mercredi 27 août 2025

Nguy hiểm khi nằm trên giường

 

NGUY HIỂM KHI NẰM TRÊN GIƯỜNG 

Mark Twain

( 1835 - 1910 )

 


Tên thật: Samuel Langhorne Clemens
Mark Twain lớn lên ở thị trấn Hannibal bên dòng sông Mississippi, nơi đã trở thành bối cảnh cho nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông.

Ông từng làm nhiều nghề: thợ in, thủy thủ lái tàu trên sông Mississippi, thợ mỏ, và sau đó là nhà báo.
Bút danh Mark Twain xuất phát từ thuật ngữ hàng hải “mark twain” (nghĩa là độ sâu hai sải – khoảng 3,6 mét – đủ an toàn cho tàu đi qua).

   Mark Twain nổi tiếng với giọng văn hài hước, châm biếm và giàu tính nhân văn.

“The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County” (1865): Truyện ngắn đầu tiên đưa ông đến với công chúng.

  “The Innocents Abroad” (1869): Du ký châm biếm, rất thành công.

“The Adventures of Tom Sawyer” (1876) và đặc biệt “The Adventures of Huckleberry Finn” (1884): Hai tiểu thuyết kinh điển, thường được coi là khởi nguồn của văn học Mỹ hiện đại.

Ông cũng viết nhiều tác phẩm châm biếm xã hội, triết lý, và du ký khác, trong đó có “Life on the Mississippi” (1883), “A Connecticut Yankee in King Arthur’s Court” (1889), và hàng loạt truyện ngắn nổi tiếng như “The Danger of Lying in Bed” mà bạn vừa đọc.
Mark Twain được mệnh danh là “Cha đẻ của văn học Mỹ hiện đại” (Father of American Literature) theo lời của William Faulkner.

Văn chương của ông kết hợp ngôn ngữ đời thường, sự hóm hỉnh, và cái nhìn phê phán sâu sắc về xã hội, chủng tộc, chính trị và đạo đức. Tác phẩm của ông không chỉ được yêu thích ở Mỹ mà còn có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Twain từng trải qua nhiều biến cố tài chính (đầu tư thất bại), nhưng ông luôn giữ được tiếng tăm nhờ các chuyến diễn thuyết khắp thế giới.

Ông mất năm 1910, chỉ một ngày sau khi sao chổi Halley – từng xuất hiện vào năm ông chào đời – quay trở lại, đúng như lời tiên tri dí dỏm của chính ông:

“Tôi đến cùng sao chổi Halley vào năm 1835. Nó sẽ lại đến vào năm tới, và tôi kỳ vọng sẽ ra đi cùng nó.”


Mark Twain là một nhà văn, diễn giả và cây hài tài năng, với chính cá tính của ông tỏa sáng trong từng tác phẩm. Khi văn chương của ông ngày càng được ưa chuộng, ông trở thành một nhân vật công chúng và biểu tượng Mỹ, với các tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu chủ nghĩa hiện thực. Trong bối cảnh đất nước trẻ trung đang mở rộng về diện tích nhưng chưa phát triển văn hóa theo cách mà giới thượng lưu châu Âu mong muốn, việc chê bai “người Mỹ xấu xí” trở thành mốt thời thượng. Twain, trong những chuyến du hành nước ngoài, đã dùng trí tuệ và sự hài hước để chinh phục khán giả, với những câu nói châm biếm nổi tiếng như:


“Ở Paris, họ chỉ biết trố mắt nhìn khi tôi nói chuyện với họ bằng tiếng Pháp; tôi chưa bao giờ thành công trong việc khiến mấy kẻ ngốc đó hiểu được chính ngôn ngữ của họ.

Twain lớn lên ở Hannibal, Missouri, và sau này đã dùng chính nơi đó làm bối cảnh cho hai tác phẩm nổi tiếng nhất của mình: Huckleberry Finn và Tom Sawyer. Ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò thợ xếp chữ tại một tờ báo, rồi làm thợ in, hoa tiêu tàu sông, và sau đó thử vận may với nghề đào vàng. Khi không tìm thấy kho báu như mong đợi, ông quay sang nghề báo chí, và cũng chính trong thời gian đó ông đã viết truyện ngắn mở đường cho sự nghiệp của mình: Con ếch nhảy nổi tiếng ở Quận Calaveras (The Celebrated Jumping Frog of Calaveras County) — một câu chuyện đã khiến tôi say mê khi được một thầy giáo đọc to trong lớp tiểu học. Trẻ em ngày nay cũng có thể thấy hứng thú khi đọc Mark Twain: Tiểu sử dành cho trẻ em.

Mặc dù sự nghiệp viết văn đã đem lại cho Twain nhiều của cải, thì việc ông thử sức làm “nhà đầu tư quý ông” lại khiến ông khánh kiệt. Ông đã mất phần lớn lợi nhuận từ văn chương và cả phần lớn tài sản thừa kế của vợ vào nhiều khoản đầu tư khác nhau, mà tốn kém nhất là việc ông hậu thuẫn cho một loại máy sắp chữ đầy triển vọng. Chiếc máy này có tiềm năng lớn nhưng lại thất bại trên thị trường vì thường xuyên hỏng hóc. Twain được cứu vãn về mặt tài chính nhờ sự giúp đỡ của một ân nhân thuộc Standard Oil, Henry Huttleston Rogers. Rogers đã khéo léo dẫn dắt Twain qua khỏi giai đoạn phá sản và thậm chí còn khuyên ông chuyển bản quyền sang cho vợ để bảo vệ tiền nhuận bút khỏi các chủ nợ. Nhờ doanh thu từ sách và các chuyến diễn thuyết, Twain phục hồi lại được tình hình tài chính, và cuối cùng đã trả hết nợ cho mọi chủ nợ. Mark Twain cũng được nhớ đến nhiều nhờ những câu châm ngôn dí dỏm, dưới đây là một số ví dụ tiêu biểu:

Nhiều thứ nhỏ bé đã trở nên vĩ đại nhờ được quảng cáo đúng cách.
Ít điều nào khó chịu đựng hơn sự phiền toái của một tấm gương tốt.
Sự tao nhã là nghệ thuật che giấu việc ta nghĩ nhiều về bản thân và nghĩ ít về người khác.
Tất cả những gì bạn cần trong đời là sự ngu dốt và tự tin; rồi thành công sẽ chắc chắn đến.
Con người là loài duy nhất biết đỏ mặt. Hoặc cần phải đỏ mặt.
Cần có cả kẻ thù lẫn bạn bè hợp tác với nhau mới có thể làm hại bạn: kẻ thù để vu khống, bạn bè để truyền tin.
Khi còn trẻ, tôi có thể nhớ bất cứ điều gì, dù nó đã xảy ra hay chưa.
Giả sử anh là một kẻ ngốc, và giả sử anh là một nghị sĩ. Nhưng tôi đang tự lặp lại mình.
Thật kỳ lạ khi dũng khí thể xác lại phổ biến trên thế gian, còn dũng khí đạo đức thì hiếm hoi.
Tốt hơn hết hãy ngậm miệng và để người ta nghĩ rằng anh là kẻ ngốc, còn hơn mở miệng ra và xóa tan mọi nghi ngờ.
Nếu bạn nhặt một con chó đói rách và khiến nó sung túc, nó sẽ không cắn bạn. Đây chính là sự khác biệt căn bản giữa con chó và con người.
Tôi thấy hân hoan vì có thể trả lời ngay. Tôi nói: “Tôi không biết.”
Tôi hoàn toàn phản đối đấu súng tay đôi. Nếu ai đó thách thức tôi, tôi sẽ tử tế và tha thứ mà nắm tay anh ta, dắt đến một nơi yên tĩnh và giết anh ta ở đó.
Tôi chưa bao giờ để chuyện đi học cản trở việc học hành của mình.
Tôi không dự tang lễ, nhưng đã gửi một bức thư dễ thương nói rằng tôi tán thành nó.
Hãy nắm chắc sự thật trước, rồi sau đó bạn có thể bóp méo nó tùy thích.
Hư cấu buộc phải gắn với khả năng xảy ra. Sự thật thì không.
Giáo dục: cái giúp người khôn ngoan nhận ra, và giúp kẻ ngu dốt che giấu, ranh giới mênh mông của sự hiểu biết mình.
Bằng cách cố gắng, ta dễ dàng học được cách chịu đựng nghịch cảnh — tất nhiên là nghịch cảnh của người khác.
Một người Anh là kẻ làm điều gì đó chỉ vì nó đã từng được làm trước đó. Một người Mỹ là kẻ làm điều gì đó chỉ vì nó chưa từng được làm.

Và như Ernest Hemingway từng nhận xét một cách đầy sáng suốt:

“Toàn bộ nền văn học Mỹ hiện đại đều bắt nguồn từ một cuốn sách của Mark Twain mang tên Huckleberry Finn.


Mark Twain, nhà văn được mệnh danh là “cha đẻ của văn học Mỹ hiện đại”, không chỉ nổi tiếng bởi các tiểu thuyết kinh điển như The Adventures of Huckleberry Finn, mà còn bởi những truyện ngắn châm biếm hóm hỉnh, phản ánh cái nhìn sắc sảo về xã hội. Truyện ngắn The Danger of Lying in Bed là một minh chứng điển hình cho nghệ thuật ấy. Bằng sự hài hước và logic “ngược đời”, Twain đã biến một đề tài tưởng chừng nhỏ bé – chuyện mua vé bảo hiểm tai nạn khi đi tàu – thành một suy ngẫm sâu xa về nỗi sợ hãi, thói quen con người, và cách ta nhìn nhận nguy hiểm trong đời sống.

Ngay từ đầu truyện, nhân vật chính gây bất ngờ khi từ chối mua bảo hiểm cho ngày đi tàu, nhưng lại mua cho… ngày ở nhà. Thay vì lo sợ tai nạn đường sắt – thứ vốn thường xuyên được báo chí thổi phồng – ông lại sợ cái giường trong nhà mình. Lập luận này tưởng vô lý nhưng lại được Twain khai triển bằng một chuỗi thống kê “có lý”, dẫn đến kết luận đầy hài hước: nhiều người chết trong giường hơn chết vì tai nạn đường sắt. Nghệ thuật châm biếm ở đây nằm ở việc đảo ngược logic thông thường, qua đó khiến độc giả phải bật cười và cùng lúc nhận ra sự phi lý trong cách ta đánh giá rủi ro.

Vào cuối thế kỷ XIX, báo chí Mỹ thường giật tít rùng rợn về tai nạn tàu hỏa, khiến công chúng hoang mang. Twain đã chỉ ra rằng, mặc dù những tai nạn này có thật, xác suất tử vong vì chúng lại nhỏ hơn nhiều so với cái chết “tự nhiên” trong giường ngủ. Ẩn sau giọng văn dí dỏm là một phê phán nghiêm túc: con người thường bị dẫn dắt bởi truyền thông, lo sợ những rủi ro hiếm hoi, trong khi lại lơ là với những nguy cơ gần gũi và chắc chắn hơn.

Thông điệp trung tâm của truyện là: cái chết là điều không thể tránh, dù ta ở trên đường ray hay trên giường ngủ. Nhưng thay vì nhìn nhận bằng bi kịch, Twain chọn giọng điệu khôi hài, tự giễu. Ông biến nỗi sợ hãi muôn thuở thành trò đùa, khuyên người đọc “hãy tránh giường ngủ” như thể đó là hiểm họa lớn nhất. Qua đó, Twain cho thấy sức mạnh của tiếng cười: nó không loại bỏ cái chết, nhưng giúp con người nhẹ nhõm và can đảm hơn khi đối diện với nó.

Ở tầng sâu, câu chuyện còn gợi nhắc đến một nghịch lý trong đời sống hiện đại: ta thường chi nhiều tiền để mua bảo hiểm, phòng ngừa rủi ro xa vời, mà quên mất rằng cái chết là điều chắc chắn, nằm ngay trong sự bình thường nhất. Twain phơi bày sự bất hợp lý ấy không nhằm phủ nhận nhu cầu an toàn, mà để cảnh tỉnh: hãy tỉnh táo trước những nỗi sợ bị “đóng gói” và bán cho chúng ta.

The Danger of Lying in Bed không chỉ là một mẩu chuyện hài hước mà còn là một bài học triết lý nhẹ nhàng. Qua giọng văn trào phúng, Mark Twain buộc độc giả nhận ra sự phi lý trong cách con người đối diện với hiểm nguy và cái chết. Truyện khẳng định một chân lý giản dị: cuộc sống vốn đầy bất trắc, nhưng thay vì bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi, hãy mỉm cười trước nghịch cảnh. Chính tiếng cười – chứ không phải sự phòng ngừa thái quá – mới là “bảo hiểm” thật sự cho tâm hồn.



* * *

Người đàn ông ở quầy bán vé nói:

“Có muốn mua thêm một vé bảo hiểm tai nạn không?”

“Tôi nghĩ kỹ rồi,” tôi đáp, “thôi, tôi không lấy. Hôm nay tôi sẽ đi đường sắt suốt ngày. Nhưng ngày mai tôi không đi đâu cả. Cho tôi một vé bảo hiểm cho ngày mai.”

Người bán vé trố mắt:

“Nhưng đây là bảo hiểm tai nạn, mà nếu ông đi tàu hỏa thì…”

“Nếu tôi đi tàu hỏa thì tôi không cần. Thứ tôi sợ, chính là nằm nhà trên giường.”

Tôi đã nghiên cứu kỹ chuyện này. Năm ngoái tôi đi hơn hai vạn dặm, gần như toàn bộ bằng đường sắt; năm trước đó, tôi đi hơn hai vạn rưỡi dặm, một nửa đường biển, một nửa đường sắt; còn năm trước nữa, tôi đi chừng một vạn dặm, toàn bộ bằng đường sắt. Nếu cộng thêm những chuyến lặt vặt nữa thì trong ba năm tôi đã đi chừng sáu vạn dặm. Mà chưa từng gặp một tai nạn nào!

Một thời gian dài, sáng nào tôi cũng tự nhủ:

“Thôi rồi, hôm qua thoát, thì hôm nay xác suất dính chắc cao hơn. Phải khôn ngoan mua vé bảo hiểm tai nạn thôi.”

Thế là tôi mua, và chắc như đinh đóng cột, ngày nào cũng trúng “tờ vé trắng” – tối về nguyên vẹn, không một khớp xô, không một xương gãy. Cái kiểu phiền toái hằng ngày ấy khiến tôi chán, tôi chuyển sang mua vé theo tháng. Tôi tự nhủ: “Một người không thể nào mua cả chục tờ trắng trong một xấp được.”

Nhưng tôi lầm. Trong cả tập vé đó không có một tờ trúng. Báo chí thì ngày nào cũng đăng đầy rẫy tai nạn đường sắt – cả bầu trời báo chí mù mịt những tin ấy – nhưng tuyệt nhiên chẳng bao giờ nó đến với tôi. Tôi nhận ra mình đã tốn không ít tiền cho cái trò bảo hiểm mà chẳng được gì. Sinh nghi, tôi bắt đầu đi tìm xem có ai từng trúng “giải độc đắc” chưa. Tôi gặp không ít người đã mua, nhưng không một ai từng gặp tai nạn hay nhận được một xu nào. Tôi ngừng mua vé, rồi ngồi tính toán. Kết quả thật kinh hãi: nguy hiểm không nằm ở việc đi lại, mà ở việc nằm nhà!

Tôi lục số liệu thống kê, mới té ngửa ra: sau bao nhiêu tít báo chói lóa về thảm họa đường sắt, thì trong vòng mười hai tháng qua, chưa đến ba trăm người thiệt mạng vì những tai nạn đó. Tuyến Erie bị liệt vào hạng “tử thần” nhất, giết chết bốn mươi sáu – hay hai mươi sáu, tôi không nhớ rõ, chỉ biết nó gấp đôi bất kỳ tuyến nào khác. Nhưng nghĩ kỹ thì Erie là tuyến đường dài khủng khiếp, vận chuyển nhiều hành khách hơn hẳn các tuyến khác; vậy nên số người chết gấp đôi cũng chẳng có gì lạ.

Tính tiếp, hóa ra giữa New York và Rochester, Erie chạy tám chuyến tàu khách mỗi chiều mỗi ngày – tổng cộng mười sáu chuyến; chở trung bình sáu nghìn người mỗi ngày. Trong sáu tháng, tức khoảng một triệu người – bằng dân số thành phố New York. Mà Erie chỉ giết từ 13 đến 23 người trong số một triệu đó; còn ngay trong cùng thời gian ấy, trong một triệu dân New York, có 13.000 người chết… trên giường! Da tôi nổi gai, tóc dựng ngược. Tôi kêu lên: “Thật kinh hoàng! Nguy hiểm không phải đi tàu, mà là tin vào những cái giường chết người kia. Tôi sẽ không bao giờ ngủ trên giường nữa.”

Tôi mới tính mới một nửa chiều dài tuyến Erie thôi. Rõ ràng toàn tuyến phải chở ít nhất mười một hay mười hai ngàn hành khách mỗi ngày. Ở Boston cũng có nhiều tuyến ngắn, mỗi tuyến chở bằng nửa chừng ấy; mà những tuyến như vậy ở khắp nước thì nhiều vô số. Vậy thì giả định mỗi tuyến đường sắt ở Mỹ chở trung bình 2.500 hành khách một ngày là khá chính xác. Cả nước có 846 tuyến đường sắt, nhân lên là 2.115.000. Tức các đường sắt Mỹ vận chuyển hơn hai triệu người mỗi ngày, hay 650 triệu người mỗi năm, chưa kể Chủ nhật. Mà họ làm được đấy – chắc chắn thế – dù tôi không hiểu nổi họ kiếm đâu ra ngần ấy “nguyên liệu sống”; bởi tra hết các bản điều tra dân số, tôi thấy cả nước Mỹ thiếu đến sáu trăm mười triệu dân mới đủ con số đó. Có lẽ họ phải cho những hành khách cũ đi lại nhiều lần thôi.

San Francisco có dân số bằng một phần tám New York; mỗi tuần có 60 người chết ở đó, và 500 người chết ở New York – nếu “gặp may.” Tức San Francisco 3.120 người chết mỗi năm, New York tám lần số ấy – khoảng 25.000 hoặc 26.000. Tình trạng sức khỏe của hai nơi tương đương nhau. Vậy ta có thể coi như một giả định hợp lý rằng khắp cả nước, trong mỗi một triệu dân thì có 25.000 người chết mỗi năm. Nghĩa là một phần bốn mươi dân số. Tính ra, cả nước có khoảng một triệu người chết hàng năm. Trong số này, chừng mười đến mười hai ngàn người chết do bị đâm, bắn, chết đuối, treo cổ, đầu độc, hoặc những cái chết bạo lực khác – như bị cháy do đèn dầu lửa hay váy vòng, bị sập mỏ than, rơi từ mái nhà, lọt qua sàn nhà thờ hay giảng đường, uống thuốc dỏm, hoặc tự tử bằng nhiều cách. Tuyến Erie giết 23 đến 46; còn 845 tuyến kia trung bình mỗi tuyến chỉ giết được… một phần ba người; còn lại, hợp thành con số khủng khiếp 987.631 xác chết, chết một cách “tự nhiên” trên giường!

Xin miễn cho tôi khỏi phải mạo hiểm thêm với mấy cái giường ấy nữa. Đường sắt thế là đủ an toàn cho tôi rồi.

Và lời khuyên của tôi dành cho tất cả mọi người là: Đừng ở nhà nhiều hơn mức thật sự cần thiết; nhưng khi buộc phải ở nhà một thời gian, hãy mua một gói vé bảo hiểm đó và thức suốt đêm. Không bao giờ quá cẩn thận được cả.

[Người ta có thể thấy ngay tại sao tôi đã trả lời anh bán vé như tôi đã ghi lại ở đầu bài viết này.]

Bài học đạo đức của thiên tản văn này là: những người thiếu suy nghĩ đã phàn nàn quá nhiều và không công bằng về cách điều hành đường sắt ở Hợp Chúng Quốc. Khi ta nghĩ đến việc ngày cũng như đêm, suốt cả năm, có đến mười bốn ngàn chuyến tàu các loại, chở đầy sự sống và tiềm ẩn cái chết, gầm vang khắp mặt đất, thì điều kỳ diệu không phải là chúng giết ba trăm người trong vòng mười hai tháng, mà là chúng không giết ba trăm lần ba trăm người kia mới là lạ!



THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 8 / 2025

Nguồn:


https://americanliterature.com/author/mark-twain/short-story/the-danger-of-lying-in-bed/


dimanche 24 août 2025

Một vụ đắm tàu tâm lý

 

MỘT VỤ ĐẮM TÀU TÂM LÝ

Ambrose Bierce

( 1842 - 1913 )

 



Ambrose Bierce sinh năm 1842 tại Ohio, là con thứ 10 trong một gia đình có tới 13 người con. Lúc ông còn nhỏ, gia đình chuyển đến Warsaw, rồi Elkhant, Indiana. Cha mẹ ông không giàu có gì nhưng rất ham mê văn chương, và ảnh hưởng giáo dục quan trọng nhất 

Ambrose Bierce thu nhận là từ tủ sách trong nông trại của gia đình.  

Năm 17 tuổi, ông vào học ở Học viện Quân sự Kentucky, sớm hoà nhập với lối sống và kỷ luật quân đội. Khi sắp xảy ra Nội chiến Hoa Kỳ, ông rời học viện và trở về Indiana (1860).

Ông gia nhập quân đội ngay sau khi Tổng thống Lincoln kêu gọi 75000 quân tình nguyện, và trực tiếp chiến đấu tại nhiều mặt trận. Với quân hàm trung uý, ông phục vụ trong bộ chỉ huy của tướng W.B. Hazen, với tư cách kỹ sư địa hình, nghiên cứu địa hình và chuẩn bị bản đồ hành quân. Tháng 6/1864 ông bị thương và năm sau thì giải ngũ.

 

Trở lại đời sống dân sự, ông bắt đầu theo đuổi niềm đam mê viết lách thời trẻ bằng việc viết báo, ban đầu là những tiểu luận và chuyện phiếm. Ít lâu sau, ông tham gia ban biên tập tạp chí News-Letters, có cơ hội gặp và làm quen với nhiều nhà báo, nhà văn nổi tiếng, trong đó có Mark Twain.


Cuối thập niên 1880, ông chuyển dần sang viết truyện ngắn và công bố tác phẩm đầu tiên The Haunted Valley ( Thung lũng bị ma ám ) trên tờ Overland Monthly. 

Năm 1872, ông thôi làm ở tờ News-Letters rồi cùng vợ sang Anh quốc sinh sống. Nơi đây, ông tiếp tục sáng tác và thử nghiệm thể loại văn châm biếm. Vào cuối những năm 1880, ông quay về San Francisco, bắt đầu viết cuốn The Devil’s Dictionary, kiểu như “ từ điển tra ngược “, cho những định nghĩa lạ và vui. Cũng thời gian này, ông tập trung viết về đề tài cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.


Năm 1888, hai vợ chồng ông ly dị. Năm sau con trai 18 tuổi của ông chết. Những chuyện buồn này, tuy thế, không ngăn cản mạch sáng tác của ông. Ông xuất bản tác phẩm quan trọng Tales of Soldiers and Civilians ( Truyện kể về người lính và thường dân ), là tuyển tập những truyện ngắn về đề tài chiến tranh, có tiếng vang lớn trên văn đàn.

Mùa thu năm 1913, ông đi thăm lại những chiến trường ngày trước đã tham gia. Ông đi qua biên giới nước Mexico, trong bức thư gửi từ Chihuahua đề ngày 26/12 năm đó, ông kết thúc với dòng chữ: “ Về phần tôi, ngày mai tôi sẽ rời nơi đây để đi tới một nơi chưa biết. “ Và sau đó ông biến mất. Có nhiều tin đồn, nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của ông, nhưng đến nay không có thông tin chính xác và rõ ràng về những ngày cuối cùng của con người bí ẩn này.


Vừa là nhà báo, vừa là nhà văn, Ambrose Bierce sáng tác nhiều thể loại, tiểu luận, châm biếm, thơ, và nổi tiếng hơn cả với truyện ngắn. Hai mảng đề tài lớn trong truyện ngắn Ambrose Bierce là chiến tranh và truyện kinh dị.


Ambrose Bierce, bậc thầy của truyện ngắn Mỹ thế kỷ XIX, nổi tiếng với bút pháp lạnh lùng, hoài nghi, và ám ảnh những hiện tượng siêu hình. Trong “A Psychological Shipwreck”, ông dựng nên một câu chuyện tưởng chừng đơn giản về một vụ đắm tàu, nhưng thực chất lại là một cuộc du hành kỳ lạ trong cõi tâm linh, nơi ranh giới giữa thực tại và ảo tưởng bị xóa nhòa. Truyện vừa mang dáng dấp của một tường thuật phiêu lưu, vừa gợi nên chiều sâu triết lý về số phận, về mối liên hệ bí ẩn giữa con người và định mệnh.

Người kể chuyện, William Jarrett, quyết định đi tàu buồm Morrow thay vì tàu hơi nước City of Prague. Trên Morrow, anh quen biết Janette Harford, cô gái trẻ gắn với một người hầu da đen và một quá khứ lạ lùng. Giữa Jarrett và Janette nảy sinh một sự hấp dẫn mơ hồ, không hẳn là tình yêu mà như một sức hút định mệnh. Trong một khoảnh khắc kỳ dị khi nàng nhìn vào mắt anh, Jarrett rơi vào một trạng thái “xuất hồn”, nơi anh cảm thấy vô số linh hồn đang nhìn mình qua đôi mắt nàng. Sau đó, Morrow gặp bão, chìm xuống biển; Janette bị cuốn trôi, Jarrett ngất đi.

Khi tỉnh dậy, Jarrett bất ngờ thấy mình đang ở trên City of Prague, con tàu anh vốn đã từ chối, bên cạnh bạn mình, Gordon Doyle. Doyle khẳng định Jarrett đã đi trên tàu này suốt ba tuần, hoàn toàn khỏe mạnh. Càng kinh ngạc hơn, Doyle tiết lộ rằng chính anh mới là vị hôn phu của Janette, và cô đang đi trên Morrow để tránh bị phát hiện. Sau cùng, khi họ cập cảng New York, người ta không bao giờ còn nghe tin tức gì từ con tàu Morrow.

Câu chuyện mở ra một nghịch lý: Jarrett vừa là nhân chứng của vụ chìm tàu Morrow, vừa là hành khách an toàn trên City of Prague. Sự song trùng này được giải thích phần nào qua đoạn trích trong cuốn Denneker’s Meditations mà cả Janette và Doyle đều sở hữu: có những linh hồn cùng huyết thống, khi đường đời giao nhau, sẽ bị cuốn hút, đồng hành một thời gian, trong khi thể xác vẫn đi trên những lộ trình riêng biệt mà không hay biết.

Jarrett, trùng tên với một người đàn ông Nam Carolina gắn bó với gia đình Janette, dường như là “họ hàng xa” — một mối dây huyết thống mờ nhạt nhưng đủ để tạo ra sự liên kết tâm linh. Vì thế, trong khoảnh khắc đặc biệt trên Morrow, linh hồn anh tách rời khỏi thể xác và “du hành” cùng Janette, chứng kiến cả sự hủy diệt của con tàu. Nhưng trên bình diện thực tại, thân xác anh vẫn đi trên City of Prague.

Như vậy, “con tàu đắm” ở đây vừa là sự kiện có thực (Morrow biến mất), vừa là “vụ đắm tàu tâm lý” — cú sốc của tâm thức, khi con người trải nghiệm một thực tại song song, nơi linh hồn bị lôi kéo vượt ra ngoài logic của thân xác.

Mối quan hệ giữa Jarrett và Janette mang màu sắc mơ hồ, phi tình dục và phi lãng mạn theo nghĩa thông thường. Đó là một sự gần gũi định mệnh, một “tương giao linh hồn” hơn là tình yêu. Cái chết của Janette (hay chính xác hơn, sự mất tích vĩnh viễn cùng Morrow) biến mối liên hệ ấy thành một ám ảnh không thể giải thích.


Bierce cố tình để lại khoảng trống: Jarrett đã thật sự trải qua vụ đắm tàu, hay chỉ là một giấc mộng kỳ bí trong lúc đi tàu? Janette thực sự biến mất cùng Morrow, hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng bị ám ảnh bởi những trang sách siêu hình? Tính chất mơ hồ ấy tạo nên bi kịch: một tình cảm kỳ lạ vừa mới chớm đã bị nuốt chửng bởi hư vô, để lại trong Jarrett một nỗi trống rỗng không thể lấp đầy.


 Ý nghĩa biểu tượng

Con tàu Morrow: tượng trưng cho cõi vô thức, nơi Jarrett trải nghiệm sự tan rã, mất mát và cái chết.

City of Prague: biểu tượng cho cõi ý thức, an toàn và hợp lý, nhưng lại nghèo nàn về cảm xúc.

Janette Harford: hiện thân của “linh hồn đồng điệu”, một nửa bóng mờ mà Jarrett chỉ có thể gặp trong miền giao thoa tinh thần, không bao giờ trong đời thực.

Denneker’s Meditations: chiếc chìa khóa triết học mở ra giả thuyết về sự song hành của linh hồn và thân xác, giải thích nhưng cũng đồng thời che mờ mọi ranh giới giữa thực và ảo. Ambrose Bierce thường viết về chiến tranh, cái chết, sự phi lý và hư vô. Trong “A Psychological Shipwreck”, ông không miêu tả những cảnh chém giết, mà khai thác chính sự mong manh của ý thức con người trước định mệnh. Jarrett trở thành kẻ sống sót — nhưng là một kẻ sống sót bị ám ảnh, kẹt giữa hai thực tại không dung hòa được. Bi kịch của anh không phải là cái chết, mà là sống sót với ký ức của một cái chết đã chứng kiến.


Tác phẩm, vì thế, không chỉ là một câu chuyện siêu nhiên, mà còn là một ẩn dụ sâu sắc: con người, trong khoảnh khắc, có thể thoát khỏi thân xác và trải nghiệm những chiều kích khác của tồn tại, nhưng khi quay lại thực tại, họ chỉ còn lại nỗi ám ảnh — một “vụ đắm tàu tâm lý” trong chính cõi lòng mình.



* * *


Vào mùa hè năm 1874, tôi có mặt ở Liverpool, nơi tôi đến vì công việc của hãng buôn Bronson & Jarrett, New York. Tôi là William Jarrett; đối tác của tôi là Zenas Bronson. Công ty đã phá sản vào năm ngoái, và không chịu nổi cú ngã từ giàu sang xuống nghèo túng, ông ấy đã qua đời.


Khi hoàn tất công việc và cảm thấy sự mệt mỏi, kiệt sức vốn luôn đi kèm sau những chuyến đi bận rộn, tôi nghĩ rằng một chuyến hải trình dài sẽ vừa thú vị vừa có lợi cho sức khỏe. Thế nên, thay vì trở về trên một trong những con tàu hơi nước chở khách sang trọng, tôi đã đặt vé đi New York bằng chiếc thuyền buồm Morrow, trên đó tôi cũng đã gửi theo một lô hàng lớn và giá trị những món hàng mình vừa mua. Morrow là một con tàu Anh, tất nhiên, chỉ có rất ít chỗ cho hành khách. Ngoài tôi ra, chỉ có một cô gái trẻ và người hầu của cô, một phụ nữ da đen trung niên. Tôi thấy lạ khi một thiếu nữ người Anh đi xa lại được chăm sóc bởi một người hầu như vậy; sau đó, cô giải thích rằng người phụ nữ này từng được một cặp vợ chồng từ Nam Carolina gửi lại cho gia đình cô, và cả hai vợ chồng đó đã qua đời cùng ngày tại nhà cha cô ở Devonshire — một sự kiện vốn dĩ đã đủ kỳ lạ để in sâu vào trí nhớ tôi, ngay cả khi sau này, qua trò chuyện với cô gái, tôi mới biết người đàn ông ấy cũng mang tên William Jarrett, giống hệt tên tôi. Tôi vốn biết có một nhánh gia đình mình đã định cư ở Nam Carolina, nhưng về họ và lịch sử của họ thì tôi hoàn toàn không rõ.


Morrow rời cửa sông Mersey ngày 15 tháng Sáu, và trong nhiều tuần liền, chúng tôi được hưởng gió thuận và trời trong. Thuyền trưởng, một hoa tiêu tuyệt hảo nhưng chẳng có gì hơn, rất hiếm khi trò chuyện với chúng tôi ngoài bữa ăn chung trên bàn ông. Vì thế, cô gái trẻ, tên là Janette Harford, và tôi trở nên rất thân thiết. Chúng tôi gần như lúc nào cũng ở bên nhau, và do vốn là người hay suy tưởng, tôi thường cố gắng phân tích, tìm hiểu cảm giác lạ lùng mà cô gợi lên nơi tôi — một sức hút bí mật, tinh tế nhưng mạnh mẽ, không ngừng thôi thúc tôi tìm đến gần nàng. Nhưng mọi nỗ lực định nghĩa nó đều vô ích. Tôi chỉ chắc chắn một điều: đó không phải là tình yêu. Khi đã tự khẳng định điều ấy, và tin chắc rằng nàng cũng hoàn toàn vô tư như tôi, một buổi tối (tôi còn nhớ rõ là ngày 3 tháng Bảy), khi chúng tôi ngồi trên boong tàu, tôi nửa đùa nửa thật hỏi nàng liệu có thể giúp tôi tháo gỡ nỗi băn khoăn tâm lý ấy chăng.


Trong chốc lát, nàng im lặng, ngoảnh mặt đi. Tôi bắt đầu lo rằng mình đã quá thô lỗ và khiếm nhã. Rồi bất ngờ, nàng quay lại, đôi mắt nhìn thẳng vào mắt tôi, nghiêm trang. Ngay lập tức, tâm trí tôi bị chiếm lĩnh bởi một ảo giác kỳ dị, có lẽ là kỳ dị nhất từng xảy ra trong ý thức con người. Tôi có cảm giác như nàng không phải đang nhìn bằng đôi mắt ấy, mà là từ sau chúng, từ một khoảng cách vô tận phía sau. Và quanh nàng, có nhiều hình bóng khác: đàn ông, phụ nữ, trẻ con, những khuôn mặt thoáng qua với những nét quen thuộc khó nắm bắt, chen chúc quanh nàng, cùng háo hức dịu dàng nhìn tôi qua chính đôi mắt ấy. Con tàu, đại dương, bầu trời, tất cả đều biến mất. Tôi không còn ý thức gì ngoài những hình ảnh lạ thường ấy.


Rồi đột ngột, bóng tối phủ xuống tôi. Và rồi, cũng như một người dần quen với ánh sáng mờ nhạt, khung cảnh cũ của boong tàu, cột buồm và dây chão từ từ hiện ra trở lại. Cô Harford đã nhắm mắt, ngả người ra ghế, dường như đang ngủ, cuốn sách nàng đọc còn mở trên đùi. Bị thôi thúc bởi một động cơ mà chính tôi không thể nào giải thích, tôi liếc nhìn lên đầu trang sách: đó là bản in của tác phẩm hiếm và kỳ lạ Những suy tưởng của Denneker, và ngón tay trỏ của nàng đang đặt trên đoạn văn này:


“Có những kẻ được ban cho đặc ân tách rời khỏi thân xác trong một thời gian; cũng như những dòng suối giao nhau, dòng yếu sẽ bị cuốn theo dòng mạnh, thì cũng có những kẻ cùng huyết thống, đường đời giao cắt, linh hồn họ có thể đồng hành, trong khi thể xác vẫn đi theo số mệnh riêng mà chẳng hề hay biết.”


Cô Harford bỗng đứng dậy, rùng mình; mặt trời đã lặn xuống dưới đường chân trời, nhưng không hề có gió lạnh. Trời lặng gió, không một gợn mây, nhưng cũng chẳng có ngôi sao nào hiện ra. Tiếng bước chân dồn dập vang trên boong; thuyền trưởng, vừa được gọi từ dưới khoang, bước nhanh đến chỗ viên sĩ quan thứ nhất, người đang chăm chú nhìn vào khí áp kế. Tôi nghe ông ta kêu lên:


 “Lạy Chúa!”


Một giờ sau, hình dáng Janette Harford, chìm khuất trong bóng tối và màn sóng tung toé, bị xé khỏi vòng tay tôi bởi cơn lốc tàn nhẫn của con tàu đang chìm. Tôi ngất lịm đi, còn thân mình thì được buộc chặt vào những sợi dây cột của cột buồm đang trôi nổi.


Tôi tỉnh dậy trong ánh đèn dầu. Tôi nằm trên một chiếc giường trong căn phòng quen thuộc của khoang hạng nhất trên một con tàu hơi nước. Trên chiếc ghế dài đối diện ngồi một người đàn ông, nửa chừng thay đồ ngủ, tay cầm một cuốn sách. Tôi nhận ra gương mặt của bạn mình — Gordon Doyle, người tôi đã gặp ở Liverpool hôm tôi xuống tàu. Khi ấy, anh ta chuẩn bị khởi hành trên con tàu hơi nước City of Prague và đã từng khuyên tôi nên đi cùng.


Sau vài phút, tôi cất tiếng gọi tên anh ta. Anh chỉ đáp gọn:

- Ừ.

Rồi lật sang trang khác, mắt không rời khỏi cuốn sách.

- Doyle, tôi lặp lại, họ có cứu được cô ấy không? Lúc này anh mới đoái hoài nhìn tôi, mỉm cười như thể bị chọc cười. Rõ ràng anh tưởng tôi vẫn còn ngái ngủ.


- Cô ấy à? Ý anh là ai?
- Janette Harford.

Nụ cười thích thú biến thành sững sờ; anh nhìn tôi chằm chằm, không thốt lời nào.

- Rồi anh sẽ kể cho tôi sau, tôi nói tiếp, tôi chắc chắn rồi anh sẽ kể cho tôi sau.

Một lát sau tôi hỏi:

- Đây là con tàu nào?

Doyle lại nhìn tôi chằm chằm lần nữa.

- Tàu hơi nước City of Prague, khởi hành từ Liverpool đi New York, đã ra khơi ba tuần thì gãy trục. Hành khách chính: ngài Gordon Doyle. Đi kèm: gã điên William Jarrett. Hai hành khách đáng kính này cùng lên tàu, nhưng sắp sửa chia tay, vì vị khách thứ nhất kiên quyết định tống vị khách thứ hai xuống biển.

Tôi bật ngồi dậy:

- Anh muốn nói rằng tôi đã đi trên con tàu này suốt ba tuần qua?

- Ừ, gần như thế; hôm nay là mồng 3 tháng Bảy.

- Tôi có bị ốm không?

- Khỏe như vâm, bữa nào cũng ăn uống đúng giờ.

- Lạy Chúa, Doyle, ở đây có điều gì bí ẩn! Làm ơn hãy nghiêm túc. Tôi chẳng phải đã được cứu khỏi vụ đắm tàu Morrow sao?

Sắc mặt Doyle đổi khác. Anh bước lại gần, đặt mấy ngón tay lên cổ tay tôi. Một lát sau, anh hỏi rất bình tĩnh:

- Anh biết gì về Janette Harford?

- Trước hết, hãy cho tôi biết anh biết gì về cô ấy?

Doyle nhìn tôi một hồi lâu, như cân nhắc xem nên làm gì. Rồi anh lại ngồi xuống ghế dài, nói:

- Vì sao lại không kể nhỉ? Tôi đã đính hôn với Janette Harford, người tôi gặp ở London cách đây một năm. Gia đình cô ấy, một trong những gia đình giàu có nhất ở Devonshire, đã phản đối kịch liệt, và chúng tôi đã bỏ trốn. Nói đúng hơn là đang bỏ trốn, bởi hôm anh và tôi cùng đi ra bến tàu để lên con tàu này, thì cô ấy cùng người hầu trung thành, một phụ nữ da đen, đã đi ngang qua chúng ta, trên xe ngựa hướng tới tàu Morrow. Nàng không chịu đi cùng chuyến tàu với tôi, và chúng tôi thấy tốt hơn nếu nàng đi tàu buồm, để tránh bị dòm ngó và giảm thiểu nguy cơ bị phát hiện. Giờ tôi chỉ lo việc hỏng máy chết tiệt này sẽ giữ chân chúng ta quá lâu, khiến Morrow đến New York trước, và tội nghiệp thay, nàng sẽ chẳng biết đi đâu tìm tôi.

Tôi nằm im trên giường, im lặng đến mức gần như không thở. Nhưng câu chuyện ấy dường như chẳng làm Doyle bận lòng, và sau một thoáng ngừng, anh tiếp lời:


- À, nhân tiện, cô ấy chỉ là con nuôi nhà Harford thôi. Mẹ cô ấy chết ngay tại điền trang vì bị ngã ngựa trong một cuộc săn, còn người cha, phát điên vì đau khổ, đã tự vẫn ngay trong ngày hôm đó. Không ai đến nhận đứa trẻ cả, và sau một thời gian hợp lý, gia đình Harford đã nhận nuôi cô. Cô lớn lên trong niềm tin rằng mình là con ruột của họ.

- Doyle, anh đang đọc sách gì vậy?
- Ồ, tên là Những suy tưởng của Denneker. Khá kỳ lạ đấy, Janette tặng tôi cuốn này; tình cờ cô ấy có hai bản. Anh có muốn xem không?

Anh ném cho tôi cuốn sách; nó mở ra khi rơi xuống. Trên một trong những trang lộ ra có đánh dấu đoạn sau:

“Có những kẻ được ban cho đặc ân tách rời khỏi thân xác trong một thời gian; cũng như những dòng suối giao nhau, dòng yếu sẽ bị cuốn theo dòng mạnh, thì cũng có những kẻ cùng huyết thống, đường đời giao cắt, linh hồn họ có thể đồng hành, trong khi thể xác vẫn đi theo số mệnh riêng mà chẳng hề hay biết.”

- Nàng đã… nàng có… một sở thích kỳ lạ trong việc đọc sách, tôi gượng nói, cố chế ngự sự bối rối.

- Đúng vậy. Và giờ thì có lẽ anh vui lòng giải thích làm sao anh biết tên nàng cũng như tên con tàu nàng đi chứ?

 Anh đã nói về nàng trong giấc ngủ của mình,  tôi đáp.

Một tuần sau, chúng tôi được tàu kéo vào cảng New York.

Nhưng từ đó về sau, Morrow không bao giờ còn được nghe tin tức gì nữa.



THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 8 / 2025

Nguồn :


https://americanliterature.com/author/ambrose-bierce/short-story/a-psychological-shipwreck/