủ về Louisville bằng tuyến L. and N. Từ đó cô lại mua vé đi tiếp qua Shelbyville, Frankfort, rồi Lexington. Đến đoạn đó thì tôi bắt đầu theo rất cực. Tàu thì đến lúc nào thì đến, dường như chẳng định đi đâu cả ngoài việc bám sát đường ray và giữ đúng tuyến. Rồi chúng bắt đầu dừng ở mấy trạm giao nhau thay vì thị trấn, và cuối cùng thì… dừng hẳn.

- Tôi cá là nếu bọn thám tử Pinkerton biết tôi theo dõi cô ấy thế nào thì sẽ giành tôi với bọn bán kính cường lực. Tôi cố tránh để cô ấy không thấy mình, nhưng không rời mắt khỏi cô ấy phút nào.

- Ga cuối cùng cô xuống là một chỗ ở tận miền Nam Virginia, tầm sáu giờ chiều. Chỗ đó có khoảng năm mươi cái nhà và bốn trăm người da đen. Còn lại chỉ toàn bùn đỏ, lừa và chó săn đốm.

- Một ông già cao, mặt nhẵn, tóc trắng, dáng vẻ kiêu hãnh như Julius Caesar và Roscoe Conkling đứng chung một tấm bưu thiếp, ra đón cô ấy. Quần áo ông xơ xác, nhưng tôi phải nhìn kỹ mới nhận ra điều đó. Ông xách túi nhỏ cho cô, rồi hai người đi trên mấy tấm ván lót đường lên một con dốc. Tôi bám theo sau, giả vờ đang tìm chiếc nhẫn garnet em gái làm rơi trong chuyến dã ngoại thứ Bảy tuần trước.

- Họ đi vào cánh cổng trên đỉnh đồi. Tôi suýt nghẹt thở khi ngước nhìn. Trên đó, trong rừng cây to nhất tôi từng thấy, là một tòa nhà đồ sộ với những cột trắng tròn cao như nghìn thước, và khu vườn thì đầy hoa hồng, bụi hộp và tử đinh hương đến mức nếu căn nhà không to như Điện Capitol ở Washington thì cũng chẳng ai thấy được.

- “Mình phải dò xét thêm,” tôi nghĩ. Tôi tưởng cô ấy chỉ thuộc dạng khá giả vừa phải thôi. Nhưng đây chắc là Dinh Thống Đốc hoặc gian hàng Nông nghiệp của một kỳ hội chợ thế giới mới mất! Mình nên quay về làng hỏi thăm ông bưu tá hoặc moi thông tin từ tay dược sĩ.

- Ở làng, tôi tìm được một khách sạn bằng gỗ thông tên là Bay View House. Cái tên có lẽ chỉ đúng vì có một con ngựa màu nâu đang gặm cỏ ngoài sân. Tôi đặt va-li mẫu xuống, cố tỏ ra là một tay bán hàng đàng hoàng. Tôi bảo ông chủ trọ là tôi đang nhận đơn đặt hàng kính cường lực.
- “Tôi không cần đĩa nào,” ông ta nói, “nhưng lại cần thêm cái bình rót mật mía bằng thủy tinh.”

- Cuối cùng tôi cũng lôi kéo được ông ta vào mạch chuyện địa phương và chịu trả lời vài câu.

- “Trời đất,” ông ta nói, “tưởng ai cũng biết ai ở cái nhà trắng to đùng trên đồi chứ. Là Đại tá Allyn, người lớn nhất và danh giá nhất Virginia, hay bất kỳ đâu. Đó là gia đình lâu đời nhất bang này. Cô gái xuống tàu lúc nãy là con gái ông ấy. Cô mới từ Illinois về, đi thăm bà cô bị bệnh.”

- Tôi đăng ký ở khách sạn, và đến ngày thứ ba thì thấy cô gái đi dạo trong vườn, chỗ gần hàng rào. Tôi dừng lại, nhấc mũ chào - không còn cách nào khác.

 “Xin lỗi,” tôi nói, “cô có thể chỉ cho tôi biết ông Hinkle ở đâu không?”

Cô ấy nhìn tôi tỉnh bơ như thể tôi là người đến xem vườn có cần nhổ cỏ không, nhưng tôi nghĩ tôi thấy thoáng chút lấp lánh vui trong mắt cô.

 “Không có ai tên đó ở Birchton cả,” cô nói. “Ý tôi là,” cô tiếp, “theo tôi biết thì vậy. Ông mà ông tìm có phải người da trắng không?”

 Câu đó làm tôi buồn cười. “Không đùa đâu,” tôi nói, “tôi không đi tìm khói, dù tôi đến từ Pittsburgh.”

 “Anh ở xa nhà quá đấy,” cô nói.

“Tôi còn có thể đi xa ngàn dặm nữa,” tôi đáp.

 “Nhưng anh suýt lỡ chuyến ở Shelbyville đấy,” cô nói và cười, tiếng cười với tôi nghe còn hay hơn cả cuốn sổ hành trình hạng nhất. Tôi nhớ là mình đã ngủ gật trên ghế dài ở ga Shelbyville, đợi xem cô ấy bắt chuyến nào, và chỉ kịp tỉnh dậy sát giờ tàu chạy.

 Rồi tôi kể cho cô ấy lý do vì sao tôi đến đây, thành thật và kính trọng hết mức. Tôi kể hết về bản thân, về thu nhập, và rằng tất cả điều tôi mong là được làm quen với cô ấy, hy vọng cô ấy sẽ mến tôi.

 Cô mỉm cười, hơi đỏ mặt, nhưng ánh mắt không hề xao lãng. Nó nhìn thẳng vào người đối diện.

 “Chưa từng có ai nói với tôi như thế cả, ông Pescud,” cô nói. “Tên ông là gì nhỉ—John?”

“John A.,” tôi đáp.

“Và anh suýt lỡ tàu ở Powhatan Junction nữa đấy,” cô cười, mà tiếng cười như bản nhạc đối với tôi.

 “Sao cô biết?” tôi hỏi.

“Đàn ông thì rất vụng về,” cô nói. “Tôi biết anh có mặt trên tất cả các chuyến tàu. Tôi tưởng anh sẽ bắt chuyện, và tôi mừng là anh không làm thế.”

 Rồi chúng tôi nói chuyện thêm nữa, cho đến khi một vẻ nghiêm nghị và kiêu hãnh thoáng hiện trên mặt cô, và cô quay người, giơ tay chỉ về phía tòa nhà lớn.

“Nhà Allyn,” cô nói, “đã sống ở Elmcroft hơn một trăm năm. Chúng tôi là một gia đình danh giá. Anh nhìn tòa biệt thự kia đi. Nó có năm mươi phòng. Xem mấy cái cột, hành lang và ban công kìa. Trần nhà ở phòng khách và phòng khiêu vũ cao đến hai mươi tám feet. Cha tôi là hậu duệ trực hệ của các bá tước đai kiếm thời xưa.” “Tôi từng đấm một tay bá tước như thế ở khách sạn Duquesne, Pittsburgh,” tôi nói, “và hắn không dám phản kháng. Khi ấy hắn đang chia sẻ sự chú ý của mình giữa rượu whisky Monongahela và mấy cô thừa kế, rồi hắn tỏ vẻ xấc xược.”

“Tất nhiên,” cô tiếp tục, “cha tôi sẽ không bao giờ để một tay chào hàng đặt chân vào Elmcroft. Nếu ông ấy biết tôi đang nói chuyện với một người như anh qua hàng rào, ông ấy sẽ nhốt tôi vào phòng.”

“Thế cô có để tôi đến đó không?” tôi hỏi. “Cô có chịu nói chuyện với tôi nếu tôi đến thăm không? Vì,” tôi tiếp lời, “nếu cô nói tôi có thể đến gặp cô, thì mấy ông bá tước dù có đai kiếm hay đeo dây treo, hay cài ghim an toàn cũng mặc kệ.”

“Tôi không được nói chuyện với anh,” cô nói, “vì chúng ta chưa được giới thiệu. Như vậy là không đúng đắn. Vậy nên tôi xin tạm biệt, ông…”

“Cô hãy nói tên tôi đi,” tôi bảo. “Cô chưa quên đâu.”

“Pescud,” cô nói, hơi giận dữ.

“Còn phần còn lại?” tôi điềm tĩnh hỏi.

“John,” cô nói.

“John gì?” tôi hỏi.

“John A.,” cô nói, ngẩng cao đầu. “Anh đã xong chưa?”

“Ngày mai tôi sẽ đến gặp ông bá tước của cô,” tôi nói.

“Ông ấy sẽ cho chó săn xé xác anh đấy,” cô cười nói.

“Nếu vậy thì bọn chó sẽ chạy nhanh hơn,” tôi đáp. “Tôi cũng là tay săn cừ khôi mà.”

“Tôi phải vào trong rồi,” cô nói. “Tôi lẽ ra không nên nói chuyện với anh. Chúc anh có chuyến đi vui vẻ trở lại Minneapolis – hay là Pittsburgh nhỉ? Tạm biệt!”

“Chúc ngủ ngon,” tôi nói, “và không phải Minneapolis. Cho tôi xin tên của cô trước đã?”

Cô ngần ngừ. Rồi cô bứt một chiếc lá trên bụi cây và nói:

“Tôi tên là Jessie,” cô nói.

“Chúc ngủ ngon, cô Allyn,” tôi đáp.

Sáng hôm sau, đúng 11 giờ, tôi bấm chuông cửa cái tòa nhà trông như gian chính ở hội chợ thế giới. Sau khoảng ba phần tư tiếng, một ông lão da đen khoảng tám mươi tuổi mới ra mở cửa và hỏi tôi muốn gì. Tôi đưa danh thiếp và bảo muốn gặp ông đại tá. Ông ấy dẫn tôi vào.

Này, anh đã bao giờ bóc một quả óc chó Anh bị sâu chưa? Căn nhà ấy cũng như thế. Không đủ đồ đạc để lấp đầy một căn hộ tám đô. Mấy cái ghế ba chân, ghế dài bọc lông ngựa cũ kỹ, và mấy cái chân dung tổ tiên treo trên tường – chỉ có thế. Nhưng khi đại tá Allyn bước vào, căn phòng như bừng sáng. Anh có thể nghe thấy dàn nhạc vang lên, thấy những quý ông cổ điển mặc bộ tóc giả và đi tất trắng đang nhảy điệu van cổ. Đó là phong thái của ông ấy, dù ông vẫn mặc bộ đồ rách tôi từng thấy ở nhà ga.

Khoảng chín giây đầu, tôi bị choáng ngợp, suýt nữa thì mất hết can đảm và quay sang bán kính cường lực. Nhưng tôi lấy lại bình tĩnh khá nhanh. Ông mời tôi ngồi, và tôi kể hết mọi chuyện. Tôi kể mình đã theo con gái ông từ Cincinnati ra sao, tôi làm vậy vì điều gì, tôi nói hết mức lương và triển vọng, rồi giải thích quy tắc sống của tôi – luôn sống đàng hoàng, tử tế ở quê nhà; khi đi đường thì không uống quá bốn ly bia một ngày, và không đánh bài với mức cược quá 25 xu. Lúc đầu tôi nghĩ ông sắp ném tôi qua cửa sổ, nhưng tôi cứ tiếp tục nói. Cuối cùng tôi kể câu chuyện về ông nghị sĩ miền Tây bị mất ví và cô góa phụ – anh nhớ chuyện đó chứ? À, thế là ông ấy bật cười, và tôi cá là đó là tiếng cười đầu tiên trong căn nhà đó suốt bao năm qua.

Chúng tôi nói chuyện suốt hai tiếng. Tôi kể hết những gì mình biết, rồi ông ấy bắt đầu hỏi, và tôi kể nốt phần còn lại. Tôi chỉ xin ông một cơ hội. Nếu tôi không thể chinh phục được cô ấy, tôi sẽ biến mất, không quấy rầy nữa. Cuối cùng ông ấy nói:

“Thời Charles I, tôi nhớ có một vị Sir Courtenay Pescud.”

“Nếu có thật,” tôi đáp, “thì ông ta không dính dáng gì tới nhà tôi. Chúng tôi luôn sống quanh vùng Pittsburgh. Tôi có một ông chú làm địa ốc, và một ông chú khác đang gặp rắc rối đâu đó ngoài Kansas. Ông có thể hỏi bất kỳ ai ở thị trấn Smoky về nhà tôi, chắc chắn sẽ nhận được lời tốt.” Tôi nói thêm: “Ông đã bao giờ nghe chuyện thuyền trưởng tàu săn cá voi bắt thủy thủ cầu nguyện chưa?”

“Tôi e rằng tôi chưa may mắn được nghe,” đại tá đáp.

Thế là tôi kể cho ông nghe. Ông cười nắc nẻ! Tôi thầm nghĩ giá như ông là khách hàng thì tôi đã bán được bao nhiêu kính cường lực rồi! Sau đó ông nói:

“Việc kể những giai thoại và mẩu chuyện hài hước luôn là cách thú vị để tạo dựng và duy trì tình thân giữa những người bạn. Nếu được phép, tôi sẽ kể anh nghe chuyện đi săn cáo mà tôi từng trải qua – hy vọng anh thấy thú vị.”

Rồi ông kể. Mất đúng bốn mươi phút. Tôi có cười không à? Trời ơi! Sau khi tôi lấy lại được vẻ mặt bình thường, ông gọi Pete – ông hầu già – xuống khách sạn mang va-li của tôi lên. Thế là tôi được ở lại Elmcroft trong suốt thời gian còn lại ở thị trấn.

Hai tối sau, tôi có cơ hội nói chuyện riêng với cô Jessie ngoài hiên nhà, trong khi đại tá đang nghĩ ra một câu chuyện mới.

“Tối nay trời đẹp đấy,” tôi nói.

“Ông ấy sắp kể rồi,” cô nói. “Lần này sẽ là chuyện ông lão da đen và mấy quả dưa hấu xanh. Lúc nào nó cũng đến sau câu chuyện về quân Yankee và con gà chọi. Có lần nữa,” cô tiếp lời, “anh suýt nữa bị bỏ lại – ở thành phố Pulaski.”

“Phải,” tôi nói, “tôi nhớ. Lúc nhảy lên tàu chân tôi bị trượt, suýt ngã.”

“Tôi biết,” cô nói. “Và… và tôi… tôi đã sợ là anh bị ngã thật, John A. Tôi đã rất sợ.”

Rồi cô chạy vào nhà qua cửa sổ lớn.


IV


“Coketown!” – tiếng người phục vụ vang lên khi tàu bắt đầu chậm lại.

Pescud nhặt mũ và hành lý, dáng điềm tĩnh của một lữ khách dày dạn.

“Tôi cưới cô ấy cách đây một năm rồi,” John nói. “Tôi đã xây một ngôi nhà ở khu East End. Ông bá tước – ý tôi là ông đại tá – cũng ở đó. Ông luôn chờ tôi ở cổng mỗi khi tôi đi công tác về để nghe mấy chuyện mới tôi thu lượm được dọc đường.”

Tôi nhìn qua cửa sổ. Coketown chỉ là một sườn đồi trơ trụi, lốm đốm mấy túp lều đen sì, xiêu vẹo bên những đống xỉ than lạnh lẽo. Mưa trút xuống xiên xiên, nước mưa đổ qua bùn đen xuống đường ray.


“Anh sẽ không bán được kính cường lực ở đây đâu, John,” tôi nói. “Sao anh lại xuống cái chốn tận cùng thế giới này?”

“À,” Pescud đáp, “hôm nọ tôi đưa Jessie đi chơi Philadelphia, lúc về cô ấy bảo hình như thấy chậu hoa dâm bụt trong một cửa sổ đằng kia, trông giống hệt mấy bông cô ấy từng trồng ở nhà cũ Virginia. Thế nên tôi nghĩ ghé qua đây một tối, thử xem có tìm được ít cành hay hoa về cho cô ấy không. Tới rồi. Tạm biệt nhé, ông bạn. Tôi đã cho anh địa chỉ. Khi nào rảnh thì ghé chơi.”

Tàu lại chuyển bánh. Một trong những quý bà áo nâu khăng khăng đòi mở cửa sổ, dù mưa vẫn tạt vào. Người phục vụ đi qua, cầm cây gậy kỳ diệu bắt đầu bật đèn trong toa.

Tôi cúi xuống và thấy cuốn tiểu thuyết best-seller. Tôi nhặt lên, cẩn thận đặt nó xa hơn một chút để tránh mưa rơi trúng. Rồi bất chợt, tôi mỉm cười, và chợt nhận ra rằng cuộc đời không hề có ranh giới địa lý.

“Chúc may mắn nhé, Trevelyan,” tôi nói. “Và mong anh hái được hoa dâm bụt cho nàng công chúa của mình!”



THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 8 / 2025

Nguồn:


https://americanliterature.com/author/o-henry/short-story/best-seller/