VỤ GIẾT NGƯỜI ƯA THÍCH CỦA TÔI
Ambrose Bierce
( 1842 - 1914 )
Nổi tiếng với sự châm biếm sắc bén và cái nhìn mỉa mai về bản chất con người, Ambrose Bierce được gán cho biệt danh “Bitter Bierce” (Bierce Cay Đắng). Sự hoài nghi chua chát ấy được thể hiện rõ trong The Devil’s Dictionary (Từ điển của Quỷ), một tác phẩm ban đầu xuất bản dưới tên The Cynic’s Word Book (Sách Từ Ngữ Của Kẻ Hoài Nghi). Cuốn sách hài hước và thường xuyên đưa ra những nhận xét sâu sắc này luôn đáng để đọc lại bất cứ lúc nào, khi Bierce thay phiên tung ra những lời tuyên bố châm chọc về bản chất con người và đời sống thường nhật.
Là một nhà văn truyện ngắn, Bierce đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm quý giá. Truyện ngắn nổi tiếng và được đọc rộng rãi nhất của ông, An Occurrence at Owl Creek Bridge (Một Sự Kiện Ở Cầu Owl Creek), được viết vô cùng xuất sắc. Không cần phải là chuyên gia cũng có thể nhận ra giá trị của nó, nhưng để làm bằng chứng thêm, nhà văn Kurt Vonnegut, Jr. từng coi An Occurrence at Owl Creek Bridge là truyện ngắn vĩ đại nhất của nước Mỹ, một kiệt tác hoàn hảo của thiên tài văn chương Mỹ. Dù dễ đoán hơn, chúng tôi cũng đề cử A Horseman in the Sky (Kỵ Sĩ Trên Trời) là tác phẩm in đậm dấu ấn thiên tài. Toàn bộ sáng tác của Bierce là hình mẫu tiêu biểu cho trào lưu hiện thực (Realism).
Năm 1913, trong thời kỳ Cách mạng Mexico, Bierce đã đến Mexico để trực tiếp trải nghiệm cuộc xung đột. Ông biến mất không dấu vết khi đi cùng quân nổi dậy. Có tin đồn rằng ông có thể đã bị thủ lĩnh phiến quân Pancho Villa giết vào đầu năm 1914, dù điều này vẫn chỉ là suy đoán. Trước khi biến mất bí ẩn, Bierce từng tham gia cuộc Nội chiến Mỹ, phục vụ trong Trung đoàn Indiana số 9 của Liên minh. Ông từng được báo chí chú ý trong “trận đánh đầu tiên” ở Philippi nhờ hành động dũng cảm cứu một đồng đội bị thương nặng dưới làn đạn trong trận Rich Mountain. Bierce được coi là một trong số ít nhà văn lớn của thể loại văn học về Nội chiến có kinh nghiệm trực tiếp từ chiến trường. Ông từng bị thương ở đầu trong trận Kennesaw Mountain năm 1864, phải nghỉ phép, sau đó rời quân đội. Bierce được phong làm trung úy tại San Francisco, nơi ông gắn bó nhiều năm, và dần trở nên nổi tiếng với vai trò cộng tác viên và biên tập cho nhiều tờ báo, tạp chí địa phương.
Bierce trở thành một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất ở Bờ Tây, làm việc cho The San Francisco Examiner của Hearst, bắt đầu từ năm 1887 khi ông xuất bản chuyên mục The Prattle (Những Lời Lảm Nhảm). Chuyên mục phê phán gay gắt này đã khiến tờ báo dính vào nhiều vụ tranh cãi mà Hearst phải đứng ra dàn xếp. Những truyện ngắn của Bierce thường dựa trên những điều khủng khiếp mà ông chứng kiến trong chiến tranh, đặc biệt là The Boarded Window (Cửa Sổ Đóng Ván), Killed at Resaca (Chết Ở Resaca), và Chickamauga.
Ngoài những truyện về chiến tranh và ma quái, Bierce còn xuất bản nhiều tập thơ. Ưa thích phong cách mỉa mai mang tính ghê rợn, ông viết Fantastic Fables (Những Ngụ Ngôn Kỳ Quặc), sau đó là tác phẩm nổi tiếng hơn, The Devil’s Dictionary, dựa trên các mục đăng rải rác trên báo, xuất bản năm 1906. Cuốn sách này được in trọn vẹn thành tập thứ bảy trong bộ 12 tập Collected Works (Tuyển Tập Toàn Bộ Tác Phẩm), xuất bản năm 1909.
Ít nhất đã có ba bộ phim được dựng dựa trên An Occurrence at Owl Creek Bridge: The Bridge (1929, phim câm), và hai phiên bản trong loạt phim The Twilight Zone (1964), một bản bằng tiếng Pháp, một bản bằng tiếng Anh. Gần đây hơn, loạt phim truyền hình Lost của đài ABC có một tập mang tên The Long Con, cũng dựa trên truyện ngắn này của Bierce.
Ambrose Bierce, với biệt danh “Bitter Bierce” (Bierce Cay Đắng), là một bậc thầy của văn chương châm biếm, nổi bật với phong cách văn chương đen tối, chua chát và sắc bén. Trong My Favourite Murder, ông khai thác thẩm mỹ của cái xấu xa bằng cách lột trần bản chất tàn ác và mỉa mai sâu cay của con người — điều khiến truyện này trở thành một minh chứng thuyết phục cho phép thuật văn chương châm biếm của ông.
Bản tường thuật của kẻ giết mẹ và chú cấp tiến trở thành một màn diễn đầy học thức và khéo léo hòng khiến người đọc vừa cười cợt, vừa rùng mình. Nhân vật tự hào kể về quá trình chuẩn bị giết người, được sự hỗ trợ “vô điều kiện” từ bố mẹ, gia nhập hội kín mang tên “Hiệp sĩ Sát nhân” và thực hiện vụ việc bằng cách biến chú thành… quả lắc tập gym dùng dây giây. Kết thúc mang tính sử thi: chú bị đập nát dưới sức rơi từ không trung do… một con cừu hung dữ lao thẳng vào đầu.
Bierce mỉa mai “lòng kính trọng” gia đình và các khái niệm đạo đức. Gia đình nhân vật lại ủng hộ vụ giết người, trong khi mẹ niềm nở cầu nguyện thành công thay vì ngăn cản hành động phi nhân. Điều đó vạch trần sự mâu thuẫn giữa hình thức đạo đức và đạo lý thực chất.
Chủ đề bạo lực ở đây bị triệt để chọc cười: từ việc xử lý xác chú thành đồ tập thể dục, đến cú “quật ngược” của con cừu từ mây rơi xuống. Bierce vẽ ra một cảnh tượng hãi hùng nhưng chạm ngưỡng “hài kịch kinh dị”; qua đó châm biếm sự hung tàn phi nhân của cuộc chiến.
Câu chuyện đẩy sự phi lý lên đỉnh điểm — một người bị treo trong bao, đánh đập và cuối cùng… bị một con cừu khổng lồ rơi trúng từ trời. Bierce phơi bày một thế giới đảo lộn, nơi logic bị lật nhào bởi hành vi quái gở và quyền lực vô biên của… thú vật.
Bierce mô tả nỗi kinh hoàng theo cách khiến người đọc vừa bị thu hút vừa bị chạm đến rợn tóc gáy. Cái chết bị “biến tấu” như trò vui, rồi lại được nhấn vào chỗ mất phương hướng ban đầu — làm bật lên một triết lý: bạo lực, nhất là giết người, luôn tiềm ẩn trong thế giới loài người, được phủ lên một màu “văn minh giả tạo”.
My Favourite Murder là một tác phẩm không chỉ mang ý nghĩa giải trí đen tối mà còn là tiếng cười châm biếm nhức nhối về thiện và ác. Bierce bẻ cong mọi chuẩn mực xã hội để đặt người đọc vào vị trí vừa hồi hộp vừa phẩn nộ — một cảm giác đặc trưng mà chỉ ông mới tạo được. Cuối cùng, truyện cổ vũ chúng ta “cười” để nhận ra, rằng phần lớn nỗi tàn bạo trong xã hội không hề là chuyện của cá nhân điên loạn, mà là sản phẩm của một hệ sinh thái đạo đức đã bị xuyên tạc.
* * *
Sau khi đã giết mẹ mình trong những hoàn cảnh tàn bạo đến mức dị thường, tôi bị bắt và đưa ra xét xử. Phiên tòa kéo dài suốt bảy năm. Khi tóm lược vụ án, vị thẩm phán của Tòa Tha Bổng nhận xét rằng đây là một trong những tội ác ghê rợn nhất mà ông từng phải tìm cách “giải thích để gỡ tội”.
Nghe vậy, luật sư của tôi đứng lên và nói:
“Thưa ngài, tội ác chỉ ghê rợn hay dễ chịu khi so sánh mà thôi. Nếu ngài quen thuộc với chi tiết vụ giết người trước đây của thân chủ tôi — vụ sát hại người chú ruột — thì ngài sẽ nhận thấy ở tội ác sau này có chút gì đó giống như lòng khoan dung dịu dàng và sự quan tâm hiếu thảo đến cảm xúc của nạn nhân. Sự hung bạo kinh khủng trong vụ ám sát đầu tiên quả thật chẳng thể giải thích theo giả thuyết nào khác ngoài sự phạm tội; và nếu không phải vì vị thẩm phán chủ tọa khi đó đồng thời là giám đốc một công ty bảo hiểm nhân thọ (công ty có nhận rủi ro từ các vụ treo cổ) mà thân chủ tôi lại có mua bảo hiểm ở đó, thì thật khó mà thấy được cách nào để ông ta được trắng án một cách “đoan chính”. Nếu ngài muốn nghe kể lại để mở mang và dẫn dắt tư duy của ngài, thì người đàn ông bất hạnh này — thân chủ tôi — sẽ sẵn lòng chịu nỗi đau mà thuật lại chuyện ấy dưới tuyên thệ.”
Công tố viên liền nói:
“Thưa ngài, tôi phản đối. Một lời kể như thế rõ ràng mang tính bằng chứng, trong khi việc lấy lời khai đã kết thúc. Lời khai của bị cáo lẽ ra phải được đưa ra ba năm trước, tức mùa xuân năm 1881.”
“Xét theo nghĩa pháp lý,” thẩm phán đáp, “ông nói đúng, và tại Tòa Phản Đối và Hình Thức thì ông sẽ thắng. Nhưng đây là Tòa Tha Bổng. Phản đối bị bác bỏ.”
“Tôi kháng nghị,” công tố viên nói.
“Ông không thể làm thế,” thẩm phán đáp. “Tôi phải nhắc rằng để kháng nghị thì trước hết ông phải xin chuyển vụ này tạm thời sang Tòa Kháng Nghị bằng một đơn hợp lệ có tuyên thệ kèm theo. Tiền nhiệm của ông từng đưa đơn như vậy ngay trong năm đầu xét xử, nhưng tôi đã bác.”
“Thư ký, hãy làm thủ tục tuyên thệ cho bị cáo.”
Sau khi tôi tuyên thệ theo thông lệ, tôi đưa ra lời khai sau đây. Lời khai đã khiến thẩm phán cảm nhận quá rõ sự “tầm thường” của tội ác mà tôi đang bị xét xử, đến nỗi ông không cần tìm thêm tình tiết giảm nhẹ nào khác, mà chỉ đơn giản hướng dẫn bồi thẩm đoàn tuyên trắng án. Thế là tôi rời tòa, thanh danh hoàn toàn trong sạch:
“Tôi sinh năm 1856 ở Kalamakee, tiểu bang Michigan, trong một gia đình lương thiện và đáng kính, mà một người trong đó nay Trời vẫn thương giữ lại để an ủi tôi vào tuổi xế chiều. Năm 1867, cả nhà chuyển tới California và định cư gần Nigger Head, nơi cha tôi mở một trạm chặn đường, làm ăn phát đạt hơn cả mơ ước của lòng tham. Khi ấy ông là người trầm mặc, nghiêm khắc, dù nay tuổi tác đã khiến tính khí có phần dịu đi; tôi tin rằng chỉ ký ức về biến cố buồn thảm đưa tôi ra tòa lần này mới ngăn ông bộc lộ một niềm vui trọn vẹn.
Bốn năm sau khi ta mở trạm chặn đường, có một mục sư lang thang ghé qua. Không có tiền trả cho chỗ nghỉ đêm, ông ta đã thuyết giảng một bài đầy sức mạnh đến nỗi, tạ ơn Chúa, cả nhà tôi đều cải đạo. Cha tôi liền cho gọi em trai — ngài William Ridley ở Stockton — và khi ông đến nơi, cha tôi trao luôn trạm cho ông, không lấy tiền nhượng quyền hay cơ sở vật chất gì cả, vốn chỉ gồm một khẩu Winchester, một khẩu shotgun cưa nòng và một số mặt nạ may bằng bao bột. Sau đó, cả nhà dời đến Ghost Rock và mở một quán nhảy. Nó được đặt tên là Chốn Nghỉ Ngơi Thánh Nhân – Hurdy-Gurdy, và mỗi đêm bắt đầu bằng một lời cầu nguyện. Tại đó, mẹ tôi (nay đã thành người thiên cổ), nhờ tài nhảy múa duyên dáng, được gán biệt hiệu là Hải Mã Nhảy Nhót.
Mùa thu năm 1875, tôi có dịp đi Coyote, trên đường tới Mahala, và bắt chuyến xe ngựa ở Ghost Rock. Trên xe có bốn hành khách khác. Đi được chừng ba dặm khỏi Nigger Head thì xe bị chặn bởi những người mà tôi nhận ra là chú William và hai người con trai ông. Không thấy gì trong hòm chở hàng, họ quay sang lục soát hành khách. Tôi đóng vai một kẻ hết sức “lương thiện”, xếp hàng cùng những người khác, giơ tay lên, và để cho họ tước mất bốn mươi đô la cùng một chiếc đồng hồ vàng. Nhìn hành động của tôi thì chẳng ai ngờ rằng tôi quen biết những quý ông đang “trình diễn tiết mục”.
Vài ngày sau, khi đến Nigger Head đòi lại tiền và đồng hồ, chú và các anh họ tôi thề rằng chẳng hề biết chuyện gì, thậm chí còn giả bộ tin rằng cha tôi và tôi mới chính là thủ phạm, vi phạm đê tiện sự “tín nhiệm thương mại”. Chú William còn dọa sẽ trả đũa bằng cách mở một quán nhảy cạnh tranh ngay tại Ghost Rock. Vì lúc đó Chốn Nghỉ Ngơi Thánh Nhân đã dần mất khách, tôi thấy điều này chắc chắn sẽ phá hủy nó và lại còn sinh lợi cho đối thủ. Vậy nên tôi nói với chú rằng tôi sẵn sàng bỏ qua mọi chuyện, miễn là ông cho tôi góp phần vào kế hoạch và giữ bí mật với cha tôi. Đề nghị công bằng ấy bị ông bác bỏ, và tôi chợt nhận ra rằng sẽ tốt đẹp và thỏa đáng hơn nhiều nếu ông ta chết đi.”
“Kế hoạch của tôi nhằm đạt được điều đó sớm đã hoàn tất, và khi thổ lộ với cha mẹ yêu dấu, tôi hân hoan nhận được sự tán đồng của họ. Cha tôi nói rằng ông rất tự hào về tôi, còn mẹ tôi thì hứa rằng, mặc dù tôn giáo của bà cấm bà trực tiếp tham gia vào việc tước đoạt sinh mạng con người, tôi vẫn sẽ có được lợi thế nhờ những lời cầu nguyện của bà cho sự thành công của tôi. Như một bước chuẩn bị, để đảm bảo an toàn trong trường hợp bị phát giác, tôi đã nộp đơn xin gia nhập hội kín đầy quyền lực mang tên Hiệp sĩ Sát nhân, và chẳng bao lâu được kết nạp vào chi hội Ghost Rock. Ngày tôi kết thúc thời gian thử thách, lần đầu tiên tôi được phép xem sổ lưu danh của hội và biết ai là thành viên – vì tất cả các nghi lễ gia nhập trước đó đều diễn ra với mặt nạ che kín. Hãy tưởng tượng niềm vui sướng của tôi khi phát hiện ra tên thứ ba trong danh sách chính là chú tôi, người thậm chí còn giữ chức phó tổng giám khảo của hội! Đây quả là một cơ hội vượt ngoài những giấc mơ điên rồ nhất của tôi – ngoài việc giết người, tôi có thể bổ sung thêm tội bất tuân và phản bội. Mẹ tôi hẳn sẽ gọi đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng Đế.
“Vào khoảng thời gian đó, có một biến cố khiến chén rượu vui vốn đã đầy của tôi tràn ngập sung sướng, như một thác nước tròn tuôn chảy hạnh phúc từ mọi phía. Ba kẻ lạ mặt ở vùng ấy bị bắt vì vụ cướp xe ngựa trong đó tôi đã mất tiền và chiếc đồng hồ. Họ bị đưa ra xét xử, và mặc cho những nỗ lực của tôi nhằm minh oan cho họ và đổ tội lên đầu ba công dân lương thiện và đáng kính nhất ở Ghost Rock, họ vẫn bị kết tội với những bằng chứng hiển nhiên. Vậy là vụ giết người giờ đây sẽ trở thành một hành động phi lý, vô nghĩa – đúng như tôi hằng mong muốn.
“Một buổi sáng, tôi vác khẩu súng trường Winchester sang nhà chú, gần Nigger Head, hỏi thím Mary – vợ ông ta – rằng chú có ở nhà không, và thêm rằng tôi đến đây để giết chú. Thím tôi mỉm cười lạ lùng, đáp rằng đã có rất nhiều quý ông ghé qua với cùng mục đích, rồi sau đó đều bị khiêng đi mà chẳng thực hiện được gì, nên thím không thể không hoài nghi sự thành thật của tôi. Thím bảo tôi trông chẳng có vẻ gì là sẽ giết được ai cả, thế nên, để chứng minh thiện chí, tôi nhắm súng bắn bị thương một người Hoa tình cờ đi ngang qua nhà. Thím nói bà biết cả những gia đình mà tất cả thành viên đều có thể làm chuyện ấy, nhưng Bill Ridley thì lại là một hạng người khác hẳn. Tuy vậy, thím cho biết tôi có thể tìm ông ta ở bãi cừu bên kia con lạch; và thím còn thêm rằng thím hy vọng kẻ mạnh hơn sẽ thắng.
“Thím Mary là một trong những người công tâm nhất mà tôi từng gặp.
“Tôi tìm thấy chú tôi đang quỳ xuống, bận rộn lột da một con cừu. Thấy ông không có súng hay súng lục trong tầm tay, tôi không nỡ bắn, nên bước đến, chào hỏi thân mật, rồi dùng báng súng giáng một cú mạnh vào đầu ông. Tôi có cú ra đòn rất đẹp, và chú William lập tức ngã xuống, lăn qua một bên, rồi ngửa ra, xoè những ngón tay và run lên. Trước khi ông kịp hồi phục sức lực, tôi đã chộp lấy con dao ông đang dùng và cắt đứt gân kheo của ông. Chắc hẳn ông biết rằng khi gân Achilles bị chém đứt, người ta chẳng còn sử dụng được chân nữa; cũng chẳng khác gì như thể họ không còn chân. Thế là tôi cắt cả hai bên, và khi ông tỉnh lại thì hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của tôi. Khi đã hiểu tình hình, ông nói:
‘Samuel, cháu đã áp đảo ta rồi, và có thể rộng lượng trong việc này. Ta chỉ có một thỉnh cầu, đó là cháu hãy mang ta về nhà và kết liễu ta trong vòng tay gia đình.’
“Tôi đáp rằng tôi cho đó là một yêu cầu khá hợp lý, và tôi sẽ thực hiện nếu ông chịu để tôi nhét vào bao tải lúa mì; như thế sẽ dễ khiêng hơn, và nếu bị hàng xóm nhìn thấy trên đường đi cũng ít gây chú ý. Ông đồng ý, và tôi đi lấy một chiếc bao trong chuồng. Tuy nhiên, bao này không vừa: nó quá ngắn và rộng hơn thân hình ông; nên tôi bẻ chân ông, ép đầu gối ông chạm ngực, và nhét ông vào theo cách ấy, rồi buộc chặt miệng bao trên đầu ông. Ông ta khá nặng, và tôi phải gắng sức lắm mới cõng nổi, nhưng tôi vẫn lê đi được một quãng, cho đến khi tới một chiếc xích đu mà lũ trẻ từng treo trên cành sồi. Tại đó, tôi đặt ông xuống, ngồi lên để nghỉ, và cảnh tượng sợi dây đã gợi cho tôi một ý nghĩ tuyệt diệu. Trong vòng hai mươi phút, chú tôi – vẫn trong bao – đã được treo lơ lửng, đung đưa theo gió. Tôi đã tháo sợi dây, buộc một đầu thật chặt vào miệng bao, vắt đầu kia qua cành cây, rồi kéo ông lên khoảng năm feet so với mặt đất. Buộc đầu còn lại của dây vào miệng bao, tôi hả hê thấy chú tôi biến thành một quả lắc khổng lồ. Tôi phải nói thêm rằng ông dường như không hoàn toàn nhận thức được sự thay đổi trong mối quan hệ giữa ông với thế giới bên ngoài; nhưng để công bằng với một người đàn ông can trường, tôi phải nói rằng tôi không nghĩ ông sẽ phí nhiều thì giờ vào những lời phản kháng vô ích, dù trong bất kỳ tình huống nào.
“Chú William có một con cừu đực nổi tiếng khắp vùng là kẻ hiếu chiến. Nó ở trong tình trạng giận dữ mãn tính bẩm sinh…”
Một nỗi thất vọng sâu sắc nào đó trong quãng đời niên thiếu đã khiến nó trở nên chua chát, và nó đã tuyên chiến với cả thế giới. Nói rằng nó sẵn sàng húc bất cứ thứ gì có thể chạm đến cũng chỉ mới lột tả được phần nào bản chất và phạm vi của sự hiếu chiến nơi nó; cả vũ trụ là kẻ thù của nó; phương thức chiến đấu của nó giống như một quả đạn bắn đi. Nó chiến đấu như thiên thần hay ác quỷ giữa không trung, xé gió như một cánh chim, vẽ nên một đường cong parabol rồi giáng xuống kẻ thù đúng góc độ để tận dụng hết sức mạnh của vận tốc và trọng lượng. Đà húc của nó, nếu tính bằng đơn vị foot-tons, quả thật không thể tin nổi. Người ta từng thấy nó hạ gục một con bò bốn tuổi chỉ bằng một cú húc duy nhất vào cái trán xù xì của con vật kia. Chưa từng có bức tường đá nào đủ sức chống chọi cú lao xuống của nó; cũng chẳng có cái cây nào đủ dẻo dai để ngăn cản; nó sẽ nghiền nát chúng thành những mảnh vụn như que diêm và vùi dập cả tán lá trong bụi đất. Con quái thú cáu kỉnh và bất khả dung hòa ấy—cái tia sét sống ấy—con quái vật từ chốn u thẳm ấy, tôi đã thấy đang nằm nghỉ dưới bóng một cái cây gần đó, mơ màng những giấc mơ chinh phục và vinh quang. Chính để triệu nó ra chiến trường mà tôi đã treo ông chủ của nó theo cách vừa kể.
Sau khi hoàn tất mọi chuẩn bị, tôi đẩy cho cái “con lắc cậu ruột” một nhịp đu đưa nhẹ, rồi lui về ẩn sau một tảng đá gần đó, cất lên một tiếng kêu dài, khàn khàn, với nốt cuối lụi dần bị át bởi âm thanh chẳng khác nào tiếng mèo chửi rủa vọng ra từ trong bao tải. Ngay tức thì, con cừu khét tiếng ấy bật dậy và trong chớp mắt đã nắm bắt toàn bộ cục diện chiến trận. Chỉ trong giây lát, nó đã tiến lại, giậm chân thình thịch, chỉ còn cách kẻ thù đung đưa kia chừng năm mươi thước, kẻ mà lúc thì thoái lui, lúc lại lao tới, như đang khêu gợi trận chiến. Bất ngờ, tôi thấy đầu nó chúi xuống đất như bị sức nặng của đôi sừng khổng lồ đè nặng; rồi một vệt trắng, gợn sóng, nhòe mờ của con cừu vạch ra từ điểm ấy, bay theo một đường ngang cho đến khi còn cách đối thủ chừng bốn thước, liền đột ngột bắn vút lên. Trước khi vệt sáng kia kịp tan biến nơi nó khởi phát, tôi đã nghe một tiếng va chạm kinh hoàng và một tiếng thét chói tai, trong khi ông chú tội nghiệp của tôi bắn vút lên, dây thừng trùng xuống, cao hơn cả cành cây nơi ông ta treo. Lập tức sợi dây căng giật lại, chặn đứng đà bay, và ông ta lại vút ngược về bên kia theo một vòng cung nghẹt thở. Con cừu thì ngã nhào, chỉ thấy một mớ lẫn lộn sừng, lông và chân, nhưng rồi cũng lồm cồm gượng dậy, lẩn tránh mỗi khi đối thủ sà xuống, vừa lùi vừa lắc đầu, giậm chân loạn xạ. Khi đã lùi được quãng đường bằng với chỗ xuất phát cú húc, nó dừng lại, gục đầu như đang cầu nguyện cho chiến thắng, rồi lại lao tới, vệt trắng mờ nhòe như trước, kết thúc bằng một cú hất vút lên. Lần này, đường lao của nó vuông góc với lần trước, và vì quá nôn nóng, nó đã kịp húc trúng kẻ thù ngay trước khi ông ta chạm đáy vòng cung. Thế là ông chú của tôi quay vòng vòng trong một vòng tròn ngang, bán kính chừng bằng nửa sợi dây, mà tôi quên chưa kể là dài gần hai chục thước. Tiếng thét của ông, lúc dồn dập khi tới gần, lúc lịm dần khi lùi xa, khiến tốc độ quay chóng mặt kia dễ nghe bằng tai hơn là trông thấy bằng mắt. Rõ ràng ông ta chưa trúng đòn chí tử. Tư thế bó gối trong bao tải cùng độ cao treo cách mặt đất buộc con cừu chỉ có thể tấn công phần chân và cuối lưng ông. Giống như một gốc cây mọc trúng mạch khoáng độc, ông chú đáng thương của tôi đang chết dần từ dưới lên.
Sau cú húc thứ hai, con cừu không còn chịu lùi nữa. Ngọn lửa chiến trận bùng cháy trong tim nó; bộ não nó ngây ngất vì men say tranh đấu. Như một tay quyền anh trong cơn cuồng nộ quên hết kỹ năng, chỉ đánh loạn xạ ở cự ly gần, con thú giận dữ cố gắng vươn tới kẻ địch thoáng qua bằng những cú nhảy vụng về, đôi khi chạm được chút ít, nhưng thường là tự ngã sấp vì quá hăng hái. Thế nhưng, khi đà quay của con người chậm lại, vòng tròn hẹp dần và thấp dần, gần hơn với mặt đất, thì chiến thuật ấy dần hiệu quả, mang lại những tiếng thét thấu trời hơn, mà tôi vô cùng thích thú.
Đột nhiên, như thể kèn lệnh hưu chiến vừa vang lên, con cừu ngưng trận, thong thả bỏ đi, vừa đi vừa nhăn nhó cái mũi khoằm to tướng rồi lại vuốt thẳng nó, thỉnh thoảng ngắt một bụi cỏ nhai ngẫm nghĩ. Có vẻ nó đã mệt mỏi trước tiếng kèn dấy loạn của chiến tranh và quyết định rèn gươm thành lưỡi cày để gieo trồng những nghệ thuật của hòa bình. Cứ thế, nó bước đều rời xa chiến địa, cho đến khi cách chừng một phần tư dặm. Tại đó, nó dừng lại, quay lưng về phía kẻ thù, vừa nhai lại vừa lơ mơ như nửa ngủ. Tuy vậy, tôi vẫn nhận thấy đôi lúc nó khẽ ngoảnh đầu, như thể sự thờ ơ kia chỉ là giả vờ chứ không thật sự.
Trong lúc đó, những tiếng la hét của chú William đã dần lắng xuống cùng với sự kiệt sức, và từ ông chẳng còn vang lên gì ngoài những tiếng rên rỉ dài, trầm thấp, xen kẽ là tiếng gọi tên tôi trong những âm điệu van nài, mà với tôi lại nghe vô cùng dễ chịu. Rõ ràng ông hoàn toàn không hề biết chuyện gì đang xảy ra với mình, và bị một nỗi kinh hoàng khôn tả chiếm lấy. Khi cái chết đến trong lốt bí ẩn, nó quả thật là khủng khiếp.
Dần dần, những đợt đung đưa của chú chậm lại, và cuối cùng ông treo lơ lửng bất động. Tôi bước tới và định cho ông nhát dao ân huệ thì bỗng nghe và cảm nhận một loạt những chấn động mạnh, làm mặt đất rung lên như một chuỗi cơn động đất nhẹ. Quay đầu về phía con cừu, tôi thấy một đám bụi mù đang lao về phía mình với tốc độ không thể tưởng tượng nổi, gây một cảm giác kinh hoàng. Khi còn cách tôi chừng ba mươi thước, nó bất chợt khựng lại, và từ phía gần đó, tôi thấy một vật trắng lớn lao vụt lên không trung, thoạt nhìn cứ tưởng một con chim khổng lồ.
Sự vút lên của nó nhẹ nhàng, êm ái, đều đặn đến mức tôi không sao tin nổi tốc độ kỳ lạ kia, mà chỉ ngẩn ngơ trước vẻ duyên dáng của nó. Cho đến tận bây giờ, trong trí tôi vẫn lưu lại cảm giác rằng đó là một sự chuyển động chậm rãi, khoan thai, như thể con cừu ấy—vâng, chính là con cừu đó—được một sức mạnh nào khác nâng đỡ, dìu qua từng chặng của chuyến bay bằng một sự ân cần và cẩn trọng vô biên.
Đôi mắt tôi dõi theo nó, ngập tràn khoái cảm, nhất là khi nghĩ đến nỗi kinh hoàng trước đó khi đối diện với nó dưới mặt đất. Cứ thế, con vật cao quý ấy lướt đi, vươn lên, đầu cúi gập xuống gần như chạm vào đầu gối, đôi chân trước quặt về sau, còn hai chân sau buông thõng như dáng của một con diệc đang sải cánh.
Ở độ cao chừng bốn, năm chục thước—theo ước đoán của tôi—nó đạt đến đỉnh điểm và dường như dừng lại trong thoáng chốc, rồi bất ngờ chúi xuống, giữ nguyên tư thế các phần cơ thể, lao thẳng xuống theo một đường dốc ngày càng gắt, tốc độ càng lúc càng tăng. Nó lướt ngay trên đầu tôi với âm thanh như một phát đại bác xé gió, và giáng thẳng xuống chú tôi tội nghiệp, gần như trúng ngay chính đỉnh đầu!
Cú va chạm kinh hoàng đến nỗi không chỉ cổ chú gãy lìa mà cả sợi dây thừng cũng đứt theo; thân thể người xấu số bị ép nát bét dưới cú húc khủng khiếp của con cừu thiên thạch đó. Cú chấn động mạnh đến mức làm ngừng tất cả đồng hồ từ Lone Hand đến chỗ của Dutch Dan, và giáo sư Davidson, tình cờ ở gần đó, lập tức giải thích rằng những rung chấn này truyền theo hướng bắc xuống nam.
Tóm lại, tôi không thể không nghĩ rằng, xét về mức độ tàn bạo, vụ giết chú William của tôi hiếm khi bị vượt qua.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch và giới thiệu
Tháng 8 / 2025
Nguồn:
https://americanliterature.com/author/ambrose-bierce/short-story/my-favourite-murder/
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire