ĐỐM
Jack London
( 1876 - 1922
Jack London là một nhà văn người Mỹ, nổi tiếng nhất với tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild). Jack London là bút danh của ông, tên thật có thể là John Griffith Chaney, sinh ra tại San Francisco, California. Giống như những nhân vật luôn khắc khoải trong các tác phẩm của mình, London từng trải qua nhiều nghề khi còn trẻ, bao gồm thủy thủ, kẻ lang thang và một người đấu tranh đòi việc làm trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Ông cũng là một trong những người tiên phong viết tiểu thuyết không tưởng đen tối (Dystopian Fiction), với tác phẩm Gót sắt (The Iron Heel) – miêu tả nước Mỹ dưới sự thống trị tàn bạo, được viết mười năm trước khi những người Bolshevik lên nắm quyền ở Nga.
Trong thời gian lang thang, ông từng bị giam 30 ngày tại nhà tù quận Erie, New York. Ông viết về trải nghiệm đó:
“Bị đánh đập chỉ là một trong những nỗi kinh hoàng nhỏ nhoi, không thể in nổi ra giấy, tại nhà tù quận Erie. Tôi nói ‘không thể in nổi’; và công bằng mà nói, tôi cũng phải nói ‘không thể tưởng tượng nổi’. Những điều đó hoàn toàn vượt ngoài sức tưởng tượng của tôi cho đến khi tôi tận mắt chứng kiến – và tôi cũng không phải là kẻ mới lớn gì, đã dày dạn trong cuộc đời và quen với những vực sâu ghê tởm của sự suy đồi con người. Cần phải thả dây thật sâu mới chạm được đáy nhà tù quận Erie, và tôi chỉ mới lướt nhẹ và bông đùa trên bề mặt của những điều mà tôi đã thấy ở đó.”
London sau này trở thành một nhà văn nổi tiếng và là một trong những người đầu tiên thật sự đạt được thành công tài chính nhờ viết văn. Tuy nhiên, thành công của ông cũng kéo theo nhiều tranh cãi. Ông là một cây bút cực kỳ sung sức, đã sáng tác hơn 500 tác phẩm, và thường xuyên bị cáo buộc đạo văn.
Cách thức làm việc của Jack London cũng góp phần dẫn đến những cáo buộc đạo văn; ông từng mua cốt truyện cho truyện ngắn và tiểu thuyết từ Sinclair Lewis khi Lewis còn trẻ, và ông cũng thường sử dụng các sự kiện đọc được trên báo chí làm chất liệu cho các truyện của mình.
Truyện ngắn nổi tiếng nhất của London – đặc biệt phổ biến trong các lớp học Ngữ văn trung học cơ sở và trung học phổ thông – là Đốt lửa (To Build a Fire). Cuốn sách bán chạy nhất của ông trong suốt cuộc đời là tiểu thuyết Ánh sáng ban ngày bừng cháy (Burning Daylight), xuất bản năm 1910.
Một vài câu nói nổi tiếng được yêu thích của Jack London:
“Cuộc sống không phải lúc nào cũng là việc có những lá bài tốt, mà đôi khi là chơi thật giỏi khi trong tay chỉ toàn lá xấu.”
“Những câu chuyện đẹp nhất luôn bắt đầu từ đổ vỡ.”
“Cho chó một khúc xương không phải là lòng từ thiện. Từ thiện là chia khúc xương với con chó, khi bạn cũng đói y như nó.”
“Spot” là một truyện ngắn đặc sắc của Jack London, nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm lấy bối cảnh vùng đất hoang dã, khắc nghiệt như Alaska và Yukon. Tuy không nổi tiếng như The Call of the Wild hay To Build a Fire, nhưng Spot vẫn là một câu chuyện sâu sắc, mang tính chất trào phúng và ẩn dụ về bản năng sinh tồn, sức mạnh bản chất, và sự bất lực của con người trước những điều không thể lý giải. Qua hình tượng chú chó “Spot” bất khả diệt, Jack London đã mở rộng biên độ suy tư về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, giữa lý trí và điều bí ẩn, giữa trật tự và sự hỗn loạn.
Ngay từ khi xuất hiện, Spot đã được mô tả như một sinh vật đặc biệt: xấu xí, lai căng, nhưng kỳ lạ là khỏe mạnh, thông minh và không thể tiêu diệt. Spot không chỉ sống sót qua những hoàn cảnh khắc nghiệt như băng tan, bạo lực, bị đầu độc, mà còn luôn quay lại, bám theo hai nhân vật chính một cách khó tin. Điều đó khiến Spot trở thành biểu tượng cho một sức sống nguyên thủy và bất diệt – một bản năng sinh tồn trần trụi và không thể bị thuần hóa.
Spot không phải là con vật trung thành như trong những truyện chó truyền thống, mà là một thế lực riêng biệt, ngoan cố, ngang ngược, thách thức cả thiên nhiên lẫn con người. Điều này phản ánh quan niệm của Jack London về sự hoang dã – nó không dễ bị thuần phục, và có một sức mạnh nội tại mà con người không dễ lý giải hay kiểm soát. Qua hành trình chạy trốn Spot một cách bất lực và hoảng loạn, hai nhân vật chính – đặc biệt là người kể chuyện – dần trở nên mê tín, sợ hãi và mất lý trí. Những câu hỏi như “Làm sao Spot biết được ta ở đâu?”, “Làm sao nó vượt sông băng, phá xiềng, sống sót sau dòng nước lũ?” được đặt ra liên tục, mà không bao giờ có lời giải. Chính sự xuất hiện không ngừng và phi lý của Spot khiến nhân vật kể chuyện dần suy sụp cả thể chất lẫn tinh thần.
Ở đây, Jack London đã lồng ghép yếu tố trào phúng rất tinh tế. Spot không phải là quái vật, nhưng lại có sức mạnh “bẻ cong” trật tự, khiến cả hệ thống lý trí và logic của con người sụp đổ. Điều này làm nổi bật sự giới hạn trong cái nhìn duy lý – thứ mà con người phương Tây hiện đại đặt niềm tin tuyệt đối.
Dưới cái nhìn biểu tượng, Spot có thể là hình ảnh ẩn dụ cho nhiều điều. Có thể đó là nghiệp báo – một hậu quả dai dẳng của sự ích kỷ và tàn nhẫn khi bán chó lấy lời, hay một lời nhắc nhở về sự không thể thoát khỏi trách nhiệm của con người đối với những sinh linh bị coi là “vật sở hữu”.
Cũng có thể Spot là bóng tối nội tâm của nhân vật – thứ luôn bám theo, không thể chối bỏ, và chỉ kết thúc khi nhân vật đối diện và chấp nhận nó. Spot không bao giờ chết, giống như những phần bản năng, những sai lầm, hay mặc cảm bị chôn giấu – vẫn sống mãi trong tâm trí con người, dù họ có bỏ chạy bao xa.
Spot là một truyện ngắn giàu chất biểu tượng, thấm đẫm tinh thần hoài nghi, hoang dã và sâu cay của Jack London. Không chỉ đơn thuần kể về một con chó “không thể diệt trừ”, truyện còn đặt ra nhiều câu hỏi triết học về sự giới hạn của lý trí, bản chất của tự nhiên, và sự bất lực của con người khi đối mặt với điều không thể kiểm soát. Qua hình tượng Spot – vừa hài hước, vừa đáng sợ – Jack London đã tạo ra một nhân vật độc đáo, không giống bất cứ con chó văn học nào, để truyền tải một thông điệp: có những sức mạnh vượt khỏi tầm hiểu biết của con người, và điều đó, vừa khiến ta sợ hãi, vừa khiến ta phải khiêm nhường.
- * *
Tôi không còn coi trọng Stephen Mackaye nữa, dù trước đây tôi từng thề sống chết vì anh ta. Ngày ấy, tôi thương hắn còn hơn cả anh ruột. Nếu một ngày nào đó tôi gặp lại Stephen Mackaye, tôi không chịu trách nhiệm về hành động của mình đâu. Tôi không thể hiểu nổi làm sao một người mà tôi đã cùng chia sẻ miếng ăn tấm chăn, cùng nhau lội tuyết qua đèo Chilcoot, lại có thể trở thành như thế. Tôi từng nghĩ Steve là một người tử tế, một bạn đồng hành chân thành, không hề có chút gì độc địa hay ác ý trong con người hắn. Giờ thì tôi chẳng còn dám tin vào khả năng nhìn người của mình nữa. Tôi từng chăm sóc hắn qua cơn sốt thương hàn; chúng tôi từng chết đói cùng nhau ở thượng nguồn sông Stewart; và chính hắn đã cứu mạng tôi ở sông Little Salmon. Vậy mà sau bao năm gắn bó, tất cả những gì tôi có thể nói về Stephen Mackaye là: hắn là người đê tiện nhất mà tôi từng biết.
Chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình tới Klondike vào đợt di cư rầm rộ mùa thu năm 1897, và khởi hành quá muộn để vượt qua đèo Chilcoot trước khi mùa đông ập tới. Ban đầu, chúng tôi phải tự cõng đồ qua đèo, nhưng khi tuyết bắt đầu rơi, chúng tôi buộc phải mua chó để kéo xe chở đồ. Chính vì vậy mà chúng tôi mới mua con Đốm đó. Chó khi ấy rất đắt, và chúng tôi đã trả một trăm mười đô la để mua nó. Nhìn bên ngoài thì quả thật đáng giá. Tôi nói là “nhìn bên ngoài” bởi vì đó là con chó có ngoại hình đẹp nhất mà tôi từng thấy. Nó nặng khoảng sáu mươi pound, và thân hình thì mang đầy đủ dáng vóc của một con chó kéo xe tốt. Chúng tôi chẳng bao giờ xác định nổi giống của nó. Nó không phải chó husky, cũng chẳng phải Malemute hay Hudson Bay; nó vừa giống tất cả, mà lại chẳng giống cái nào; và nhìn chung, nó có chút gì đó mang máu của chó nhà – bởi vì một bên thân, giữa cái màu vàng-nâu-đỏ-pha-trắng-bẩn là màu lông chủ đạo của nó, lại có một đốm đen to bằng cái xô nước. Đó là lý do vì sao chúng tôi gọi nó là Đốm
Hắn đúng là đẹp mã, không thể chối cãi. Khi ở thể trạng tốt, cơ bắp nổi từng cuộn khắp người. Và hắn là con vật có vẻ ngoài khỏe nhất mà tôi từng thấy ở Alaska, đồng thời cũng là con chó có vẻ thông minh nhất. Chỉ cần lướt mắt qua hắn, người ta sẽ nghĩ rằng hắn có thể kéo mạnh gấp ba lần những con chó cùng trọng lượng. Có thể là thế thật – nhưng tôi chưa bao giờ thấy. Trí thông minh của hắn không dùng để làm việc. Hắn có thể trộm cắp và lục lọi một cách hoàn hảo; hắn có một bản năng đến rợn người trong việc đoán trước khi nào thì phải làm việc để… chuồn đi cho kịp; và trong khoản đi lạc mà không chịu lạc lâu, thì hắn đúng là một thiên tài. Nhưng khi nói đến công việc, trí thông minh ấy bỗng nhiên như chảy hết ra khỏi người hắn, chỉ còn lại một cục thạch mềm nhũn, ngu ngơ đến xót lòng.
Nhiều lúc tôi nghĩ không hẳn là do ngu ngốc. Có lẽ, giống như một số người tôi từng gặp, hắn quá khôn để chịu làm việc. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu hắn chơi khăm tụi tôi bằng chính sự thông minh của mình. Có khi hắn tính toán cả rồi, rằng thỉnh thoảng ăn đòn nhưng không phải làm gì thì vẫn sướng hơn là cày suốt ngày mà chẳng bị đánh. Hắn thông minh đủ để làm phép tính đó. Tôi nói thật, đã nhiều lần tôi ngồi nhìn vào mắt con chó đó đến mức lạnh sống lưng, tủy sống như sôi lên men – chỉ vì cái ánh nhìn thông minh lóe lên từ trong đó. Tôi không thể diễn tả bằng lời cái sự thông minh ấy. Nó vượt khỏi ngôn ngữ. Tôi chỉ biết là tôi thấy nó. Có lúc, nhìn vào mắt hắn giống như đang nhìn vào một linh hồn con người – và những gì tôi thấy khiến tôi sợ hãi, làm tôi nghĩ đến đủ thứ chuyện về luân hồi, đầu thai và các thứ. Tôi cảm nhận được một điều gì lớn lao từ đôi mắt của con vật ấy; có một thông điệp nào đó ở đó, nhưng tôi thì không đủ “lớn” để hiểu được. Dù đó là gì đi nữa (tôi biết nghe tôi kể ra thì buồn cười lắm) – nó vẫn làm tôi hoang mang. Tôi không thể mô tả được chút gì về những gì tôi thấy trong mắt con vật ấy; nó không phải ánh sáng, cũng chẳng phải màu sắc; mà là một thứ gì đó chuyển động – rất sâu, từ phía sau, trong khi đôi mắt ấy bề ngoài vẫn bất động. Và tôi đoán rằng mình cũng chẳng thật sự “thấy” nó chuyển động; tôi chỉ cảm nhận được nó đang chuyển động. Đó là một biểu hiện – đúng, một biểu hiện – và tôi chỉ nắm được ấn tượng của nó. Không, nó khác với một biểu cảm thông thường; nó còn hơn thế nữa. Tôi không biết đó là gì, nhưng nó khiến tôi có một cảm giác về sự thân thuộc. Ồ không, không phải kiểu thân thuộc đầy tình cảm đâu. Đó là kiểu thân thuộc ngang hàng. Đôi mắt ấy không hề van lơn như mắt một con nai. Chúng thách thức. Không phải kiểu thách thức hung hăng, mà là một sự thừa nhận bình thản về sự bình đẳng. Và tôi không nghĩ rằng hắn cố ý thể hiện điều đó. Tôi tin rằng đó là điều vô thức. Nó tồn tại trong hắn một cách tự nhiên và không thể che giấu. Không, tôi không có ý nói “tỏa sáng”. Nó không tỏa sáng; nó chuyển động. Tôi biết tôi đang nói linh tinh, nhưng nếu anh từng nhìn vào mắt con vật ấy như tôi đã từng, anh sẽ hiểu. Steve cũng bị ảnh hưởng như tôi. Tôi từng cố giết con Spot – hắn vô dụng chẳng làm được việc gì – nhưng tôi không làm nổi. Tôi dẫn hắn ra bụi cây, hắn đi theo chậm rãi, miễn cưỡng. Hắn biết chuyện gì sắp xảy ra. Tôi dừng lại ở một chỗ thuận tiện, giẫm chân lên sợi dây cột cổ hắn và rút khẩu Colt lớn ra. Và con chó ấy ngồi xuống, nhìn tôi. Tôi nói thật, hắn không hề van xin. Hắn chỉ nhìn. Và tôi thấy đủ thứ điều khó hiểu chuyển động – vâng, chuyển động – trong đôi mắt hắn. Tôi cũng chẳng thật sự “thấy” chúng chuyển động; tôi nghĩ là tôi thấy, vì như đã nói, tôi chỉ cảm nhận chúng. Và tôi nói cho anh biết, chuyện đó vượt quá sức tôi. Giống như đang giết một con người – một người đàn ông có ý thức, dũng cảm, đang bình thản nhìn vào nòng súng như thể muốn nói: “Ai sợ chứ?”
Rồi nữa, thông điệp ấy như thể đang lấp ló ngay trước mắt tôi, khiến tôi không bóp cò ngay mà còn nấn ná chờ để xem mình có hiểu được không. Nó ở đó, ngay trước mặt tôi, lấp lánh khắp nơi trong mắt hắn. Và rồi, đã quá muộn. Tôi bắt đầu hoảng. Toàn thân tôi run rẩy, dạ dày quặn thắt khiến tôi thấy buồn nôn như say sóng. Tôi chỉ ngồi đó, nhìn con chó, và hắn nhìn tôi, cho đến khi tôi nghĩ mình sắp hóa điên. Anh có biết tôi đã làm gì không? Tôi ném súng xuống và chạy một mạch về trại, lòng đầy sợ hãi như thể chạm đến Thiên Chúa. Steve cười tôi. Nhưng tôi để ý thấy rằng một tuần sau, Steve cũng dắt Đốm vào rừng, cũng với ý định đó, và Steve trở về một mình, còn một lúc sau thì Đốm cũng lững thững quay lại.
Dù sao đi nữa, Đốm nhất định không chịu làm việc. Chúng tôi đã móc ra một trăm mười đô la từ tận đáy túi để mua nó, và hắn không chịu làm gì cả. Đến cỡ kéo dây buộc cũng không. Lần đầu tiên cho nó vào dây kéo, Steve gọi nó, nó chỉ rùng mình, thế thôi. Không một chút lực nào dồn vào dây. Nó chỉ đứng đó, lắc lư như một cục thạch. Steve quất nhẹ roi vào hắn. Hắn rít lên, nhưng vẫn không động đậy. Steve quất thêm cái nữa, mạnh hơn, và hắn tru lên – một tiếng tru dài như tiếng sói hoang. Rồi Steve tức giận, quất thêm nửa tá phát nữa, và tôi phải chạy từ lều ra…
Tôi bảo Steve là hắn quá tàn nhẫn với con vật, và chúng tôi đã cãi nhau – lần đầu tiên từ trước đến nay. Hắn ném cái roi xuống tuyết và bỏ đi trong cơn giận. Tôi nhặt roi lên và tiếp tục công việc. Con Đốm run rẩy, lắc lư và rụt người lại ngay cả trước khi tôi vung roi. Và khi roi quất trúng lần đầu, nó tru lên như linh hồn lạc lối. Rồi nó nằm bẹp luôn xuống tuyết. Tôi hô những con chó khác khởi hành, và chúng kéo hắn lết đi trong khi tôi tiếp tục quất roi vào nó. Nó lăn ngửa ra, trượt lê theo xe, bốn chân vung vẩy trên không, tru lên thảm thiết như thể đang bị nghiền qua cỗ máy làm xúc xích. Steve quay lại, cười tôi ngặt nghẽo, và tôi đã phải xin lỗi vì những lời mình đã nói lúc trước.
Không thể trông mong làm việc gì từ con Đốm được cả; và để bù lại cho sự vô dụng đó, nó lại là con chó tham ăn như heo nhất mà tôi từng thấy. Thêm vào đó, nó cũng là tên trộm quỷ quái nhất. Không cách gì ngăn chặn được nó. Không biết bao nhiêu lần chúng tôi phải nhịn ăn sáng vì Đốm đã “ghé thăm” trước và chén sạch thịt muối. Chính nó là lý do mà chúng tôi suýt chết đói ở thượng nguồn sông Stewart. Nó tìm ra cách đột nhập vào kho thịt của chúng tôi, và những gì nó không ăn, thì cả đàn chó còn lại cũng xử lý nốt. Nhưng hắn không thiên vị ai. Hắn trộm của tất cả mọi người. Hắn là con chó không yên chân, lúc nào cũng bận bịu ngửi ngó hoặc lang thang đâu đó. Không có trại nào trong bán kính năm dặm mà nó không đột nhập. Tệ nhất là chủ nhân các trại đó luôn quay lại bắt chúng tôi trả tiền ăn cho hắn, điều vốn là đúng theo luật nơi đây; nhưng thật là cực khổ cho chúng tôi, nhất là vào mùa đông đầu tiên ở đèo Chilcoot, khi chúng tôi cạn sạch tiền mà vẫn phải trả cho những khối thịt nguội và thịt muối mà chúng tôi chưa từng được nếm.
Hắn còn biết đánh nhau nữa, con Đốm đó. Hắn có thể làm tất cả mọi thứ – trừ làm việc. Hắn chẳng bao giờ kéo nổi một pound, nhưng lại là kẻ thống trị cả đàn chó. Cái cách hắn bắt những con khác phải lép vế là một bài học thực thụ. Hắn bắt nạt tất cả, và lúc nào trong đàn cũng có vài con bị dấu răng hắn đánh dấu. Nhưng hắn không chỉ là kẻ bắt nạt. Hắn chẳng sợ bất cứ con vật bốn chân nào; và tôi đã thấy hắn một mình xông vào một đàn chó lạ, chẳng vì lý do gì, và đánh cho cả bọn tan tác. Tôi đã nói hắn tham ăn chưa? Tôi từng bắt gặp hắn gặm cả cái roi. Thật đấy. Hắn bắt đầu từ đầu roi, và khi tôi bắt gặp thì hắn đã nhai tới tận cán mà vẫn còn ăn tiếp.
Nhưng hắn vẫn là một con chó có ngoại hình đẹp. Sau tuần đầu tiên, chúng tôi bán hắn cho cảnh sát Kỵ binh với giá bảy mươi lăm đô la. Họ có những người điều khiển chó dày dạn kinh nghiệm, và chúng tôi biết chắc rằng sau khi vượt sáu trăm dặm đến Dawson, hắn sẽ thành chó kéo xe tốt. Tôi nói là “chúng tôi biết”, vì lúc đó chúng tôi mới chỉ bắt đầu quen với Đốm. Về sau, chúng tôi chẳng còn dám khẳng định điều gì liên quan đến hắn nữa.
Một tuần sau, chúng tôi bị đánh thức bởi cuộc chó chiến ầm ĩ nhất mà chúng tôi từng nghe. Đốm đã quay về và đang “dạy dỗ” lại cả đàn. Bữa sáng hôm đó quả là buồn bã, tôi nói thật với anh; nhưng hai tiếng sau thì tinh thần lên cao khi chúng tôi bán được hắn cho một người chuyển thư chính phủ, đang trên đường tới Dawson. Đốm chỉ mất ba ngày để quay lại – và như thường lệ, hắn đánh dấu sự trở về bằng một cuộc “đại náo”.
Chúng tôi đã trải qua suốt mùa đông và mùa xuân, sau khi đưa hết đồ của mình qua đèo, đi chuyên chở thuê cho người khác; và chúng tôi kiếm được kha khá. Ngoài ra, chúng tôi còn kiếm tiền nhờ Đốm. Nếu từng bán hắn một lần, thì chúng tôi đã bán tới hai chục lần. Hắn luôn quay về, và chẳng ai đòi lại tiền cả. Thật ra, chúng tôi chẳng hề muốn tiền. Chúng tôi thậm chí sẵn sàng trả giá cao để ai đó thực sự mang hắn đi mãi mãi. Chúng tôi phải tống khứ hắn, nhưng không thể cho không – vì như thế sẽ sinh nghi. Nhưng hắn có ngoại hình đẹp đến mức chúng tôi chẳng bao giờ gặp khó khăn khi bán. “Chưa thuần hóa,” chúng tôi bảo, và họ vẫn sẵn sàng trả giá cao. Có lần chúng tôi bán với giá thấp tới hai mươi lăm đô, mà có lần lên tới một trăm năm mươi. Người mua hôm ấy còn đích thân mang hắn trả lại, không lấy lại tiền, và chửi chúng tôi một trận thê thảm. Hắn nói rằng số tiền ấy cũng đáng để được nói hết những gì hắn nghĩ về chúng tôi; và chúng tôi thấy hắn mắng đúng đến nỗi chẳng thể cãi lại. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa lấy lại được chút tự trọng nào sau buổi bị chửi ấy.
Khi băng tan trên các hồ và sông, chúng tôi cho đồ lên thuyền ở hồ Bennett để khởi hành đến Dawson. Chúng tôi có một đàn chó kéo xe tốt, và dĩ nhiên chúng tôi xếp chúng lên trên đống đồ. Đốm cũng có mặt – không thể nào tống khứ được hắn – và ngay trong ngày đầu, cả chục lần hắn tống mấy con khác xuống nước vì cãi nhau. Không gian trên thuyền chật chội, mà hắn thì ghét bị chen chúc.
“Con chó này cần không gian,” Steve nói vào ngày thứ hai. “Ta phải bỏ rơi nó thôi.”
Và chúng tôi làm vậy. Cho thuyền tấp vào bờ ở Caribou Crossing để hắn nhảy lên bờ. Hai con khác – toàn là chó tốt – cũng nhảy theo hắn; và chúng tôi mất hai ngày tìm kiếm. Nhưng chẳng bao giờ thấy lại chúng nữa. Tuy nhiên, sự yên tĩnh và thanh thản sau đó khiến chúng tôi đồng ý, như cái người từng từ chối lấy lại một trăm năm mươi đô, rằng “đáng đồng tiền bát gạo”. Lần đầu tiên sau nhiều tháng, Steve và tôi cười nói, huýt sáo và hát vang. Chúng tôi vui như trẻ nhỏ. Những ngày đen tối đã qua. Cơn ác mộng đã chấm dứt. Đốm đã biến mất.
Ba tuần sau, vào một buổi sáng, Steve và tôi đang đứng trên bờ sông ở Dawson thì một chiếc thuyền nhỏ từ hồ Bennett vừa cập bến. Tôi thấy Steve giật mình và buột miệng chửi một câu không mấy lịch sự. Rồi tôi nhìn theo – và kìa, ở mũi thuyền, tai vểnh cao, chính là Đốm đang ngồi. Steve và tôi lập tức chuồn thẳng, hệt như hai con chó bị đánh, như hai kẻ hèn nhát, như những tên phạm pháp đang trốn lệnh truy nã. Và đó chính là điều mà viên trung úy cảnh sát nghĩ đến khi thấy chúng tôi lén lút như vậy. Hắn đoán là có cảnh sát trên thuyền đến bắt chúng tôi. Hắn không đợi xác minh mà liền theo dõi, rồi tóm chúng tôi ở trong quán rượu M. & M. Chúng tôi đã phải giải thích khốn khổ, vì nhất định không chịu quay lại thuyền để gặp Đốm; cuối cùng, hắn giữ chúng tôi dưới sự giám sát của một cảnh sát khác rồi tự đi ra thuyền kiểm tra. Khi được thả ra, chúng tôi vội vã về cabin, và khi tới nơi thì – đúng như anh đoán – Đốm đang ngồi chễm chệ trước hiên nhà đợi sẵn.
Giờ thì anh nói tôi nghe đi – làm sao nó biết chúng tôi sống ở đó? Mùa hè năm ấy Dawson có đến bốn vạn người, thế mà nó lần ra được đúng cabin của chúng tôi. Và làm sao nó biết chúng tôi đang ở Dawson? Tôi giao câu hỏi đó cho anh. Nhưng đừng quên những gì tôi đã kể về sự thông minh của nó – và cái gì đó bất tử, mà tôi từng thấy lấp lánh trong mắt nó.
Không thể nào thoát khỏi nó nữa rồi. Ở Dawson có quá nhiều người từng mua nó trên đèo Chilcoot, và chuyện lan truyền khắp nơi. Có đến nửa tá lần chúng tôi gửi nó lên tàu hơi nước chạy dọc sông Yukon; vậy mà đến trạm dừng đầu tiên, nó liền nhảy lên bờ và ung dung trở lại. Không thể bán, không thể giết (cả Steve và tôi đều đã thử), và cũng chẳng ai giết nổi nó. Nó sống như có phép màu hộ thân. Tôi từng thấy nó bị cả đàn chó – đến năm chục con – đè ngập trong một trận đánh nhau giữa phố chính, vậy mà khi tách được ra, nó vẫn đứng vững trên cả bốn chân, không một vết xước, trong khi hai con từng ở trên cùng nó thì đã nằm chết quay.
Tôi từng thấy nó ăn cắp một khối thịt nai nặng trịch trong kho của ngài Dinwiddie, đến mức nó chỉ vừa đủ sức nhảy từng bước để tránh bị đuổi kịp bởi bà đầu bếp người da đỏ của ông Dinwiddie – người đang rượt nó với một cái rìu trong tay. Khi bà ta đuối sức bỏ cuộc, ngài Dinwiddie đích thân bước ra và xả cả khẩu Winchester vào không trung. Ông ta bắn hết hai băng đạn mà vẫn không trúng Đốm. Sau đó có một cảnh sát đi ngang, bắt ông ta vì nổ súng trong khu dân cư. Ngài Dinwiddie nộp phạt, còn Steve và tôi thì phải trả tiền thịt nai cho ông ta – một đô một pound, cả xương lẫn mỡ. Mà ông ta mua cũng với giá ấy. Năm đó giá thịt cao khủng khiếp.
Tôi chỉ kể lại những gì chính mắt mình thấy. Và giờ tôi sẽ kể thêm điều này. Tôi từng thấy Đốm rơi xuống một lỗ băng trên sông. Lớp băng dày đến ba gang rưỡi, và dòng nước xiết hút nó xuống như nuốt một cọng rơm. Ba trăm mét phía dưới là lỗ nước của bệnh viện. Đốm chui ra từ chỗ đó, tự liếm khô, gặm hết lớp băng bám giữa các ngón chân, rồi leo lên bờ, điềm nhiên đánh cho con chó Newfoundland to đùng của viên ủy viên vàng một trận tơi bời.
Mùa thu năm 1898, Steve và tôi chèo ngược sông Yukon bằng chiếc sào cuối mùa nước, hướng về sông Stewart. Chúng tôi đem theo cả đàn chó, trừ Đốm. Chúng tôi nghĩ là đã nuôi hắn đủ lâu rồi. Hắn khiến chúng tôi tốn quá nhiều thời gian, công sức, tiền bạc và nhất là đồ ăn – nhiều hơn cả số lời chúng tôi từng kiếm được nhờ bán hắn trên Chilcoot. Vì vậy, Steve và tôi trói hắn lại trong cabin rồi kéo đồ lên thuyền.
Tối hôm đó, chúng tôi cắm trại ở cửa sông Indian, và hai đứa cười hể hả vì đã “thoát nợ”. Steve hay đùa, và tôi đang ngồi trong chăn cười khúc khích thì bỗng một cơn bão táp ập vào trại. Cái cách mà Đốm xông vào đàn chó và “dạy dỗ” từng con một khiến tóc gáy tôi dựng đứng. Làm sao nó thoát được? Tôi chịu. Tôi chẳng có giả thuyết nào hết. Và làm sao nó vượt qua được sông Klondike? Lại thêm một câu hỏi hóc búa nữa. Mà làm sao nó biết chúng tôi đi ngược sông Yukon? Nhớ là chúng tôi đi bằng thuyền, nên nó không thể đánh hơi theo dấu chân được. Steve và tôi bắt đầu có cảm giác mê tín về con chó ấy. Nó khiến chúng tôi căng thẳng tột độ; và giữa anh với tôi, thú thật là chúng tôi đã bắt đầu thấy… hơi sợ nó rồi.
Khi sông bắt đầu đóng băng, chúng tôi đang ở cửa suối Henderson. Lúc ấy chúng tôi trao đổi Đốm lấy hai bao bột cho một nhóm người chuẩn bị đi ngược sông White tìm đồng đỏ. Và cả nhóm đó… biến mất. Không còn dấu vết nào – không người, không chó, không xe, không đồ đạc. Mất hút khỏi thế gian. Trở thành một trong những điều bí ẩn của miền đất này.
Steve và tôi vẫn tiếp tục lên Stewart, và sáu tuần sau, Đốm lại lết vào trại. Hắn lúc ấy chỉ còn là một bộ xương biết đi, lê từng bước nặng nhọc – nhưng hắn đến được. Và tôi muốn hỏi anh – ai nói với hắn là chúng tôi ở trên Stewart? Chúng tôi có thể đi đến cả ngàn nơi khác. Làm sao hắn biết được? Anh nói tôi nghe, rồi tôi sẽ nói lại anh nghe.
Không thể tống khứ được hắn. Ở trạm Mayo, hắn gây sự với một con chó của người da đỏ. Tay da đỏ giận dữ vung rìu định chém Đốm – nhưng trượt, và giết nhầm luôn chính con chó của mình. Anh thử nói đến chuyện phép thuật hay tránh đạn đi – theo tôi, tránh được lưỡi rìu của một gã da đỏ lực lưỡng còn khó hơn nhiều. Mà tôi tận mắt thấy chuyện ấy. Tay da đỏ kia không hề muốn giết chó mình đâu. Anh phải giải thích điều đó cho tôi.
Tôi từng kể anh nghe vụ Đốm phá kho thịt của chúng tôi. Nó suýt giết chết cả hai đứa tôi. Khi ấy không còn thịt để săn nữa, mà đó là thứ duy nhất để sống sót. Lũ nai đã rút lui hàng trăm dặm, và người da đỏ cũng đi theo. Chúng tôi mắc kẹt lại, chỉ còn biết chờ sông tan băng vào mùa xuân. Chúng tôi gầy đi trông thấy, cho đến khi quyết định ăn thịt đàn chó – và quyết định bắt đầu với Đốm.
Anh biết nó làm gì không? Nó… trốn biệt.
Làm sao nó biết chúng tôi đã quyết định ăn thịt nó? Chúng tôi thức trắng nhiều đêm để rình bắt, nhưng nó không quay lại. Và rồi… chúng tôi ăn hết đàn chó. Chúng tôi ăn tất cả.
Bạn biết một con sông lớn trông thế nào khi băng tan, khi vài tỷ tấn băng bị cuốn trôi, kẹt lại, xô đẩy và nghiền nát nhau. Ngay giữa cảnh tượng đó, khi sông Stewart vỡ băng, ầm ầm và gào thét, chúng tôi thấy Đốm giữa dòng. Nó đã bị mắc kẹt khi cố băng qua ở đâu đó phía thượng nguồn. Steve và tôi gào thét, hò hét, chạy lên chạy xuống bờ sông, quăng mũ lên trời. Có lúc chúng tôi dừng lại ôm lấy nhau, vui mừng quá đỗi, vì chúng tôi thấy Đốm sắp tiêu đời. Nó không có lấy một phần triệu cơ hội sống sót. Thật ra là chẳng có cơ hội nào cả. Sau đợt băng trôi, chúng tôi xuống xuồng, chèo đến sông Yukon, rồi chèo theo sông Yukon về Dawson, dừng lại một tuần để bồi dưỡng tại các túp lều nơi cửa suối Henderson. Và khi chúng tôi cập bờ Dawson, thì kìa, Đốm đang ngồi đó chờ sẵn, tai vểnh lên, đuôi vẫy, miệng toe toét cười, đón tiếp chúng tôi một cách hân hoan. Giờ thì làm sao nó thoát khỏi khối băng ấy? Làm sao nó biết chúng tôi sẽ về Dawson, vào đúng giờ đúng khắc, mà ra tận bờ sông chờ đón? Càng nghĩ về Đốm, tôi càng tin rằng có những điều trong thế giới này vượt khỏi tầm với của khoa học. Không một lý thuyết khoa học nào có thể giải thích được Đốm. Đó là hiện tượng tâm linh, hay thần bí học, hoặc gì đó đại loại thế, có lẽ kèm thêm một mớ Thần trí học nữa. Klondike là một vùng đất tốt. Có lẽ tôi đã ở lại đó và trở thành triệu phú, nếu không vì Đốm. Nó làm tôi phát điên. Tôi chịu đựng nó được hai năm, rồi có lẽ thần kinh tôi đứt hẳn. Đó là mùa hè năm 1899 khi tôi rút lui. Tôi chẳng nói gì với Steve cả. Tôi chỉ lặng lẽ chuồn đi. Nhưng tôi cũng lo liệu đâu vào đó. Tôi viết cho Steve một bức thư, kèm theo một gói thuốc chuột , bảo anh ta cách xử lý. đã làm tôi tiều tụy còn da bọc xương, và tôi căng thẳng đến mức giật bắn mình khi không có ai quanh quất. Nhưng thật kỳ diệu là tôi hồi phục nhanh chóng khi thoát được khỏi nó. Tôi tăng được hai chục cân trước khi đến San Francisco, và đến khi sang phà qua Oakland thì tôi đã lại là chính mình, đến mức vợ tôi cũng không nhận ra có gì thay đổi.
Steve có viết cho tôi một lần, và bức thư có vẻ cáu kỉnh. Anh ta tỏ ra không vui vì tôi đã để anh ta lại với Đốm. Anh cũng nói đã dùng thuốc chuột đúng chỉ dẫn, nhưng chẳng có tác dụng gì. Một năm trôi qua. Tôi quay lại văn phòng, làm ăn phát đạt – thậm chí hơi phát tướng. Rồi Steve đến. Anh ta không tìm tôi. Tôi thấy tên anh ta trong danh sách hành khách trên tàu, và tự hỏi tại sao. Nhưng tôi chẳng phải thắc mắc lâu. Một sáng nọ tôi thức dậy, thấy Đốm bị xích ở cột cổng và đang dọa sợ anh giao sữa. Sáng hôm đó Steve đã đi về phía bắc, đến Seattle, như tôi được biết. Từ đó tôi không tăng cân thêm chút nào. Vợ tôi bắt tôi mua cho nó vòng cổ và thẻ tên, và chỉ trong vòng một tiếng, nó bày tỏ lòng biết ơn bằng cách giết chết con mèo Ba Tư cưng của vợ tôi. Không tài nào tống khứ được Đốm. Nó sẽ ở với tôi cho đến lúc tôi chết, vì nó sẽ không bao giờ chết. Từ ngày nó xuất hiện, tôi ăn uống không ngon miệng, và vợ tôi bảo tôi trông xanh xao. Tối qua Đốm đột nhập chuồng gà của ông Harvey (ông ấy là hàng xóm sát vách) và giết mười chín con gà giống quý của ông ta. Tôi sẽ phải đền. Hàng xóm bên kia cãi nhau với vợ tôi rồi dọn đi. Cũng tại Đốm mà ra. Và đó là lý do tôi thất vọng về Stephen Mackaye. Tôi không ngờ anh ta lại là một con người tệ bạc đến thế.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch và giới thiệu
Tháng 7 / 2025
Nguồn:
https://americanliterature.com/author/jack-london/short-story/that-spot
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire