samedi 20 septembre 2025

Khu vườn thiên đàng

 


KHU VƯỜN THIÊN ĐÀNG

Hans Christian Andersen

( 1805 - 1875 ) 


Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời ( năm Andersen 11 tuổi ), cậu bé đã được thoả thích đọc những quyển sách cha để lại.

Cũng nhờ vậy mà trí thông minh và óc tưởng tượng tuyệt vời được biểu lộ ở Andersen từ khá sớm. Ông ham mê đọc những tác phẩm văn học, đặc biệt là các vở kịch của William Shakespeare.

Sau khi cha qua đời, Andersen phải làm đủ nghề để kiếm sống, có thời gian làm diễn viên trong Nhà hát Hoàng gia Đan Mạch. Bị vỡ giọng, ông chọn nghề viết văn để gắn bó suốt đời. Dù ông viết nhiều thể loại như kịch, tiểu thuyết, thi ca, ông được biết nhiều nhất qua các câu chuyện cổ tích dành cho thiếu nhi. Truyện cổ Andersen đã được dịch sang 125 ngôn ngữ, thể hiện những bài học đạo đức và sự bền bỉ kiên cường trước nghịch cảnh. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến người đọc, trẻ em và cả người lớn. Một số câu chuyện nổi tiếng nhất là : “ Bộ quần áo mới của hoàng đế “, “ Nàng tiên cá “, “ Bà cháu tuyết “, “ Con vịt xấu xí “...


Nhìn chung, bút pháp của Andersen rất mới mẻ, khác với cách viết truyện cổ tích thông thường. Có truyện kết thúc kiểu có hậu, thể hiện niềm tin vào những điều tốt lành, đẹp đẽ, nhưng cũng có truyện khép lại với nỗi buồn sâu thẳm của những ước mơ không thành hiện thực. Dù ở trường hợp nào, ông cũng bày tỏ sự thông cảm sâu sắc đầy thương cảm cho những số phận không may, bởi chính ông cũng đã trải qua một tuổi thơ nhọc nhằn. 

Hans Christian Andersen  không chỉ được biết đến như “ông hoàng truyện cổ tích” mà còn là một nhà văn giàu triết lý. Nhiều truyện của ông, đằng sau vẻ lung linh huyền ảo, ẩn chứa những suy tư sâu xa về thân phận con người, tội lỗi, và khát vọng siêu thoát. Khu Vườn Địa Đàng là một trong những truyện như thế: một câu chuyện vừa mang màu sắc tôn giáo, vừa gợi ra những ám ảnh triết học về sự sa ngã, cám dỗ và khả năng cứu rỗi.

Andersen tái hiện Vườn Địa Đàng như một không gian tuyệt mỹ: hoa nở, cây cối lạ lùng, chim muông hiền hòa, dòng sông trong suốt, tất cả đều chan chứa ánh sáng và âm nhạc. Đó không chỉ là một “thiên đường” tưởng tượng mà còn là biểu tượng cho khát vọng bất tử, hạnh phúc tuyệt đối và sự trong sạch nguyên sơ.

Tuy nhiên, Vườn ấy không phải là nơi dành cho tất cả. Để ở lại, con người phải chiến thắng cám dỗ và chứng minh sức mạnh của ý chí. Như vậy, Andersen nhấn mạnh: hạnh phúc đích thực không tự nhiên mà có, mà là kết quả của sự kiên định trước những thử thách.

Nhân vật Hoàng tử mang trong mình hình ảnh của mỗi con người: khao khát được bước vào Thiên đường, nhưng đồng thời yếu đuối trước những lời gọi mời của đam mê.

Ngay trong đêm đầu tiên, chàng đã thất bại. Chỉ một nụ cười, một lời thì thầm “Hãy đến với ta” từ Nàng Tiên cũng đủ khiến chàng quên đi lời hứa, quên cả số phận của chính mình. Đây là bi kịch muôn đời của nhân loại: biết rằng không nên, nhưng vẫn làm; biết rằng sẽ mất tất cả, nhưng vẫn lao theo tiếng gọi của dục vọng.

Andersen gợi lại hình ảnh A-đam trong Kinh Thánh – người đã ăn trái cấm và đánh mất Thiên đường. Hoàng tử cũng vậy: cái hôn của chàng trở thành dấu ấn không thể xóa của tội lỗi.

Nàng Tiên không phải kẻ ác, nhưng chính sự đẹp đẽ và dịu dàng của nàng lại là thử thách lớn nhất. Mỗi buổi chiều, nàng đều mời gọi: “Hãy đến với ta”.

Nàng chính là ẩn dụ của cám dỗ: nó không hề gớm ghiếc hay đáng sợ, mà trái lại, rực rỡ, lộng lẫy, ngọt ngào, khiến con người khó lòng khước từ. Đây là sự sắc bén trong nghệ thuật của Andersen: ông không miêu tả cám dỗ như một thế lực ma quái, mà như vẻ đẹp quyến rũ của cuộc đời, khiến con người tự nguyện sa vào. Khi Hoàng tử hôn Nàng Tiên, Vườn Địa Đàng sụp đổ, chỉ còn lại xa xôi như một ngôi sao. Hình ảnh ấy mang tính biểu tượng mạnh mẽ: hạnh phúc đã mất đi, chỉ còn tồn tại như một ảo ảnh xa vời.

Hoàng tử tỉnh dậy trong mưa gió, run rẩy và tuyệt vọng. Chàng nhận ra: chỉ một giây phút yếu đuối có thể làm mất đi vĩnh viễn những gì quý giá nhất.

Sự xuất hiện của Tử Thần ở cuối truyện càng làm nổi bật tính bi kịch. Tử Thần không giết chàng ngay, mà cho chàng thời gian để chuộc lỗi – một “án treo” mang tính tôn giáo. Điều này phản ánh tư tưởng Kitô giáo về cứu rỗi: con người có thể sa ngã, nhưng luôn còn cơ hội để trở nên trong sạch hơn.

Truyện đặt ra nhiều câu hỏi triết học:

Con người có đủ sức mạnh để chống lại cám dỗ không?

Hạnh phúc vĩnh cửu có thể tồn tại trên trần gian hay chỉ ở thế giới bên kia?
Liệu tội lỗi có thể được chuộc bằng thời gian và sự hối cải?
Andersen không đưa ra lời giải đáp dứt khoát. Ông để Hoàng tử bước vào một hành trình dài: chuộc tội, chịu thử thách, và chờ ngày phán xét cuối cùng. Đó chính là hành trình của mỗi kiếp người – vừa yếu đuối, vừa hy vọng.

Khu Vườn Địa Đàng không chỉ là một truyện cổ tích kỳ ảo, mà còn là ẩn dụ tôn giáo – triết học về tội lỗi và sự cứu rỗi. Andersen khắc họa một thiên đường rực rỡ, nhưng cũng cho thấy rằng để giữ được nó, con người cần có sức mạnh vượt lên chính mình.

Truyện nhắc nhở chúng ta rằng: cám dỗ luôn ẩn mình trong những gì đẹp đẽ nhất, và chỉ bằng sự kiên định, ta mới có thể giữ được hạnh phúc lâu dài. Đồng thời, Andersen cũng để lại niềm hy vọng: dù đã sa ngã, con người vẫn có cơ hội chuộc lỗi, để một ngày nào đó được nhìn thấy Vườn Địa Đàng nở hoa trên trời cao.


* * * 


Ngày xưa có một hoàng tử; chẳng ai có nhiều sách hay và đẹp bằng chàng. Trong sách, chàng có thể đọc về mọi điều đã từng xảy ra trên thế gian này, và nhìn thấy tất cả qua những bức tranh tuyệt mỹ. Chàng có thể biết về mọi dân tộc, mọi xứ sở; nhưng chàng lại chẳng tìm thấy một lời nào nói về nơi tọa lạc của Khu vườn Thiên Đàng, và chính điều ấy lại là điều chàng băn khoăn nhất.

Bà nội của chàng từng kể, khi chàng còn là một cậu bé nhỏ xíu chuẩn bị đi học, rằng trong Khu vườn Thiên Đàng, mỗi bông hoa đều là một chiếc bánh ngọt tuyệt diệu, và nhị hoa thì đầy rượu vang. Trong một bông hoa có ghi lịch sử, trong bông khác lại là địa lý hay bảng tính; chỉ cần ăn chiếc bánh là chàng biết ngay bài học. Càng ăn nhiều, càng thuộc nhiều lịch sử, địa lý và bảng tính. Khi ấy chàng tin tất cả; nhưng càng lớn, càng khôn ngoan và học hỏi nhiều hơn, chàng nhận ra rằng sự diệu kỳ của Khu vườn Thiên Đàng ắt phải vượt xa tất cả những điều ấy.

“Ôi, tại sao Eva lại hái trái cây tri thức? Tại sao Adam lại ăn trái cấm? Giá như ta ở đó thì hẳn đã chẳng xảy ra! Tội lỗi sẽ chẳng bao giờ vào thế gian này!” Đó là lời chàng từng nói, và đến năm mười bảy tuổi, chàng vẫn còn nhắc đi nhắc lại như thế; tâm trí chàng đầy ắp hình ảnh Khu vườn Thiên Đàng.

Một hôm, chàng đi dạo trong rừng; chàng đi một mình, vì đó là thú vui lớn nhất của chàng. Trời về chiều, mây kéo đến, rồi mưa tuôn xuống như thể cả bầu trời biến thành một cánh cửa khổng lồ cho nước đổ ào ạt; tối tăm chẳng khác gì đáy một cái giếng sâu. Chàng trượt ngã trên cỏ ướt, rồi ngã nhào lên những tảng đá lởm chởm. Tất cả đều sũng nước, cuối cùng chàng chẳng còn mảnh vải nào khô trên người. Chàng phải leo qua những khối đá lớn, nơi rêu dày rỉ nước. Chàng gần như ngã quỵ; đúng lúc ấy, chàng nghe thấy một tiếng rì rầm lạ lùng, và phía trước hiện ra một hang động sáng rực.

Trong hang, một đống lửa lớn đang cháy, đủ để nướng một con hươu, mà thật vậy, một con hươu tuyệt đẹp với bộ gạc to đang bị xiên trên chiếc xiên sắt, chầm chậm quay giữa hai gốc cây linh sam đã đẽo. Một người đàn bà khá lớn tuổi, cao to đến mức trông chẳng khác gì một người đàn ông cải trang, ngồi bên đống lửa, thỉnh thoảng lại ném thêm khúc gỗ vào.

“Xin mời vào! Ngồi bên lửa mà hong khô quần áo!”, bà nói.

“Ở đây gió lùa kinh khủng thật,” hoàng tử vừa ngồi xuống đất vừa nói.

“Đợi các con trai ta về, gió còn tệ hơn nữa!” người đàn bà đáp. “Ngươi đang ở trong hang gió đấy; con trai ta chính là bốn ngọn gió của thế gian! Ngươi hiểu chứ?”

“Con trai của bà là ai vậy?” hoàng tử hỏi.

“Khó mà trả lời khi câu hỏi lại vụng về như thế,” bà nói. – “Các con ta làm gì thì làm; bây giờ chắc đang chơi đánh bóng với mây ở đại sảnh trên kia,” và bà chỉ lên bầu trời.

“Ồ, ra thế!” hoàng tử thốt lên. “Bà nói có vẻ gắt gỏng quá, khác hẳn những người phụ nữ mà ta thường gặp!”

“Ha, chắc họ chẳng có việc gì làm! Còn ta thì phải nghiêm khắc mới giữ được bọn chúng trong khuôn phép! Nhưng ta làm được, dù chúng có bướng bỉnh đến đâu! Ngươi thấy bốn cái bao treo trên tường kia không? Chúng sợ chúng còn hơn ngươi từng sợ cây roi giấu sau gương. Ta có thể bắt chúng gập đôi người lại, nhét thẳng vào bao; chẳng cần khách sáo, rồi cứ ở yên đó đến khi ta cho ra. Nhưng kìa, một đứa đang về!” Đó là Gió Bắc, thổi ùa vào cùng một luồng gió lạnh buốt; những hạt mưa đá lớn rơi lộp bộp trên nền, và tuyết bay tấp vào. Hắn mặc quần áo bằng da gấu, đầu đội mũ da hải cẩu kéo sụp xuống tai. Râu hắn treo đầy những tảng băng dài, và hết hạt mưa đá này đến hạt khác rơi ra từ cổ áo hắn.

“Đừng ngồi sát lửa quá,” hoàng tử nói.  “Ngươi có thể bị cước đấy!”

“Cước ư?” – Gió Bắc phá lên cười lớn.  “Cước chính là niềm vui của ta! Ngươi là thứ sinh vật yếu đuối gì thế? Sao lại vào được hang gió này?”

“Hắn là khách của ta,” người đàn bà nói. “Nếu ngươi không hài lòng thì ta nhét ngươi vào bao ngay! Ngươi biết rõ ý ta rồi đấy!”

Lời ấy quả thật có tác dụng; Gió Bắc bèn kể về nơi hắn vừa đến và những gì hắn đã làm suốt tháng qua.

Ta đến từ vùng biển Bắc Cực,” hắn nói. “Ta vừa ở đảo Behring cùng bọn thợ săn hải mã người Nga. Ta ngồi ở bánh lái mà ngủ trong lúc họ rời mũi Bắc, và khi ta thỉnh thoảng tỉnh dậy, chim hải âu bão bay lượn quanh đôi chân ta. Chúng là loài chim kỳ lạ: chỉ cần quạt mạnh đôi cánh một cái, rồi xòe ra bất động, vậy mà vẫn bay nhanh không ngờ.”

“Làm ơn đừng dài dòng quá,” mẹ các ngọn gió nói. “Rốt cuộc thì ngươi cũng đến đảo Behring chứ gì!”

“Nơi ấy thật tuyệt vời! Mặt đất bằng phẳng như chiếc bánh, tuyết tan dở, xen kẽ rêu. Xương cá voi và gấu trắng Bắc Cực vương vãi khắp nơi; trông như tay chân khổng lồ phủ đầy rêu xanh. Cứ như thể mặt trời chưa bao giờ chiếu sáng nơi ấy. Ta thổi nhẹ một cái để xua mù, và thấy được cái lều. Đó là căn nhà dựng bằng những mảnh gỗ tàu đắm, lợp bằng da cá voi, lộn mặt trong ra ngoài; tất cả đỏ và xanh; một con gấu Bắc Cực sống ngồi trên mái mà gầm gừ. Ta ra bờ biển nhìn vào các tổ chim, ngắm bầy chim non chưa mọc đủ lông đang kêu la há miệng; ta liền thổi gió vào hàng ngàn cái miệng, và chúng học được cách ngậm lại. Dưới thấp hơn, bọn hải mã lăn lộn như những con dòi khổng lồ với đầu heo và răng dài đến cả thước!”

“Ngươi kể chuyện khá lắm, con trai ạ!” bà mẹ nói. “Nghe mà ta thấy thèm rỏ dãi!”

“Rồi đến cuộc săn! Những ngọn lao đâm vào ngực hải mã, máu nóng phun ra như đài phun trên băng. Thế là ta nhớ đến phần việc của mình! Ta thổi gió, khiến những tảng băng trôi cao như núi kẹp lấy thuyền bè; hú! Tiếng huýt sáo và tiếng kêu thất thanh vang dậy, nhưng ta huýt còn to hơn. Họ buộc phải quăng xác hải mã, cả hòm lẫn dây xuống băng! Ta rắc tuyết phủ lên và để mặc cho trôi xuống phương nam mà nếm vị nước mặn. Họ sẽ chẳng bao giờ trở lại đảo Behring nữa đâu!”

“Vậy là ngươi toàn làm điều ác!” mẹ các ngọn gió nói.

“Việc tốt ta làm thì để kẻ khác kể,” hắn đáp. “Nhưng kìa, anh em phương Tây của ta đến rồi; ta thích hắn nhất, vì hắn mang mùi biển và làn gió mát tuyệt vời!”

“Đó là gió Tây Zephyr sao?” hoàng tử hỏi.

“Đúng, chính là Zephyr, nhưng không còn nhỏ bé như trước nữa. Trước kia hắn từng là một cậu bé xinh đẹp, nhưng thời ấy qua rồi!”

Hắn trông như một người rừng, nhưng trên đầu lại đội mũ dày để khỏi bị thương. Trên tay hắn cầm một chiếc chùy gỗ gụ cắt từ rừng gụ Mỹ. Thứ ấy thì không thể khác được.

“Ngươi đến từ đâu?” mẹ hắn hỏi.

“Từ rừng hoang dã!” hắn đáp. “Nơi những dây leo gai góc quấn kín giữa các cây, nơi rắn nước nằm phục trong cỏ ướt, và nơi con người dường như chỉ là kẻ thừa thãi!”

“Ngươi làm gì ở đó?”

“Ta ngắm con sông vĩ đại, thấy nó tung bọt trắng khi lao qua ghềnh đá, bay lên cùng mây và mang theo chiếc cầu vồng. Ta thấy con bò rừng khổng lồ bơi giữa dòng, nhưng nước cuốn nó đi; nó trôi cùng đàn vịt trời đang tung cánh lên không qua ghềnh, còn con bò thì bị nước nhấn chìm. Ta thích cảnh ấy và thổi lên một trận bão, khiến những cây cổ thụ cũng phải trôi dạt, quay cuồng như những mảnh gỗ vụn.”

“Vậy ngươi chẳng làm gì khác sao?” bà già hỏi.

“Ta còn lộn nhào giữa thảo nguyên, vỗ về ngựa hoang, và lắc cho dừa rụng nữa! Ồ, ta có vô số chuyện để kể! Nhưng đâu cần kể hết. Bà biết rõ điều đó mà, bà già ạ!”  rồi hắn hôn mẹ một cái nồng nhiệt đến nỗi suýt làm bà ngã ngửa; hắn quả thật là một đứa con hoang dại.

Khi ấy, gió Nam xuất hiện, đầu quấn khăn xếp và khoác áo choàng dài của người Ả Rập du mục.

“Trong này lạnh kinh khủng,” hắn nói, vừa ném thêm củi vào lửa. “Rõ ràng gió Bắc đã đến trước!”

“Ở đây nóng đủ để quay chín cả gấu Bắc Cực rồi,” gió Bắc đáp.

“Chính ngươi là gấu Bắc Cực đấy!” gió Nam nói.

“Ngươi muốn vào bao không?” bà già hỏi. “Ngồi xuống hòn đá kia và kể ta nghe ngươi đi đâu về.”

“Ở Phi Châu, thưa mẹ!” hắn đáp. “Ta vừa đuổi sư tử cùng bọn Hottentot ở xứ Kaffir! Ôi đồng cỏ nơi ấy mới xanh làm sao, xanh như màu ô liu. Con linh dương đầu bò nhảy nhót, còn đà điểu thì chạy đua cùng ta, nhưng ta vẫn nhanh nhất. Ta vào sa mạc, nơi cát vàng trải rộng. Nó trông như đáy biển. Ta gặp một đoàn lữ hành! Họ giết con lạc đà cuối cùng để lấy chút nước uống, nhưng cũng chẳng được bao nhiêu. Mặt trời cháy rực trên cao, cát bỏng rát dưới chân. Sa mạc trải ra vô tận. Ta bèn chui vào lớp cát mịn, rồi thổi bốc thành những cột xoáy khổng lồ – đó mới là điệu vũ tuyệt vời! Các ngươi nên thấy đàn lạc đà ủ rũ ra sao, còn thương nhân thì kéo áo choàng phủ kín đầu. Hắn quỳ mọp trước ta như trước Allah, vị thần của hắn. Giờ thì tất cả bị chôn vùi, và một kim tự tháp cát phủ lên họ; khi nào ta thổi bay đi, mặt trời sẽ tẩy trắng xương họ, rồi người đi sau sẽ biết rằng nơi ấy từng có dấu chân người, chứ nếu không, ai mà tin được giữa sa mạc!”

“Thế là ngươi cũng chỉ toàn gây hại!” bà mẹ quát. “Vào bao ngay!” Và trước khi hắn kịp nhận ra, bà đã tóm gió Nam ngang hông nhét vào bao; nó lăn lộn dưới đất, nhưng bà ngồi đè lên, và thế là hắn phải im re.

Các con bà thật sôi nổi đấy!” hoàng tử nói.

“Đúng vậy,” bà đáp, “nhưng ta vẫn chế ngự được chúng! Đây, đứa thứ tư đến rồi.”

Đó là gió Đông, hắn ăn mặc như một người Trung Hoa.

“Ồ, ngươi từ phương ấy về sao?” mẹ hắn hỏi. “Ta tưởng ngươi vừa ở Khu vườn Thiên Đàng cơ.”

“Ngày mai ta mới đi!” gió Đông đáp. “Đã đúng trăm năm rồi kể từ lần ta đến đó. Ta vừa từ Trung Hoa về, nơi ta nhảy múa quanh tháp sứ khiến tất cả chuông leng keng vang rộn. Quan lại bị quất roi giữa phố, gậy trúc gãy vụn trên lưng họ; đó đều là kẻ từ bậc nhất đến bậc chín. Họ kêu gào ‘Đa tạ, ân nhân, đa tạ, phụ thân’, nhưng nào có thật lòng; ta vẫn cứ nhảy múa, vẫn hát ‘Tsing, tsang, tsu!’”

“Ngươi làm loạn quá đấy!” bà già nói. “May mà ngày mai ngươi sẽ đến Khu vườn Thiên Đàng; nơi ấy luôn khiến ngươi ngoan ngoãn hơn. Nhớ uống cho sâu nơi giếng trí tuệ, rồi mang về cho ta một chai nhỏ nhé.”

“Con sẽ làm thế,” gió Đông đáp. “Nhưng sao mẹ lại nhốt anh em phương Nam của con vào bao? Thả hắn ra đi. Con cần nghe hắn kể về chim phượng hoàng; công chúa lúc nào cũng muốn nghe chuyện loài chim ấy khi con ghé thăm mỗi trăm năm. Mẹ mở bao ra đi! Như thế mẹ sẽ là người mẹ dịu ngọt nhất, và con sẽ biếu mẹ hai túi đầy trà xanh tươi rói như khi con vừa hái.”

“Ừ, vì trà, và vì con là đứa ta thương nhất, ta sẽ mở bao cho.”

Bà mở bao, gió Nam chui ra, nhưng cúi gằm mặt vì xấu hổ, bởi vị hoàng tử lạ đã thấy cảnh hắn bị nhốt nhục nhã.

“Đây là lá cọ cho công chúa!” gió Nam nói. “Con phượng hoàng già – loài duy nhất trên đời – đã tặng ta. Nó đã cào mỏ khắc cả cuộc đời trăm năm của nó lên chiếc lá này, để nàng tự đọc. Ta đã thấy con phượng tự châm lửa đốt tổ mình và ngồi lên đó cháy rụi, như góa phụ người Ấn. Ôi, những cành khô nổ lách tách, khói bay mịt mù, mùi hăng hắc khắp nơi! Cuối cùng, tất cả bùng cháy dữ dội; con chim già hóa tro, nhưng trong lửa lại lộ ra một quả trứng rực sáng; nó nổ tung, và chim non bay ra. Giờ đây nó là chúa tể muôn loài chim, và là phượng hoàng duy nhất. Nó còn mổ thủng chiếc lá ta mang về – đó là lời chào gửi công chúa.”

“Giờ thì ăn thôi!” mẹ các ngọn gió nói. Thế là cả bọn ngồi xuống ăn thịt hươu nướng, còn hoàng tử thì ngồi bên gió Đông, và chẳng mấy chốc họ đã thành đôi bạn thân.

“Này,” hoàng tử nói, “xin cho ta biết công chúa là ai, và Khu vườn Thiên Đàng ở đâu?”

“Ồ hô!” gió Đông nói, “nếu ngươi muốn đến đó thì mai hãy bay cùng ta. Nhưng ta báo trước: từ thời Adam và Eva chưa từng có con người nào đặt chân đến. Chắc ngươi đã biết chuyện của họ trong Kinh Thánh rồi?”

“Dĩ nhiên,” hoàng tử đáp.

“Khi họ bị đuổi đi, vườn Địa Đàng chìm xuống đất, nhưng vẫn giữ nắng ấm, khí lành, và mọi vẻ đẹp. Nữ hoàng tiên ngự nơi ấy. Đảo Hạnh Phúc – nơi cái chết không thể vào, nơi sống là niềm vui – chính là ở đó. Mai ngươi cưỡi lên lưng ta, ta sẽ đưa ngươi đến; ta nghĩ ta làm được! Nhưng giờ đừng nói gì nữa, ta muốn ngủ.”

Sáng sớm, khi hoàng tử tỉnh dậy, chàng hết sức ngạc nhiên thấy mình đã ở cao trên mây. Chàng đang ngồi trên lưng gió Đông, hắn giữ chàng cẩn thận; ở tít trên cao, rừng và đồng, sông và hồ chỉ như một tấm bản đồ lớn đầy sắc màu.

“Chào buổi sáng,” gió Đông nói. “Ngươi cứ ngủ thêm một lát cũng được, vì bên dưới kia chẳng có gì đáng ngắm; trừ phi ngươi muốn đếm nhà thờ. Chúng trông như những chấm phấn trắng trên tấm bảng xanh.”

Hắn gọi đồng cỏ và cánh đồng là “tấm bảng xanh.”

“Ta thật bất lịch sự khi rời đi mà không từ biệt mẹ và các anh em ngươi,” hoàng tử nói.

“Khi đang ngủ thì được tha thứ!” gió Đông đáp, rồi bay nhanh hơn bao giờ hết. Người ta có thể nhận ra lộ trình của họ qua tiếng xào xạc của rừng cây khi họ lướt qua; và mỗi lần vượt biển hồ, sóng dâng cao, còn những con tàu khổng lồ chao nghiêng, trông chẳng khác bầy thiên nga trôi nổi. Đến tối, các thành phố lớn hiện ra thú vị khi bóng đêm buông xuống, với muôn ánh đèn lấp lánh chỗ này chỗ kia, như khi đốt một mẩu giấy và thấy vô số tia sáng nhỏ li ti bay ra, như bọn trẻ tan học về nhà. Hoàng tử vỗ tay thích thú, nhưng gió Đông bảo chàng nên thôi và nắm chặt kẻo rơi xuống, mắc vào tháp chuông nhà thờ thì nguy.

Đại bàng rừng sâu bay nhanh, nhưng gió Đông còn nhanh hơn. Người Cô-dắc trên lưng ngựa phi vun vút qua thảo nguyên, nhưng hoàng tử còn đi nhanh hơn thế nữa.

“Giờ ngươi có thể thấy dãy Hi Mã Lạp Sơn!” gió Đông nói. “Đó là ngọn núi cao nhất châu Á; chẳng mấy chốc ta sẽ đến Khu vườn Thiên Đàng.”

Họ rẽ hướng về phương nam, không khí dần thơm ngát hương hoa và gia vị. Sung và lựu mọc hoang, còn dây nho dại trĩu quả xanh, quả tím. Họ đáp xuống, duỗi mình trên thảm cỏ mềm, nơi những đóa hoa gật gù theo gió như đang nói: “Mừng ngươi trở về.”

“Chúng ta đã ở trong Khu vườn Thiên Đàng rồi sao?” hoàng tử hỏi.

‘Không, chắc chắn chưa!’  Gió Đông trả lời. ‘Nhưng chẳng bao lâu nữa ta sẽ tới. Cậu có thấy bức tường đá kia cùng hang động lớn nơi dây nho dại rủ xuống như một bức màn khổng lồ không? Ta phải đi xuyên qua đó! Quấn áo choàng thật kỹ vào, ở đây nắng nóng bỏng, nhưng chỉ bước thêm một chút nữa là lạnh giá băng. Con chim bay qua cửa hang kia, một cánh còn vẫy trong cái nóng mùa hè, còn cánh kia đã lạc vào băng giá mùa đông.’


‘Vậy đó chính là con đường dẫn tới Vườn Địa Đàng!’ Hoàng tử thốt lên.Giờ họ tiến vào hang. Ôi, lạnh buốt biết bao; nhưng cũng không kéo dài lâu. Gió Đông giang rộng đôi cánh, và cánh của chàng tỏa sáng như ngọn lửa rực rỡ nhất; nhưng hang động ấy thật kỳ lạ! Những khối đá khổng lồ, từ đó nước nhỏ giọt, treo lơ lửng thành những hình dáng lạ thường; có lúc hang hẹp và thấp đến nỗi họ phải bò bằng tay và gối, rồi lại bỗng mở rộng và cao vút như thể ngoài trời. Nó trông như một nhà nguyện của tử thần, với những ống đàn im lìm và cờ xí hóa thạch.

‘Chúng ta như đang bước trên con đường của Tử Thần để đến Vườn Địa Đàng vậy!’  Hoàng tử nói, nhưng Gió Đông chẳng đáp lời, chỉ lặng lẽ chỉ tay về phía trước, nơi một ánh sáng xanh tuyệt đẹp đang tỏa rạng. Những khối đá phía trên dần trở nên trong mờ, cuối cùng sáng rực như mây trắng dưới ánh trăng. Không khí cũng dịu dàng, tươi mát như trên đỉnh núi, lại ngọt ngào hương hoa như trong thung lũng đầy hồng.

Một con sông trong vắt như chính không khí đang chảy, những con cá trong sông lấp lánh như vàng và bạc. Những con lươn tím uốn lượn, tỏa ra tia xanh sáng lóa theo từng khúc cong. Lá rộng của sen nước lấp lánh sắc cầu vồng, còn hoa của nó rực cháy như ngọn lửa da cam, được nước nuôi dưỡng hệt như dầu nuôi đèn mãi sáng. Một cây cầu cẩm thạch vững chãi, tinh xảo, chạm trổ tinh vi như ren và chuỗi hạt pha lê, bắc qua dòng sông dẫn tới Đảo Phúc Lạc, nơi Vườn Địa Đàng rực nở.

Gió Đông ôm lấy Hoàng tử và đưa qua bờ bên kia. Hoa lá nơi đây cất lên những khúc ca tuổi thơ, nhưng vang vọng kỳ diệu hơn bất cứ giọng hát loài người nào.

Đây là những cây cọ, hay những loài thủy mộc khổng lồ? Hoàng tử chưa từng thấy những loài cây hùng vĩ và tráng lệ đến thế. Những dây leo kỳ diệu buông thành vòng hoa, giống hệt như những hình vẽ bằng vàng và màu sắc nơi trang trí rìa các cuốn sách Thánh xưa, hay cuộn quanh các chữ cái đầu tiên. Đó là sự hòa quyện kỳ diệu giữa chim muông, hoa lá và những đường nét huyền diệu.

Ngay trên thảm cỏ cạnh đó, một đàn công khoe đuôi rực rỡ. Vâng, chúng trông như thế thật, nhưng khi Hoàng tử chạm vào, chàng nhận ra đó không phải là chim, mà là cây cỏ – những chiếc lá dock lớn sáng lấp lánh như đuôi công. Sư tử và hổ tung tăng như những chú mèo nhanh nhẹn giữa hàng rào xanh thoảng hương hoa ô-liu, và cả hổ lẫn sư tử đều đã được thuần hóa. Chim bồ câu hoang dã, óng ánh như ngọc trai, vỗ cánh vào bờm sư tử; còn linh dương, vốn nhút nhát, lại đứng gần, gật gù như muốn nhập cuộc chơi.

Khi ấy, Nàng Tiên của Vườn tiến đến đón họ; áo nàng lấp lánh như mặt trời, gương mặt rạng ngời như một người mẹ hạnh phúc ôm đứa con mình. Nàng trẻ trung, tuyệt đẹp, xung quanh là đoàn thiếu nữ xinh tươi, mỗi người đều cài trên tóc một ngôi sao lấp lánh. Khi Gió Đông trao cho nàng chiếc lá của Phượng Hoàng, đôi mắt nàng sáng bừng niềm vui. Nàng nắm tay Hoàng tử và dẫn chàng vào cung điện của mình, nơi tường mang sắc tulip rực rỡ dưới ánh mặt trời. Trần nhà là một bông hoa khổng lồ tỏa sáng, càng ngắm càng thấy sâu như lòng đài hoa. Hoàng tử bước tới cửa sổ, và qua một khung kính, chàng nhìn thấy Cây Tri Thức, cùng Con Rắn, và A-đam với E-va đứng bên.

‘Họ chẳng phải đã bị đuổi đi rồi sao?’  Hoàng tử hỏi. Nàng Tiên mỉm cười, giải thích rằng Thời Gian đã khắc nên những bức tranh sống động vào từng khung kính, khác với mọi bức vẽ thường thấy; chúng sống động, lá trên cây lay động, người qua lại như những hình phản chiếu trong gương.

Chàng lại nhìn qua khung kính khác, thấy giấc mơ của Gia-cốp, chiếc thang vươn thẳng lên trời, cùng các thiên thần với đôi cánh lớn bay lên bay xuống. Mọi điều từng xảy ra trên thế gian đều sống động trên những khung kính ấy; chỉ Thời Gian mới có thể khắc nên những hình ảnh kỳ diệu đến thế.

Nàng Tiên mỉm cười, dẫn chàng vào một gian phòng rộng lớn, trần cao, tường như những bức tranh trong suốt của muôn gương mặt – gương mặt nào cũng xinh đẹp. Đó là hàng triệu linh hồn hạnh phúc, họ vừa mỉm cười vừa ca hát, tất cả tiếng hát hòa quyện thành một bản nhạc tuyệt vời. Những gương mặt cao nhất nhỏ bé đến nỗi chẳng khác gì nụ hồng nhỏ xíu, chỉ bằng một chấm bút trong bức vẽ. Giữa gian phòng là một cây lớn, cành lá rủ xuống duyên dáng; những quả táo vàng, to nhỏ lẫn lộn, treo lủng lẳng như cam giữa tán lá xanh. Đó chính là Cây Tri Thức, thứ quả A-đam và E-va từng nếm. Trên mỗi chiếc lá rủ xuống một giọt sương đỏ rực; như thể cây ấy khóc ra những giọt lệ máu.

‘Nào, chúng ta hãy xuống thuyền,’ Nàng Tiên nói. ‘Chúng ta sẽ tìm thấy nguồn vui trên mặt nước đang dâng tràn. Con thuyền sẽ lắc lư, nhưng nó không rời chỗ; và mọi miền đất trên thế giới sẽ lướt qua trước mắt chúng ta.’

Thật kỳ lạ khi thấy cả bờ biển chuyển động. Kia là dãy Alpes phủ tuyết trắng, mây và rừng thông đen bao phủ. Tiếng tù và vang buồn bã giữa núi, và tiếng hát du dương của mục đồng vọng khắp thung lũng. Rồi cây đa khổng lồ cúi những cành dài rủ xuống bên thuyền, thiên nga đen trôi lững lờ trên nước, những loài thú và hoa lạ lẫm hiện ra nơi bờ. Đó là Tân Hà Lan – phần đất thứ năm của thế giới – đang lướt qua với dãy núi xanh lam. Họ nghe tiếng hát của các thầy tu, thấy vũ điệu thổ dân theo nhịp trống và ống sáo bằng xương. Những kim tự tháp Ai Cập cao ngút mây, với cột đá đổ nát và tượng Nhân sư nửa chôn trong cát, rồi cũng trôi qua. Tiếp đến là Cực Quang rực sáng trên các đỉnh núi phương Bắc; những màn pháo hoa chẳng thể nào bắt chước. Hoàng tử hạnh phúc vô cùng, chàng thấy hàng trăm lần nhiều hơn cả những gì có thể kể ra. ‘Ta có thể ở lại đây mãi mãi không?’  chàng hỏi.

‘Điều đó tùy thuộc chính ngươi,’ Nàng Tiên đáp. – ‘Nếu ngươi không, như A-đam, để bản thân bị cám dỗ làm điều cấm kỵ, ngươi có thể ở lại đây mãi mãi.’

‘Ta sẽ không chạm tới quả táo trên Cây Tri Thức,’ Hoàng tử thưa. – ‘Ở đây còn hàng nghìn trái khác cũng đẹp không kém.’

‘Hãy thử thách chính mình, và nếu ngươi thấy mình không đủ mạnh, hãy quay về cùng Gió Đông – kẻ đã đưa ngươi tới đây. Hắn đang rời đi và sẽ không trở lại trong một trăm năm nữa; ở nơi này, thời gian trôi qua như một trăm giờ, nhưng ấy vẫn là quãng dài cho cám dỗ và tội lỗi. Mỗi buổi chiều, khi ta rời ngươi, ta phải nói: “Hãy theo ta,” và ta sẽ ngoắc ngươi, nhưng ngươi hãy ở lại. Đừng bước theo ta, bởi với mỗi bước chân, lòng khao khát sẽ lớn dần. Ngươi sẽ tiến tới đại sảnh nơi mọc Cây Tri Thức; ta ngủ dưới những cành thơm rủ bóng. Ngươi sẽ cúi xuống ta, và ta sẽ mỉm cười; nhưng nếu ngươi đặt một nụ hôn lên môi ta, Địa Đàng sẽ chìm sâu vào lòng đất, và ngươi sẽ mất nó. Những ngọn gió lạnh buốt nơi hoang mạc sẽ rít quanh ngươi, mưa lạnh sẽ nhỏ xuống từ mái tóc ngươi. Nỗi đau khổ và nhọc nhằn sẽ là phần số của ngươi.’

‘Ta sẽ ở lại nơi đây!’  Hoàng tử nói.

Và Gió Đông hôn lên môi chàng, nói:

“Phải mạnh mẽ lên, rồi ta sẽ gặp lại nhau sau một trăm năm nữa. Vĩnh biệt! Vĩnh biệt!”

Rồi Gió Đông giang rộng đôi cánh vĩ đại; chúng sáng rực như những bông anh túc mùa gặt, hay như Cực Quang trong mùa đông lạnh giá.

“Vĩnh biệt! Vĩnh biệt!”  hoa lá thì thầm.

Những con cò và bồ nông bay thành hàng dài như dải ruy băng phất phơ, đưa tiễn chàng đến tận ranh giới của Khu Vườn.

“Giờ chúng ta bắt đầu điệu vũ của mình!” Nàng Tiên nói. “Đến cuối cùng, khi ta nhảy với ngươi, lúc mặt trời lặn, ngươi sẽ thấy ta vẫy gọi và kêu ‘Hãy đi cùng ta’, nhưng đừng đi. Ta phải lặp lại điều ấy mỗi đêm trong một trăm năm. Mỗi lần ngươi kháng cự, ngươi sẽ thêm mạnh mẽ, và cuối cùng ngươi sẽ chẳng còn nghĩ đến chuyện đi theo ta nữa. Tối nay là lần đầu. Hãy nhớ lời ta cảnh báo!”

Rồi Nàng Tiên dẫn chàng vào một đại sảnh tràn ngập hoa huệ trắng trong suốt, với nhụy vàng mỗi bông biến thành một cây đàn hạc nhỏ bằng vàng, ngân vang âm hưởng của dây đàn và sáo trúc. Những thiếu nữ duyên dáng, mảnh mai, khoác lụa mỏng bay bổng, để lộ những đường nét tuyệt mỹ của thân hình, uyển chuyển trong điệu múa, ca hát về niềm vui sống,  rằng họ sẽ không bao giờ chết – và rằng Vườn Địa Đàng sẽ mãi mãi nở hoa.

Mặt trời lặn, bầu trời nhuộm ánh vàng, khiến những đóa huệ hóa thành hồng rực rỡ; Hoàng tử uống rượu sóng sánh do các thiếu nữ dâng, lòng hân hoan chưa từng có. Chàng thấy hậu cảnh của đại sảnh mở ra, nơi Cây Tri Thức tỏa sáng chói lọi, đến lóa mắt. Từ đó vang lên khúc ca dịu dàng, êm ái, tựa tiếng mẹ ru, và như thể nàng đang thì thầm: “Con ta, con yêu dấu của ta!”

Khi ấy Nàng Tiên vẫy tay, dịu dàng gọi: “Hãy đến cùng ta.”

Quên cả lời hứa, quên hết thảy, Hoàng tử lao về phía nàng, ngay từ đêm đầu tiên, khi nàng mỉm cười vẫy gọi.

Hương thơm lan tỏa nồng nàn, đàn hạc ngân nga du dương, và hàng triệu gương mặt mỉm cười trong đại sảnh, nơi Cây mọc lên, gật gù cất tiếng:

“Phải biết tất cả. Con người là chúa tể của trần gian.”

Những giọt lệ máu không còn rơi từ cây nữa; chàng ngỡ rằng đó là những vì sao đỏ rực đang sáng ngời.

“Hãy đến cùng ta, hãy đến cùng ta…”  tiếng gọi run rẩy ngân vang, và mỗi bước chàng đi, má chàng lại đỏ hồng, máu trong người chảy nhanh hơn.

“Ta phải đi,” chàng nói. “Điều này chẳng có tội; ta chỉ muốn thấy nàng đang ngủ; sẽ không mất gì nếu ta không hôn nàng, và điều đó ta sẽ không làm. Ý chí ta vững vàng.”

Nàng Tiên bỏ chiếc áo lấp lánh, vén cành lá, rồi ẩn mình vào trong bóng rợp.

“Ta vẫn chưa phạm tội!”  Hoàng tử thốt lên.  “Và ta sẽ không phạm đâu.”

Chàng liền vén lá sang một bên. Nàng đã nằm ngủ, xinh đẹp như chỉ có Nàng Tiên trong Vườn Địa Đàng mới có thể đẹp đến thế. Nàng mỉm cười trong giấc mơ; chàng cúi xuống, thấy lệ rưng nơi khóe mắt nàng.

“Nàng khóc vì ta ư?” chàng thì thầm. “Xin đừng khóc, mỹ nhân. Giờ đây ta mới thật sự hiểu hết hạnh phúc của Địa Đàng; nó cuộn chảy trong máu và ý nghĩ ta. Ta cảm thấy sức mạnh của thiên thần và sự sống vĩnh hằng trong tấm thân phàm tục này! Nếu đêm nay là đêm vĩnh cửu với ta, thì một khoảnh khắc như thế này cũng đã đáng giá!”

Rồi chàng hôn lên đôi mắt nàng để xua đi giọt lệ; môi chàng chạm môi nàng.

Ngay lập tức vang lên tiếng sấm, dữ dội hơn mọi âm thanh chàng từng nghe; tất cả sụp đổ quanh chàng. Nàng Tiên xinh đẹp, Khu Vườn hoa lệ, đều chìm xuống sâu hơn, sâu hơn nữa. Hoàng tử thấy chúng rơi vào màn đêm, rồi chỉ còn sáng lấp lánh xa xăm như một ngôi sao nhỏ bé. Hơi lạnh của tử thần lan khắp tứ chi chàng; chàng nhắm mắt, nằm bất động như xác chết.

Mưa lạnh táp vào mặt, gió buốt rít quanh đầu, cuối cùng trí nhớ chàng trở lại.

“Ta đã làm gì thế này?” chàng thở dài. “Ta đã phạm tội như A-đam, phạm tội nặng nề đến mức Địa Đàng chìm sâu dưới lòng đất!”

Chàng mở mắt; vẫn còn thấy ngôi sao xa kia, lấp lánh như chốn Thiên Đàng – đó là sao Mai trên bầu trời. Chàng đứng dậy, nhận ra mình đang ở khu rừng gần hang gió, và Mẹ của các ngọn gió ngồi bên cạnh. Bà trông giận dữ, giơ tay lên.

“Ngay từ buổi tối đầu tiên đã như thế!” bà nói.  “Ta đoán rồi. Nếu ngươi là con ta, thì đã bị nhốt trong bao rồi!”

“À, chẳng bao lâu nữa hắn sẽ vào đó thôi!” Tử Thần cất lời.

Đó là một lão già mạnh mẽ, tay cầm lưỡi hái, đôi cánh đen khổng lồ. – “Hắn sẽ bị đặt trong quan tài, nhưng chưa phải bây giờ; ta chỉ đánh dấu hắn rồi để hắn lang thang trên trần thế, để chuộc tội và trở nên tốt hơn. Rồi một ngày nào đó, khi hắn chẳng ngờ, ta sẽ trở lại, đặt hắn vào quan tài đen, vác trên đầu, bay lên trời. Ở đó, Vườn Địa Đàng cũng đang nở hoa, và nếu hắn trở nên hiền lành, thánh thiện, hắn sẽ được vào. Nhưng nếu lòng hắn vẫn còn tội lỗi, ý nghĩ còn ô uế, thì hắn sẽ chìm sâu trong quan tài hơn cả khi Địa Đàng chìm xuống; và ta sẽ chỉ quay lại mỗi nghìn năm, để xem hắn còn chìm sâu hơn, hay sẽ vươn lên tới những vì sao – những vì sao lấp lánh nơi cao kia.




THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 9 / 2025


Nguồn 

https://americanliterature.com/author/hans-christian-andersen/short-story/the-garden-of-paradise/

Aucun commentaire: