vendredi 25 juillet 2025

Một hội kín

  

MỘT HỘI KÍN 

Virginia Woolf

(Đăng năm 1921 trong tuyển tập truyện ngắn Monday or Tuesday)


 


Adeline Virginia Stephen sinh ngày 25 tháng 1 năm 1882 tại khu Kensington, London. Bà được thế giới biết đến nhiều hơn với cái tên Virginia Woolf, một trong những tác giả hiện đại vĩ đại của văn học Anh thế kỷ XX. Những tiểu thuyết được đánh giá cao nhất của bà bao gồm Mrs. Dalloway (1925), To the Lighthouse (1927), Orlando (1928), và bài tiểu luận mở rộng A Room of One’s Own (Một căn phòng riêng, 1929). Chúng tôi xin giới thiệu tập truyện ngắn Monday or Tuesday (1921) của Woolf, bao gồm truyện cùng tên Monday or Tuesday, A Haunted House (Ngôi nhà ma ám), A Society (Một hội kín), The String Quartet (Tứ tấu dây), An Unwritten Novel (Một cuốn tiểu thuyết chưa viết), Blue & Green (Xanh lam và xanh lục), Kew Gardens (Vườn Kew), và The Mark on the Wall (Dấu vết trên tường).

Virginia Woolf là một thành viên của Nhóm Bloomsbury — một nhóm các nghệ sĩ văn chương Anh có ảnh hưởng, những người đã thể hiện các quan điểm hiện đại về chủ nghĩa hòa bình, giới tính và nữ quyền trong nửa đầu thế kỷ XX. Những thành viên khác trong nhóm bao gồm John Maynard Keynes, E. M. Forster và Lytton Strachey. Bài tiểu luận mang tính khơi mở của bà, A Room of One’s Own (Một căn phòng riêng), được xem là một trong mười cuốn sách có ảnh hưởng lớn nhất trong phong trào nữ quyền. Woolf từng khuyên các nhà văn theo chủ nghĩa hiện đại rằng họ nên viết theo cảm xúc và sự thật nội tâm, thay vì quan tâm đến kỳ vọng của các nhà xuất bản hay xã hội. Suốt cuộc đời mình, Woolf được biết đến là người mắc bệnh tâm thần, có khả năng là rối loạn lưỡng cực, tuy nhiên căn bệnh này thời bấy giờ vẫn chưa được hiểu rõ hay điều trị hiệu quả. Bà đã tự kết liễu đời mình ở tuổi 59 vào ngày 28 tháng 3 năm 1941.

Virginia Woolf thừa hưởng chủ nghĩa nhân văn từ cha mẹ mình và, khi không tin vào Chúa hay thế giới bên kia, bà nhấn mạnh thay vào đó sự tối thượng của khoảnh khắc hiện tại. Giống như nhân vật Mrs Dalloway (trong tiểu thuyết năm 1925 của Woolf), tôn giáo của bà là “tôn giáo của người vô thần” — làm điều tốt chỉ vì cái tốt tự thân.


Virginia Woolf là một trong những nhà văn hiện đại tiêu biểu nhất của văn học Anh thế kỷ XX. Bà để lại một di sản đồ sộ bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận và nhật ký. Dưới đây là những tác phẩm chính của Virginia Woolf, được chia theo thể loại:


 Tiểu thuyết nổi bật

1. The Voyage Out (Hành trình ra khơi, 1915)

– Tiểu thuyết đầu tay, kể về hành trình khám phá bản thân của một phụ nữ trẻ.

2. Night and Day (Đêm và ngày, 1919)

– Xoay quanh những lựa chọn tình yêu và vai trò của phụ nữ trong xã hội.

3. Jacob’s Room (Căn phòng của Jacob, 1922)

– Bước chuyển sang phong cách hiện đại, với cấu trúc rời rạc và ý thức dòng chảy.

4. Mrs Dalloway (Bà Dalloway, 1925)

– Một kiệt tác về ý thức nội tâm, kể lại một ngày trong đời của bà Clarissa Dalloway.

5. To the Lighthouse (Ra ngọn hải đăng, 1927)

– Một trong những tác phẩm được đánh giá cao nhất, giàu chất thơ và triết lý về thời gian, ký ức, và sự mất mát.

6. Orlando: A Biography (Orlando: Một tiểu sử, 1928)

– Tác phẩm mang màu sắc huyền ảo và hài hước, khám phá bản dạng giới và lịch sử.

7. The Waves (Những con sóng, 1931)

– Tác phẩm cách tân táo bạo, sử dụng độc thoại nội tâm của sáu nhân vật.

8. The Years (Những năm tháng, 1937)

– Một tiểu thuyết có phần truyền thống hơn, theo dõi một gia đình qua nhiều thập kỷ.

9. Between the Acts (Giữa các hồi kịch, 1941, xuất bản sau khi bà mất)

– Tác phẩm cuối cùng của Woolf, đậm chất biểu tượng và phản ánh nỗi lo trước Thế chiến II.

 Tiểu luận nổi tiếng

1. A Room of One’s Own (Một căn phòng riêng, 1929)

– Bàn về điều kiện cần thiết để phụ nữ sáng tác văn học, tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa nữ quyền.

2. Three Guineas (Ba đồng guinée, 1938)

– Phản ánh mối liên hệ giữa giáo dục, chiến tranh, và vai trò của phụ nữ trong xã hội.

3. The Common Reader (Người đọc thông thường, 1925 & 1932)

– Tập hợp các bài tiểu luận phê bình văn học, nhẹ nhàng mà sâu sắc.

 Tập truyện ngắn tiêu biểu
Monday or Tuesday (Thứ Hai hay Thứ Ba, 1921)

Gồm 8 truyện ngắn mang phong cách tượng trưng và hiện đại, như:

A Haunted House (Ngôi nhà ma ám)

          A Society (Một hội kín)

        The Mark on the Wall (Dấu vết trên tường)
Kew Gardens (Vườn Kew)

Trong truyện ngắn A Society (1921), Virginia Woolf không chỉ tạo nên một tác phẩm trào phúng sâu sắc mà còn trình bày một cái nhìn đầy châm biếm, ngờ vực và u hoài về vai trò của phụ nữ, trí thức nam giới, và những định chế xã hội. Qua hình thức đối thoại và cấu trúc tưởng như nhẹ nhàng, Woolf đã đưa ra những nhận định đầy tính cách mạng về bất bình đẳng giới, vai trò của tri thức, và sự mâu thuẫn giữa triết lý sống và thực tiễn lịch sử. Truyện mang đậm tinh thần nữ quyền đầu thế kỷ XX, nhưng vượt khỏi giới hạn của thời đại, nó trở thành một bản chất vấn dài về những giá trị mà xã hội – đặc biệt là xã hội phương Tây – coi là “văn minh”.

Ngay từ đầu truyện, ta được giới thiệu một nhóm phụ nữ thành lập một hội kín để điều tra và đánh giá nền văn minh mà đàn ông đã xây dựng. Họ đưa ra một tuyên ngôn tưởng chừng vô hại: “Mục đích của cuộc đời là sản sinh ra những con người tốt và những cuốn sách tốt.” Nhưng từ tiền đề này, Woolf lập tức châm biếm bằng cách đưa ra các phản biện mang màu sắc hài hước và mỉa mai về những “thành tựu” của đàn ông trong văn chương, chiến tranh và đạo đức.

Cái hài hước trong truyện không đơn thuần chỉ là sự cười cợt, mà là một hình thức phản tư sâu sắc. Nhân vật Elizabeth mặc trang phục nam giới để được làm nhà phê bình – điều cho thấy phụ nữ, để được nghe hoặc có thẩm quyền đánh giá trong lĩnh vực trí tuệ, buộc phải cải trang thành đàn ông. Một cú mỉa mai rõ ràng về tình trạng độc quyền nam tính trong giới học thuật và xuất bản đương thời.

Woolf chế giễu lối văn chương thị trường qua những đoạn đối thoại về các nhà văn nam được trọng vọng thời ấy như H.G. Wells, Arnold Bennett hay Walpole. Trong mắt các nhân vật nữ, sách của họ chỉ là “tấm gương phản chiếu đời sống” một cách hời hợt – thiếu sự thật, thiếu chiều sâu nhân văn. Một nhân vật nữ đã thú nhận: “Sự thật không liên quan gì đến văn chương cả,” như một lời buộc tội cay đắng đối với nền văn chương nam giới chỉ chạy theo danh tiếng, tiền bạc và nhu cầu đại chúng.

Sự lấp lửng, quanh co trong cách trả lời cũng là một thủ pháp để Woolf vạch trần cái giả dối của tầng lớp trí thức nam: họ không hề trung thực, mà chỉ diễn giải cuộc sống theo một cách dễ chấp nhận nhất – như việc viết một bài báo hàng tuần về “tình yêu hay bánh mì nướng”.

Một bước ngoặt trong truyện xảy ra khi nhân vật Jane định tổng kết những phát hiện của hội thì bị cắt ngang bởi tiếng hô vang: “Chiến tranh! Chiến tranh! Tuyên chiến!” Trong khoảnh khắc ấy, các nhân vật bàng hoàng nhận ra: họ đã quên cử người đến Hạ viện, một nơi quyết định số phận dân tộc – trong đó có cả họ.

Họ hỏi: “Tại sao đàn ông lại đi gây chiến?” Nhưng chẳng ai biết được lý do rõ ràng. Woolf đưa ra một chuỗi dẫn chứng lịch sử rời rạc như thể để nhấn mạnh: chiến tranh là một chu kỳ lặp lại vô nghĩa, và thảm họa này – sản phẩm của trí tuệ đàn ông – lại diễn ra trong sự vắng mặt hoàn toàn của tiếng nói phụ nữ.

Đây là một lời tố cáo sâu sắc về sự loại trừ phụ nữ khỏi các vị trí quyền lực chính trị, đồng thời cho thấy hậu quả trực tiếp của sự vắng mặt ấy: chiến tranh, chết chóc và vô nghĩa. Đoạn kết truyện là một lời kêu cứu mỉa mai và đau đớn. Castalia – một nhân vật trong hội – thốt lên rằng chính phụ nữ đã nuôi dưỡng và chiều chuộng trí tuệ nam giới, để rồi thứ trí tuệ ấy quay lại áp bức chính họ và phá hủy thế giới. Cô cầu xin: “Lạy Chúa, hãy nghĩ ra một cách để đàn ông có thể sinh con! Đó là cơ hội duy nhất của chúng ta!”

Đây không chỉ là một tiếng kêu bi hài, mà còn là một hình ảnh ẩn dụ cho việc đàn ông phải đảm nhận trách nhiệm sáng tạo sự sống – thay vì phá hủy nó qua chiến tranh và danh vọng phù phiếm. Nếu không, như lời Cassandra cảnh báo, “chúng ta sẽ bị chôn vùi dưới sản phẩm của hoạt động không kiềm chế ấy, và chẳng còn ai sống sót để biết rằng từng có một người tên là Shakespeare.”

A Society là một truyện ngắn giàu tính ẩn dụ, sắc sảo trong ngôn từ và tư tưởng, kết hợp hoàn hảo giữa giọng điệu châm biếm và sự đau đáu triết lý. Virginia Woolf không chỉ phê phán xã hội nam trị, mà còn đặt ra câu hỏi lớn về ý nghĩa của văn hóa, tri thức và đạo đức trong một thế giới bị chi phối bởi quyền lực phi lý và chiến tranh.

Dưới hình thức tưởng như là một buổi tán gẫu nhẹ nhàng, Woolf đã nói hộ tiếng lòng của cả một thế hệ phụ nữ – những người khát khao được đọc, được viết, được sống trong hòa bình, và được tin vào chính bản thân mình.


* * *


Mọi chuyện xảy ra là như thế này. Sáu hoặc bảy người trong bọn tôi đang ngồi vào một buổi chiều sau khi uống trà. Một vài người thì mải mê nhìn qua đường vào cửa sổ của tiệm mũ, nơi ánh sáng vẫn rực rỡ chiếu lên những chiếc lông vũ đỏ thắm và đôi dép vàng óng ánh. Những người khác thì đang mải chơi xếp những tháp nhỏ bằng đường trên mép khay trà. Một lúc sau, theo như tôi còn nhớ được, chúng tôi tụm lại quanh lò sưởi và như thường lệ bắt đầu ngợi ca đàn ông — họ mạnh mẽ làm sao, cao thượng làm sao, tài giỏi, can đảm, đẹp đẽ đến nhường nào — và chúng tôi ghen tị với những ai bằng cách nào đó đã tìm được người đàn ông để gắn bó suốt đời. Lúc đó thì Poll, người nãy giờ im lặng, bất chợt òa khóc.

Phải nói thêm rằng Poll từ trước tới nay vẫn luôn là người kỳ quặc. Cha cô ấy là một người đàn ông kỳ lạ. Ông để lại cho cô một khoản gia tài trong di chúc, nhưng với điều kiện là cô phải đọc hết toàn bộ sách trong Thư viện London. Chúng tôi cố gắng an ủi cô hết mức có thể; nhưng trong lòng ai cũng biết điều đó vô ích. Bởi dù chúng tôi quý mến cô, thì Poll không phải là một người xinh đẹp; cô hay để dây giày không buộc; và hẳn là khi chúng tôi mải khen đàn ông, cô đang nghĩ đến chuyện không một ai trong số đó sẽ bao giờ muốn cưới cô.

Cuối cùng thì cô cũng lau nước mắt. Một lúc lâu chúng tôi chẳng hiểu nổi cô đang nói gì. Mà nói thực, thì điều cô kể nghe thật lạ lùng. Cô nói rằng, như chúng tôi đều biết, cô dành phần lớn thời gian ở Thư viện London để đọc. Cô đã bắt đầu, cô bảo, từ tầng cao nhất với văn học Anh; và đang đều đặn tiến dần xuống tới The Times ở tầng thấp nhất. Nhưng giờ đây, mới đọc được một nửa — hoặc có thể mới chỉ một phần tư — thì một chuyện kinh khủng đã xảy ra. Cô không thể đọc thêm được nữa. Sách không giống như những gì chúng tôi vẫn tưởng. “Sách,” cô kêu lên, đứng bật dậy, nói bằng một giọng đầy tuyệt vọng mà tôi sẽ không bao giờ quên được, “phần lớn là những thứ dở tệ đến mức không thể tả nổi!”

Tất nhiên, chúng tôi vội phản bác rằng Shakespeare viết sách, và Milton, Shelley cũng thế.

“Ồ, đúng vậy,” cô ngắt lời chúng tôi. “Tôi thấy là các bạn được dạy dỗ rất bài bản. Nhưng các bạn không phải là thành viên của Thư viện London.” Lúc này những tiếng nức nở của cô lại vang lên. Cuối cùng, bình tĩnh lại một chút, cô mở ra một cuốn trong đống sách mà lúc nào cô cũng mang theo bên mình — Từ một ô cửa sổ, hay Trong một khu vườn, hoặc một cái tên na ná vậy, và tác giả là một người tên Benton hay Henson gì đó. Cô đọc vài trang đầu tiên. Chúng tôi im lặng lắng nghe.

“Nhưng cái đó đâu phải là sách,” ai đó trong bọn tôi lên tiếng. Thế là cô chọn một cuốn khác. Lần này là sách lịch sử, nhưng tôi quên mất tên tác giả. Khi cô đọc tiếp, sự bối rối trong lòng chúng tôi ngày càng lớn. Chẳng có lời nào nghe ra là sự thật, mà văn phong thì thật thảm hại.

“Thơ đi! Đọc thơ đi!” chúng tôi sốt ruột nói. Tôi không thể diễn tả được sự thất vọng lan ra trong chúng tôi khi cô mở một cuốn thơ mỏng và ê a những câu vần vèo rỗng tuếch, ủy mị bên trong đó.

“Chắc là phụ nữ viết rồi,” một người trong chúng tôi lên tiếng. Nhưng không. Cô bảo đó là tác phẩm của một chàng trai trẻ, một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời nay. Bạn cứ tưởng tượng xem cú sốc ấy lớn cỡ nào. Dù chúng tôi ai nấy đều khóc và van xin cô đừng đọc nữa, cô vẫn tiếp tục và đọc cả những trích đoạn từ Cuộc đời các Đại Pháp quan.

Khi cô đọc xong, Jane, người lớn tuổi nhất và sáng suốt nhất trong chúng tôi, đứng dậy và nói rằng ít nhất thì cô cũng chưa bị thuyết phục.

“Tại sao,” cô hỏi, “nếu đàn ông viết ra những thứ rác rưởi như thế này, mẹ chúng ta lại phí cả tuổi thanh xuân để sinh ra họ làm gì?”

Chúng tôi đều im lặng; và trong sự im lặng đó, tội nghiệp Poll vẫn còn nghe thấy rõ tiếng cô thổn thức: “Tại sao, tại sao cha tôi lại dạy tôi biết đọc?”

Clorinda là người đầu tiên lấy lại được bình tĩnh. “Tất cả là lỗi của chúng ta,” cô nói. “Ai trong chúng ta cũng biết đọc. Nhưng không một ai, trừ Poll, chịu khó bỏ công ra mà đọc thật sự. Tôi, thì thú thật, luôn cho rằng nhiệm vụ của phụ nữ là dành tuổi trẻ để sinh con. Tôi từng tôn kính mẹ vì đã sinh mười người con; lại càng khâm phục bà vì đã sinh đến mười lăm người; thú thật, chính tôi cũng từng mơ mình sẽ sinh được hai mươi đứa. Bao nhiêu thế hệ nay, chúng ta vẫn cứ cho rằng đàn ông cũng chăm chỉ chẳng kém gì, và rằng những tác phẩm của họ cũng có giá trị như thế. Trong khi chúng ta sinh ra loài người, thì họ, ta cho là, đã làm nên văn minh. Nhưng giờ chúng ta biết đọc rồi, thì còn gì ngăn ta đánh giá kết quả của họ nữa? Trước khi mang một đứa trẻ nào khác đến thế gian này, chúng ta phải thề là sẽ tìm hiểu xem thế giới này thực sự ra sao.”

Thế là chúng tôi lập nên một hội kín để đặt câu hỏi. Một người trong chúng tôi sẽ đến thăm một chiến hạm; người khác sẽ cải trang để xâm nhập phòng làm việc của một học giả; người nữa sẽ đi họp với các doanh nhân; còn tất cả sẽ cùng đọc sách, xem tranh, đi nghe hòa nhạc, mở to mắt quan sát phố xá, và liên tục đặt câu hỏi. Chúng tôi còn rất trẻ. Bạn sẽ hiểu chúng tôi ngây thơ đến mức nào nếu biết rằng, trước khi chia tay tối hôm ấy, chúng tôi cùng thống nhất rằng mục tiêu của cuộc sống là tạo ra những con người tốt và những cuốn sách hay. Mọi câu hỏi của chúng tôi đều nhằm khám phá xem đàn ông đã đạt được mục tiêu đó đến đâu. Và chúng tôi đã thề một lời long trọng: sẽ không sinh bất kỳ đứa trẻ nào cho đến khi chúng tôi thực sự hài lòng.

Thế là chúng tôi tỏa đi khắp nơi — một số đến Bảo tàng Anh; một số nhập ngũ vào Hải quân Hoàng gia; có người đến Oxford, có người tới Cambridge; chúng tôi ghé thăm Học viện Hoàng gia và phòng tranh Tate; nghe nhạc hiện đại trong các phòng hòa nhạc; vào toà án xem xét xử án; và đi xem các vở kịch mới. Không ai đi ăn tối mà không tranh thủ hỏi bạn cùng bàn một vài câu, và ghi chú cẩn thận lại các câu trả lời. Thi thoảng, chúng tôi họp nhau lại và so sánh ghi chép. Ồ, những buổi họp ấy mới vui nhộn làm sao! Chưa bao giờ tôi cười nhiều như lúc Rose đọc bản ghi chú về “Danh dự” và kể lại việc cô đã cải trang thành một hoàng tử da đen rồi lên một con tàu của Đức vua.

Khi phát hiện ra trò giả mạo, vị thuyền trưởng, lúc này cô đã giả làm một quý ông, tới tìm gặp và yêu cầu phải “rửa sạch nỗi nhục danh dự.”

“Nhưng bằng cách nào?” cô hỏi.

“Bằng cách nào à?” ông ta gầm lên. “Thì bằng gậy, dĩ nhiên rồi!”

Thấy ông ta giận đến mức mất kiểm soát và cho rằng giờ tận số của mình đã điểm, cô cúi xuống, sẵn sàng chịu đòn. Nhưng thật ngạc nhiên, ông ta chỉ gõ nhẹ sáu cái vào mông cô.

“Danh dự của Hải quân Hoàng gia đã được rửa sạch!” ông ta hét lớn. Khi cô đứng thẳng dậy thì thấy ông đang mồ hôi nhễ nhại, chìa tay phải run rẩy ra.

“Tránh ra!” cô thét lên, bắt chước vẻ mặt dữ dằn của ông ta, “Danh dự của tôi vẫn chưa được rửa sạch!”

“Nói như một quý ông đích thực!” ông ta đáp, rồi chìm vào suy nghĩ sâu xa. “Nếu sáu roi rửa được danh dự của Hải quân Hoàng gia,” ông trầm ngâm, “thì bao nhiêu roi sẽ rửa được danh dự của một quý ông thường dân?”

Ông nói rằng ông muốn tham khảo ý kiến các đồng đội. Nhưng cô kiêu hãnh bảo rằng cô không thể chờ. Ông tán thưởng sự nhạy cảm của cô.

“Để xem nào,” ông đột nhiên thốt lên, “cha cô có xe ngựa riêng không?”

“Không,” cô đáp.

“Có ngựa cưỡi không?”

“Chúng tôi có một con lừa,” cô chợt nhớ ra, “kéo máy cắt cỏ.”

Nghe vậy, mặt ông ta rạng rỡ. “Tên mẹ cô là gì?” cô thêm.

“Vì Chúa,” ông ta la lên, “đừng nhắc đến tên mẹ cô!” Ông run lên như lá rung trong gió, đỏ bừng mặt từ gốc tóc, và phải mất đến mười phút cô mới thuyết phục được ông ta tiếp tục.

Cuối cùng, ông tuyên bố rằng nếu cô đánh ông ta bốn roi rưỡi vào phần lưng dưới, đúng chỗ ông chỉ (nửa roi được miễn giảm vì chú của cụ cố cô đã hy sinh trong trận Trafalgar), thì theo ý ông, danh dự của cô sẽ lại nguyên vẹn như mới. Cô làm theo; rồi họ cùng đi ăn ở một nhà hàng, uống hai chai rượu vang mà ông nhất quyết đòi trả tiền, và chia tay nhau với những lời hứa hẹn tình bạn vĩnh cửu.

Rồi đến lượt Fanny kể chuyện cô đến tòa án. Trong lần đầu dự phiên xử, cô kết luận rằng các vị Thẩm phán hoặc là được làm từ gỗ, hoặc là những con thú lớn đội lốt người, được huấn luyện để di chuyển hết sức nghiêm trang, lầm bầm và gật đầu. Để kiểm chứng giả thuyết của mình, cô đã thả một chiếc khăn tay chứa đầy ruồi vào đúng thời điểm then chốt của phiên tòa, nhưng không thể xác định phản ứng của họ vì tiếng vo ve của ruồi đã khiến cô chìm vào một giấc ngủ sâu đến mức chỉ tỉnh dậy khi thấy bị cáo đã bị dẫn xuống phòng giam dưới đất. Nhưng dựa trên bằng chứng cô mang lại, chúng tôi đồng thuận rằng không thể coi Thẩm phán là con người.

Helen thì đến thăm Học viện Hoàng gia. Nhưng khi được yêu cầu trình bày nhận xét về các bức tranh, cô lại bắt đầu đọc từ một quyển sách màu xanh nhạt:

“Ôi, cho tôi một cái chạm từ bàn tay đã khuất và âm vang của một giọng nói không còn nữa. Người đi săn đã trở về nhà, từ ngọn đồi. Anh kéo cương con ngựa. Tình yêu thật ngọt ngào, nhưng cũng thật ngắn ngủi. Mùa xuân, mùa xuân tuyệt đẹp, là vị vua duyên dáng của năm. Ôi, được ở nước Anh lúc tháng Tư tới. Đàn ông phải làm việc và đàn bà phải khóc. Con đường nghĩa vụ là con đường dẫn đến vinh quang.”

Chúng tôi không chịu đựng nổi thêm nữa.

“Chúng tôi không cần thêm thơ ca!” chúng tôi kêu lên.

“Các con gái của nước Anh!” cô bắt đầu, nhưng chúng tôi kéo cô xuống, một bình nước đổ lên người cô trong lúc giằng co.

“Tạ ơn trời!” cô kêu lên, lắc mình như một con chó ướt. “Giờ tôi sẽ lăn trên thảm và thử xem có chà sạch được phần còn lại của cờ Liên hiệp không. Có lẽ lúc đó —” rồi cô bắt đầu lăn rất hăng hái. Đứng dậy, cô chuẩn bị giải thích cho chúng tôi tranh hiện đại thực sự là gì, thì Castalia ngắt lời.

“Bức tranh trung bình có kích thước bao nhiêu?” cô hỏi. “Có lẽ khoảng hai feet nhân hai rưỡi,” cô đáp. Castalia ghi chép lại trong khi Helen nói, và khi cô đã xong, chúng tôi cố tránh nhìn vào mắt nhau, thì Castalia đứng dậy và nói:

“Làm theo đề nghị của các bạn, tuần trước tôi đã đến Oxbridge, cải trang thành người giúp việc. Nhờ đó tôi có thể tiếp cận phòng của vài giáo sư, và giờ tôi sẽ cố gắng cho các bạn hình dung một chút — chỉ có điều,” cô ngừng lại, “tôi không biết phải diễn tả sao. Mọi thứ kỳ lạ quá đỗi. Những vị giáo sư này,” cô tiếp tục, “sống trong các ngôi nhà lớn xây xung quanh những bãi cỏ, mỗi người ở một kiểu phòng giống như xà lim riêng biệt. Nhưng họ có đầy đủ tiện nghi và sự thoải mái. Chỉ cần ấn một cái nút hoặc bật một chiếc đèn nhỏ. Giấy tờ của họ được sắp xếp rất chỉn chu. Sách vở chất đầy. Không có trẻ con hay thú vật, trừ vài con mèo hoang và một con chim sẻ đực đã già. Tôi nhớ lại,” cô ngắt lời mình, “một người dì của tôi sống ở Dulwich và trồng xương rồng. Phải đi qua hai phòng khách mới đến được nhà kính, và ở đó, trên những ống nước nóng, là hàng chục chậu xương rồng — xấu xí, lùn lùn, tua tủa gai, mỗi chậu một cây riêng biệt. Dì tôi bảo rằng một trăm năm cây Lô hội mới nở hoa một lần. Nhưng bà mất trước khi điều đó xảy ra…”
Chúng tôi nhắc cô quay lại chủ đề chính.

“Vâng,” cô tiếp tục, “khi Giáo sư Hobkin đi vắng, tôi đã xem xét công trình cả đời ông — một ấn bản tác phẩm của Sappho. Đó là một quyển sách trông kỳ quặc, dày sáu hoặc bảy inch, nhưng không phải toàn bộ do Sappho viết. Ôi không. Phần lớn sách là để bảo vệ đức hạnh của Sappho, điều mà một học giả người Đức nào đó từng phủ nhận. Tôi có thể đảm bảo với các bạn rằng sự say mê mà hai quý ông này tranh luận, lượng học vấn họ thể hiện, cùng sự tinh tế tuyệt vời khi họ tranh cãi về việc dùng một dụng cụ nào đó — nhìn chẳng khác gì một cái kẹp tóc — làm tôi kinh ngạc. Nhất là khi cửa mở ra và chính Giáo sư Hobkin xuất hiện. Một quý ông lớn tuổi rất hiền hậu và dễ mến, nhưng ông ấy thì biết gì về đức hạnh?”

Chúng tôi hiểu nhầm cô.

“Không, không,” cô phản đối, “ông ấy là hiện thân của danh dự, tôi chắc chắn — không hề giống với thuyền trưởng mà Rose từng kể chút nào. Tôi đang nghĩ về mấy chậu xương rồng của dì tôi kia. Chúng thì biết gì về đức hạnh?”

Chúng tôi lại nhắc cô đừng lạc đề — rằng liệu các giáo sư Oxbridge có giúp tạo ra con người tốt và những cuốn sách hay — những mục tiêu của cuộc sống hay không.

“Đấy!” cô kêu lên. “Tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. Chưa bao giờ tôi cho rằng họ có thể sản xuất ra bất kỳ thứ gì.”

“Tôi tin rằng,” Sue nói, “chắc bạn đã nhầm lẫn gì đó. Có lẽ Giáo sư Hobkin là bác sĩ phụ khoa. Một học giả thì đầy ắp khiếu hài hước và trí tưởng tượng — có thể thích rượu, nhưng có sao đâu — là một người bạn dễ mến, hào phóng, tinh tế, giàu tưởng tượng — điều này là hiển nhiên. Bởi vì cả đời ông ấy sống giữa những con người tuyệt vời nhất từng tồn tại.”

“Hừm,” Castalia nói. “Có lẽ tôi nên quay lại và thử lại lần nữa.”

Khoảng ba tháng sau, tình cờ tôi đang ngồi một mình thì Castalia bước vào. Tôi không biết điều gì ở cô khiến tôi xúc động đến vậy; nhưng tôi không thể kiềm chế được, lao qua phòng và ôm chầm lấy cô. Không chỉ rất xinh đẹp, cô còn có vẻ vô cùng phấn chấn.

“Cậu trông thật hạnh phúc!” tôi thốt lên khi cô ngồi xuống.

“Tớ vừa ở Oxbridge về,” cô nói.

“Để đặt câu hỏi à?”

“Để trả lời,” cô đáp.

“Cậu không vi phạm lời thề chứ?” tôi lo lắng hỏi, nhận thấy dáng cô có gì đó khác lạ.

“Ồ, lời thề ấy hả,” cô nói lơ đãng. “Tớ sắp có em bé, nếu đó là điều cậu định hỏi. Cậu không thể tưởng tượng nổi đâu,” cô bùng nổ, “nó thú vị, đẹp đẽ, mãn nguyện đến mức nào đâu…”

“Cái gì cơ?” tôi hỏi.

“Trả lời câu hỏi,” cô đáp, có chút bối rối. Thế rồi cô kể cho tôi toàn bộ câu chuyện. Nhưng ngay giữa đoạn đang khiến tôi hứng thú và phấn khích hơn bất kỳ điều gì từng nghe, cô đột ngột hét lên kỳ lạ, nửa như hú lên, nửa như reo:

“Đức hạnh! Đức hạnh của tôi đâu rồi!” cô gào. “Giúp tôi với! Ơi, lọ nước hoa!”

Trong phòng chẳng có gì ngoài lọ giấm mù tạt, tôi định dùng nó thì cô đã trấn tĩnh lại.

“Lẽ ra cậu nên nghĩ đến điều đó ba tháng trước,” tôi nghiêm khắc nói.

“Đúng,” cô đáp. “Giờ nghĩ cũng chẳng ích gì. Tiện thể, thật đáng tiếc là mẹ mình đặt tên mình là Castalia.”

“Ồ, Castalia, mẹ cậu…” tôi định nói thì cô với tay lấy lọ mù tạt.

“Không, không, không,” cô lắc đầu. “Nếu cậu là một người phụ nữ đoan chính, thì đã hét lên khi thấy tớ — thay vào đó, cậu lại lao tới và ôm tớ. Không đâu, Cassandra. Cả hai chúng ta đều chẳng đoan chính.” Thế là chúng tôi cứ tiếp tục trò chuyện.

Trong lúc đó, căn phòng dần đông người, vì hôm đó là ngày hẹn để thảo luận kết quả những quan sát của chúng tôi. Tôi nghĩ ai cũng có cảm giác như tôi đối với Castalia. Họ hôn cô và nói họ vui mừng thế nào khi gặp lại cô. Cuối cùng, khi mọi người đã đông đủ, Jane đứng lên và nói rằng đã đến lúc bắt đầu. Cô bắt đầu bằng cách nói rằng chúng tôi đã đặt câu hỏi suốt hơn năm năm qua, và kết quả, dĩ nhiên, sẽ khó mà dứt khoát — tại đây, Castalia huých tôi và thì thầm rằng cô không chắc về điều đó lắm.

Rồi cô đứng dậy, cắt ngang Jane khi cô đang nói dở câu, và tuyên bố:

“Trước khi các bạn nói thêm gì, tôi muốn biết — tôi có nên ở lại trong phòng không? Bởi vì,” cô thêm, “tôi phải thú nhận rằng mình là một người phụ nữ không còn trong trắng.”

Mọi người đều nhìn cô với vẻ kinh ngạc.

“Cậu sắp có em bé à?” Jane hỏi.

Cô gật đầu.

Thật lạ lùng khi thấy những biểu cảm khác nhau hiện ra trên từng khuôn mặt. Cả căn phòng rì rầm lên, trong đó tôi nghe loáng thoáng những từ như “không trong sạch”, “em bé”, “Castalia”, v.v… Jane, cũng khá xúc động, đưa vấn đề ra thảo luận:

“Cô ấy có nên rời khỏi phòng không? Cô ấy là người không trong sạch ư?”

Một tiếng la vang dội vang lên trong căn phòng, chắc chắn có thể nghe thấy từ ngoài phố.

“Không! Không! Không! Để cô ấy ở lại! Không trong sạch ư? Vớ vẩn!”

Tuy nhiên, tôi thấy một vài cô gái trẻ nhất, khoảng mười chín hay hai mươi tuổi, vẫn lùi lại, như thể bị bao trùm bởi sự ngại ngùng. Rồi tất cả chúng tôi vây quanh Castalia và bắt đầu đặt câu hỏi, và cuối cùng, một trong những cô gái trẻ vốn nãy giờ đứng phía sau, tiến lại gần và rụt rè hỏi:

“Vậy thì sự trinh tiết là gì? Ý tôi là, nó tốt, hay xấu, hay hoàn toàn chẳng có gì cả?”

Castalia trả lời rất nhỏ khiến tôi không nghe rõ được cô nói gì.

“Cậu biết không, mình đã rất sốc,” một người khác nói, “ít nhất là trong mười phút.”

“Với tôi,” Poll nói, người đang ngày càng cộc cằn vì đọc quá nhiều trong Thư viện London, “trinh tiết chỉ là sự ngu dốt — một trạng thái tinh thần vô cùng đáng chê trách. Chúng ta nên chỉ chấp nhận những người không còn trinh tiết vào hội của mình. Tôi đề cử Castalia làm Chủ tịch của chúng ta.”

Ý kiến này bị phản đối kịch liệt.

“Thật không công bằng khi gán nhãn cho phụ nữ là còn hay mất trinh tiết,” Poll nói. “Một số người trong chúng ta thậm chí còn không có cơ hội. Hơn nữa, tôi cũng không tin rằng Cassy cho rằng cô ấy hành động như vậy chỉ vì lòng khao khát tri thức thuần túy.”

“Anh ấy mới hai mốt tuổi và đẹp như thần thánh,” Cassy nói, kèm theo một cử chỉ mê hoặc.

“Tôi đề nghị,” Helen lên tiếng, “rằng không ai được phép bàn về trinh tiết hay sự mất trinh nếu chưa từng yêu.”

“Thôi đi,” Judith nói, người đã nghiên cứu về các vấn đề khoa học, “tôi chẳng đang yêu ai cả, nhưng tôi rất muốn trình bày các biện pháp của mình nhằm bãi bỏ gái mại dâm và thụ tinh cho các trinh nữ bằng một đạo luật của Quốc hội.”

Rồi cô ấy bắt đầu kể về một phát minh của mình sẽ được lắp đặt ở các ga tàu điện ngầm và những nơi công cộng khác, cho phép bảo vệ sức khỏe quốc dân, đáp ứng nhu cầu của nam giới, và giúp đỡ phụ nữ. Sau đó, cô mô tả một phương pháp cô đã nghĩ ra để bảo quản trong các ống kín các mầm giống của các vị Thẩm phán Tối cao tương lai — “hoặc các nhà thơ, họa sĩ hay nhạc sĩ,” cô tiếp tục, “nếu, tức là, các dòng giống đó chưa tuyệt chủng, và nếu phụ nữ vẫn còn muốn sinh con.”

“Tất nhiên là chúng tôi muốn sinh con!” Castalia sốt ruột la lên.

Jane gõ tay xuống bàn.

“Đó chính là điều chúng ta tụ họp ở đây để thảo luận,” cô nói. “Trong suốt năm năm qua, chúng ta đã cố gắng tìm hiểu xem liệu chúng ta có nên tiếp tục duy trì giống loài con người hay không. Castalia đã hành động trước khi có quyết định của chúng ta. Nhưng phần còn lại, chúng ta vẫn phải tự mình suy xét.”

Lúc đó, từng người đưa tin trong hội bắt đầu đứng lên báo cáo kết quả quan sát của mình. Những kỳ công của nền văn minh vượt quá sự mong đợi của chúng tôi, và khi chúng tôi lần đầu tiên biết rằng con người có thể bay trong không trung, trò chuyện qua khoảng cách không gian, xâm nhập đến trái tim của nguyên tử, và ôm trọn vũ trụ trong những suy tưởng của họ, một tiếng thán phục trào lên từ môi chúng tôi.

“Chúng ta tự hào,” chúng tôi đồng thanh, “rằng những người mẹ của mình đã hy sinh tuổi trẻ vì một lý tưởng như vậy!” Castalia, người đã lắng nghe rất chăm chú, trông còn tự hào hơn tất cả chúng tôi.

Rồi Jane nhắc nhở rằng chúng tôi vẫn còn nhiều điều cần học hỏi, và Castalia thì giục chúng tôi đẩy nhanh tiến độ.

Thế là chúng tôi tiếp tục đi xuyên qua một mê cung khổng lồ của các con số thống kê. Chúng tôi biết được rằng nước Anh có dân số bao nhiêu triệu, rằng một tỷ lệ bao nhiêu phần trăm trong số đó luôn đói khát hoặc ở tù; rằng kích cỡ trung bình của gia đình công nhân là bao nhiêu, và rằng một tỷ lệ lớn phụ nữ chết vì các căn bệnh liên quan đến việc sinh nở. Các bản báo cáo được đọc lên từ những chuyến thăm nhà máy, cửa hàng, khu ổ chuột và bến tàu. Các bản mô tả về Sở giao dịch chứng khoán, một tập đoàn kinh doanh khổng lồ ở thành phố, và một cơ quan chính phủ cũng được trình bày. Chủ đề về các thuộc địa của Anh được đưa ra, và có người đã trình bày về cách chúng ta cai trị ở Ấn Độ, châu Phi và Ireland. Tôi đang ngồi cạnh Castalia và để ý thấy sự bồn chồn của cô ấy.

“Chúng ta sẽ chẳng bao giờ đi đến kết luận gì với cách này,” cô nói. “Vì dường như nền văn minh còn phức tạp hơn nhiều so với những gì ta tưởng tượng, liệu có tốt hơn không nếu ta quay lại với câu hỏi ban đầu? Chúng ta đã đồng ý rằng mục đích của cuộc sống là tạo ra những con người tốt và những cuốn sách hay. Thế mà suốt thời gian qua chúng ta lại nói về máy bay, nhà máy và tiền bạc. Hãy nói về con người và nghệ thuật của họ, vì đó mới là cốt lõi của vấn đề.”

Vậy là những người từng đi ăn tối với các nhân vật quan trọng bước lên với những tờ giấy dài, trên đó ghi lại các câu trả lời đã thu thập được sau rất nhiều cân nhắc.

Chúng tôi đã đồng thuận rằng một người tốt, ít nhất, phải trung thực, say mê và không màng danh lợi. Nhưng liệu một người cụ thể có những phẩm chất đó hay không thì chỉ có thể phát hiện ra bằng cách đặt những câu hỏi — thường là từ những điểm rất xa trung tâm.

“Kensington có phải là nơi dễ sống không?”

“Con trai ông đang học ở đâu — còn con gái thì sao?”

“À, xin cho biết, ông trả bao nhiêu cho mỗi điếu xì gà?”

“Tiện thể, ngài Joseph là nam tước hay chỉ là hiệp sĩ thôi vậy?”

Nhiều khi chúng tôi nhận được thông tin hữu ích hơn từ những câu hỏi tầm thường như vậy so với những câu hỏi trực diện hơn.

“Tôi chấp nhận tước hiệu quý tộc,” ngài Bunkum nói, “vì vợ tôi muốn thế.” Tôi quên mất bao nhiêu người cũng chấp nhận tước hiệu vì lý do tương tự.

“Làm việc mười lăm giờ mỗi ngày, như tôi đây…” — mười nghìn người đàn ông chuyên nghiệp bắt đầu như vậy.

“Không, không, tất nhiên là ông chẳng có thời gian đọc hay viết rồi. Nhưng tại sao ông lại làm việc vất vả đến thế?”

“Thưa cô, bởi vì tôi có một gia đình ngày càng đông.”

“Nhưng sao gia đình ông lại đông thêm?”

Vì vợ họ muốn thế — hoặc có thể là vì Đế quốc Anh.

Nhưng điều đáng chú ý hơn cả câu trả lời là những lần họ từ chối trả lời. Rất ít người chịu trả lời câu hỏi về đạo đức hay tôn giáo, và nếu có trả lời thì cũng không nghiêm túc. Những câu hỏi về giá trị của tiền bạc và quyền lực gần như luôn bị gạt đi, hoặc nếu hỏi dồn thì người hỏi gặp phải nguy hiểm lớn.

“Tôi tin chắc,” Jill nói, “rằng nếu ngài Harley Tightboots không đang cắt thịt cừu lúc tôi hỏi ông ấy về hệ thống tư bản, thì chắc ông đã rạch cổ tôi rồi. Lý do duy nhất khiến chúng tôi thoát nạn hết lần này đến lần khác là vì đàn ông vừa đói bụng, vừa hào hiệp. Họ khinh thường chúng tôi đến mức chẳng thèm bận tâm đến điều chúng tôi nói.”

“Đương nhiên là họ khinh thường chúng ta,” Eleanor nói. “Nhưng đồng thời, làm sao các chị lý giải được điều này — tôi đã điều tra giới nghệ sĩ. Bây giờ, chưa từng có người phụ nữ nào là nghệ sĩ, đúng không, Poll?”

“Jane Austen – Charlotte Brontë – George Eliot,” Poll hét lên như một người đàn ông rao bánh nướng trong hẻm phố.


“Đồ đàn bà chết tiệt!” ai đó kêu lên. “Thật là phiền phức!”

“Từ thời Sappho đến nay chưa có người phụ nữ nào ở tầm cỡ nhất hạng cả,” Eleanor bắt đầu, trích lời từ một tờ báo hàng tuần.

“Giờ thì ai cũng biết Sappho chỉ là phát minh hơi dâm dục của Giáo sư Hobkin thôi,” Ruth xen vào.

“Dù sao thì cũng chẳng có lý do gì để cho rằng phụ nữ từng có thể viết văn hay sẽ có thể viết văn cả,” Eleanor tiếp tục. “Ấy vậy mà mỗi lần tôi đến gặp các tác giả, họ không ngừng nói với tôi về sách của họ. ‘Tuyệt tác!’” tôi nói, hay là ‘Shakespeare cũng phải chào thua!’ (bởi mình cũng phải nói cái gì đó), và tôi cam đoan với các chị là họ tin tôi thật.”

“Thế cũng chẳng chứng minh được gì,” Jane nói. “Tất cả bọn họ đều thế. Chỉ là,” cô thở dài, “điều đó dường như chẳng giúp gì cho ta cả. Có lẽ ta nên xem xét văn học hiện đại kế tiếp. Liz, tới lượt chị đấy.”

Elizabeth đứng dậy và nói rằng để thực hiện cuộc điều tra, cô đã cải trang làm đàn ông và được nhận nhầm là một nhà phê bình văn học.

“Tôi đã đọc sách mới đều đặn suốt năm năm qua,” cô nói. “Ông Wells là nhà văn nổi tiếng nhất hiện nay; kế đến là ông Arnold Bennett; rồi ông Compton Mackenzie; ông McKenna và ông Walpole có thể xếp cùng hạng.” Rồi cô ngồi xuống.

“Nhưng chị chưa nói gì với bọn tôi cả!” chúng tôi phản đối. “Hay là chị muốn nói rằng mấy quý ông ấy đã vượt xa Jane-Eliot và rằng văn học Anh thì — đâu rồi, bài phê bình của chị ấy nhỉ? — ồ đúng rồi, ‘đang trong tay an toàn ?”

“An toàn, rất an toàn,” cô nói, bồn chồn xoay qua xoay lại. “Và tôi chắc rằng họ cho đi còn nhiều hơn cả những gì họ nhận được.”

Chúng tôi đều chắc chắn như thế. “Nhưng,” chúng tôi thúc ép cô, “họ có viết ra sách hay không?”

“Sách hay à?” cô nói, nhìn lên trần nhà. “Chị phải nhớ rằng,” cô bắt đầu, nói rất nhanh, “rằng tiểu thuyết là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Và chị không thể phủ nhận rằng giáo dục là điều cực kỳ quan trọng, và sẽ thật phiền toái nếu một ngày chị thấy mình cô đơn ở Brighton vào đêm muộn, mà không biết nhà trọ nào tốt nhất để nghỉ lại, và giả sử hôm đó là một tối Chủ nhật mưa dầm — chẳng phải sẽ rất tuyệt nếu có thể đi xem phim sao?”

“Nhưng điều đó liên quan gì tới vấn đề?” chúng tôi hỏi.

“Chẳng liên quan gì cả — không gì cả,” cô đáp.

“Vậy thì hãy nói thật với bọn tôi đi,” chúng tôi bảo.

“Sự thật à? Nhưng chẳng phải thật tuyệt sao,” cô ngắt lời, “ông Chitter đã viết một bài báo hàng tuần suốt ba mươi năm qua về tình yêu hay bánh mì nướng bơ nóng và đã cho tất cả con trai học ở Eton.”

“Sự thật!” chúng tôi yêu cầu.

“Ồ, sự thật,” cô lắp bắp, “sự thật chẳng liên quan gì đến văn học cả,” và cô ngồi xuống, không chịu nói thêm một lời nào nữa.

Mọi chuyện đối với chúng tôi thật quá mơ hồ, không có kết luận gì rõ ràng cả. “Các chị em, ta phải cố gắng tổng kết kết quả lại,” Jane đang bắt đầu thì một tiếng ồn - đã vang vọng trong phòng từ cửa sổ đang mở - lấn át tiếng cô.

“Chiến tranh! Chiến tranh! Tuyên chiến!” tiếng đàn ông hô vang trên đường phố bên dưới.

Chúng tôi nhìn nhau đầy kinh hoàng.

“Chiến tranh gì vậy?” chúng tôi kêu lên. “Chiến tranh nào?” Lúc đó chúng tôi mới sực nhớ là đã không cử ai đến Hạ viện. Chúng tôi đã hoàn toàn quên khuấy đi mất. Chúng tôi quay sang Poll, người đã đọc đến phần lịch sử trong Thư viện London, và hỏi cô ấy cho chúng tôi biết.

“Tại sao,” chúng tôi hỏi, “đàn ông lại gây chiến?”

“Đôi khi vì lý do này, đôi khi vì lý do khác,” cô trả lời bình thản. “Năm 1760 chẳng hạn.” Tiếng hò hét ngoài đường làm lu mờ lời cô. “Rồi đến năm 1797 - năm 1804—Năm 1866 là người Áo -1870 là chiến tranh Pháp-Phổ. Còn năm 1900 thì -”

“Nhưng bây giờ là năm 1914!” chúng tôi ngắt lời cô.

“À, tôi không biết bây giờ họ gây chiến vì cái gì nữa,” cô thú nhận.

Chiến tranh đã kết thúc và hòa ước đang được ký kết, thì tôi lại một lần nữa thấy mình ngồi với Castalia trong căn phòng nơi chúng tôi từng tổ chức các buổi họp. Chúng tôi bắt đầu lật giở những trang biên bản cũ một cách lơ đãng.

“Thật kỳ lạ,” tôi trầm ngâm, “khi thấy chúng ta đã nghĩ gì cách đây năm năm.”

“Chúng ta đã đồng ý,” Castalia đọc to khi nhìn qua vai tôi, “rằng mục đích của đời sống là tạo ra những con người tốt và những cuốn sách hay.”

Chúng tôi không bình luận gì về điều đó.

“Một người tốt, chí ít thì, phải là người trung thực, đầy đam mê và không màng danh lợi.”

“Ngôn ngữ của phụ nữ thật!” tôi nhận xét.

“Ôi trời ơi,” Castalia kêu lên, đẩy cuốn sổ khỏi mình, “chúng ta thật là ngốc nghếch! Mọi lỗi là do cha của Poll,” cô tiếp tục. “Tôi tin ông ta cố tình làm thế - ý tôi là cái di chúc lố bịch đó, bắt buộc Poll phải đọc hết mọi cuốn sách trong Thư viện London. Nếu chúng ta không học đọc,” cô nói đầy cay đắng, “chúng ta có lẽ vẫn còn sinh con trong vô tri, và tôi tin rằng đó mới là cuộc sống hạnh phúc nhất. Tôi biết chị sắp nói gì về chiến tranh,” cô ngăn tôi lại, “và nỗi kinh hoàng khi sinh con rồi phải thấy chúng bị giết, nhưng các bà mẹ của chúng ta đã làm điều đó, và mẹ của họ, và cả mẹ của họ nữa. Và họ không hề phàn nàn. Họ không biết đọc. Tôi đã cố hết sức,” cô thở dài, “để ngăn con gái tôi học đọc, nhưng có ích gì đâu? Chỉ hôm qua tôi bắt gặp bé Ann cầm một tờ báo trên tay và bắt đầu hỏi tôi rằng có ‘đúng’ không. Kế đến, nó sẽ hỏi liệu ông Lloyd George có phải là người tốt không, rồi liệu ông Arnold Bennett có phải là nhà tiểu thuyết giỏi không, và cuối cùng là liệu tôi có tin vào Chúa không. Làm sao tôi có thể dạy con mình tin vào hư vô đây?” cô gay gắt hỏi.

“Chắc chị vẫn có thể dạy nó tin rằng trí tuệ của đàn ông là, và luôn luôn sẽ là, vượt trội hơn trí tuệ của phụ nữ chứ?” tôi gợi ý.

Cô sáng lên khi nghe vậy và bắt đầu lật lại những biên bản cũ của chúng tôi. “Đúng rồi,” cô nói, “hãy nghĩ đến những phát minh của họ, toán học, khoa học, triết học, học thuật của họ” , rồi cô bật cười. “Tôi sẽ không bao giờ quên ông Hobkin và cái kẹp tóc,” cô nói, tiếp tục đọc và cười, và tôi nghĩ cô đang thật sự vui vẻ, thì bất ngờ cô kéo cuốn sổ lại và bật lên:

“Ôi Cassandra, sao chị lại dày vò tôi thế? Chị chẳng biết rằng niềm tin của chúng ta vào trí tuệ đàn ông là sai lầm lớn nhất sao?”

“Cái gì cơ?” tôi kêu lên. “Cứ hỏi bất cứ nhà báo, giáo viên, chính trị gia hay chủ quán rượu nào trong nước, và họ sẽ nói rằng đàn ông thông minh hơn phụ nữ nhiều.”

“Như thể tôi nghi ngờ điều đó vậy,” cô nói khinh khỉnh. “Sao họ lại không thông minh hơn được? Chẳng phải chúng ta đã sinh ra họ, nuôi dưỡng họ, cho họ sống trong tiện nghi từ thuở hồng hoang, để họ có thể trở nên thông minh, dù họ chẳng có gì khác ngoài điều đó sao? Tất cả là do chúng ta!” cô kêu lên. “Chúng ta cứ khăng khăng đòi có trí tuệ, và giờ thì ta có nó. Và chính trí tuệ,” cô tiếp tục, “là nguyên nhân của tất cả. Có gì đáng yêu hơn một cậu bé trước khi nó bắt đầu rèn luyện trí tuệ? Nó đẹp khi nhìn vào; nó không lên mặt; nó hiểu nghệ thuật và văn chương một cách tự nhiên; nó sống vui vẻ và làm người khác cũng vui theo. Rồi người ta dạy nó rèn luyện trí tuệ. Nó trở thành luật sư, công chức, tướng lĩnh, tác giả, giáo sư. Ngày nào nó cũng đến văn phòng. Năm nào nó cũng viết ra một cuốn sách. Nó nuôi sống cả gia đình bằng sản phẩm của trí óc mình—thật tội nghiệp! Chẳng bao lâu nó bước vào phòng là khiến tất cả chúng ta thấy khó chịu; nó hạ mình trước mọi phụ nữ nó gặp, và không dám nói thật lòng ngay cả với vợ mình; thay vì làm ta vui mắt thì ta phải nhắm mắt lại mới ôm nổi nó vào lòng. Đúng là họ có thể an ủi bản thân bằng sao vàng sao bạc, huân chương lòe loẹt đủ kiểu và lương bổng đủ loại—nhưng còn chúng ta thì ai an ủi? Rằng mười năm nữa ta có thể đi nghỉ cuối tuần ở Lahore? Hay rằng con côn trùng nhỏ nhất ở Nhật có cái tên dài gấp đôi thân thể nó? Ôi Cassandra, vì Chúa, hãy nghĩ ra cách nào đó để đàn ông có thể sinh con đi! Đó là cơ hội duy nhất của chúng ta. Vì nếu chúng ta không cung cấp cho họ một công việc vô hại nào đó, chúng ta sẽ chẳng có người tốt cũng chẳng có sách hay; chúng ta sẽ bị chôn vùi dưới đống sản phẩm do trí tuệ không kiểm soát của họ; và sẽ chẳng còn một sinh linh nào sống sót để biết rằng từng có một người tên là Shakespeare!”

“Quá muộn rồi,” tôi đáp. “Chúng ta còn chẳng nuôi nổi những đứa trẻ mình đã có.”

“Rồi chị còn bảo tôi tin vào trí tuệ nữa sao,” cô nói.

Khi chúng tôi đang nói chuyện, đàn ông ngoài phố đang gào thét khản cổ và mệt mỏi, và chúng tôi lắng nghe thì biết rằng Hòa ước vừa được ký xong. Những tiếng la lắng dịu xuống. Trời đang mưa và có lẽ đã làm trễ pháo hoa bắn mừng.

“Bà nấu bếp của tôi chắc đã mua tờ Evening News,” Castalia nói, “và bé Ann chắc sẽ đánh vần từng chữ khi ăn bánh uống trà. Tôi phải về thôi.”

“Vô ích rồi, vô ích hoàn toàn,” tôi nói. “Một khi nó đã biết đọc, thì chỉ còn một điều mà chị có thể dạy nó tin—đó là chính bản thân nó.”

“Chà, vậy cũng là một thay đổi,” Castalia thở dài.

Thế là chúng tôi thu dọn giấy tờ của Hội, và dù bé Ann đang chơi với búp bê một cách rất vui vẻ, chúng tôi trang trọng trao lại cho nó tất cả giấy tờ và nói rằng chúng tôi đã chọn nó làm Chủ tịch Hội trong tương lai — nghe vậy, con bé òa khóc, tội nghiệp thay.



THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 7 / 2025

Nguồn 


https://americanliterature.com/author/virginia-woolf/short-story/a-society/

Aucun commentaire: