ALICANTE
Une orange sur la table
Ta robe sur le tapis
Et toi dans mon lit
Doux présent du présent
Fraîcheur de la nuit
Chaleur de ma vie
JACQUES PRÉVERT
(1900 - 1977)
ALICANTE
Một trái cam trên bàn
Áo em trên tấm thảm
Và em trên giường anh
Tặng phẩm ngọt ngào của hiện tại
Khí mát của đêm thanh
Hơi ấm của đời anh.
( Alicante là tên một thành phố hải cảng của Tây Ban Nha, cũng là tên một thứ rượu vang nổi tiếng sản xuất ở đây.)
Có thể nói Jacques Prévert đã vận dụng sở trường về hội họa và kịch nghệ trong bài này. Bài thơ mở đầu với hình ảnh một bức tranh tĩnh vật :
(1)Một trái cam trên bàn
(2)Áo em trên tấm thảm
Điều thú vị là tác giả đã chuyển hình ảnh này sang đoạn sau bằng sự nhắc lại mà không trùng lặp ở hai câu 4 và 5 :
(4)Tặng phẩm ngọt ngào của hiện tại
(5)Khí mát của đêm thanh
Đến câu thứ ba ( được nhắc lại ở câu thứ 6 ) không gian tĩnh đã nhường chỗ thế giới động với sự xuất hiện của nhân vật :
(3)Và em trên giường anh
………………
(6) Hơi ấm của đời anh.
Và như thế tranh vẽ đã chuyển thành màn kịch ngắn với ngôn ngữ không lời, bố cục độc đáo của bài thơ mở ra nhiều hướng cho người đọc tự cảm nhận.
*******
Sinh ra cùng với thế kỷ XX và sống đến 3/4 thế kỷ này, JACQUES PRÉVERT đã để lại cho đời những dấu vết sâu đậm. Năm 1992, mười lăm năm sau khi Ông qua đời, toàn bộ tác phẩm của Ông đã được in trong Tủ sách Pléiade, một tủ sách “sang trọng” dành cho những tác giả mà tài năng và danh tiếng đã được thừa nhận. Tập thơ Paroles ( Lời nói ) xuất bản lần đầu vào tháng 5 năm 1946, chỉ một tuần sau đã in thêm 5000 bản, đến nay vẫn còn tái bản và tính ra đã có hơn hai triệu bản in. Khắp nơi trên đất Pháp hiện nay có hàng trăm trường học mang tên Ông, chỉ tính riêng trường trung học ( collège / lycée ) có đến 309 trường.
Ngay từ năm 1925, Ông đã đồng hành cùng nhóm Siêu thực, cùng sáng tác và sinh hoạt với các nghệ sĩ của nhóm này như Raymond Queneau, Yves Tanguy, Marcel Duhamel, Louis Aragon và tất nhiên cả André Breton ; nhưng chẳng bao lâu, với bản tính thích độc lập và tự do sáng tạo, Ông đã sớm tách rời trường phái Siêu thực, tách rời mọi ràng buộc phái nhóm.
Trong thời gian từ 1932 đến 1936, Ông tham gia nhóm kịch Tháng Mười, viết nhiều vở kịch có nội dung khuynh tả, bênh vực những người bị áp bức, bóc lột. Nhóm thường trình diễn trong các khu lao động , các nhà máy, cửa hàng, đã từng sang Nga biểu diễn năm 1933.
Đồng thời với việc viết kịch bản và đối thoại phim - khiến tên tuổi Ông gắn liền với tên tuổi của đạo diễn nổi tiếng Marcel Carné và các diễn viên lừng lẫy như Jean Gabin, Michèle Morgan - JACQUES PRÉVERT làm thơ khá sớm.
Suốt thời gian từ 1929 đến 1945, thơ của Ông xuất hiện rải rác trong các tạp chí hoặc dưới dạng bản đánh máy. Mãi đến năm 1946, một người bạn thân của Ông là René Bertelé, phụ trách nhà xuất bản Le Point du Jour, mới tập hợp lại và cho ra mắt người đọc, lấy nhan đề là Paroles, mở đầu cho một loạt tác phẩm đều đặn xuất hiện sau đó : Histoires ( 1946 ), Spectacles ( 1951 ),Grand bal du printemps ( 1951 ), Charmes de Londres (1951 ), L'opéra de la lune ( 1953 ), La pluie et le beau temps ( 1955 ), Lumière d'homme (1955 ), Fatras ( 1966 ), Imaginaires ( 1972 ), Choses et autres ( 1972 ) , Hebdromadaires ( 1972 ) và, sau khi Ông mất, Soleil de nuit ( 1980 ), La cinquième saison ( 1984 ).
Ngay từ các tập đầu tiên, thơ JACQUES PRÉVERT đã chinh phục người đọc mọi lứa tuổi bằng một thứ ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu. Ông không coi trọng cú pháp, vần luật, diễn đạt nhẹ nhàng, hồn nhiên, có khi như là văn nói. Cái xu hướng tự do của Ông trước hết thể hiện ở chỗ trong cùng một tác phẩm, Ông đưa vào đủ loại thơ : thơ có vần, thơ tự do, thơ kể chuyện, trữ tình, công kích, có bài như một tiểu phẩm ( saynète ), có những bài rất ngắn ( 3 câu, 4 câu ), có bài dài trên 30 trang ( La crosse en l'air / Gậy quyền chỉ lên trời ).
Ông thoải mái sử dụng đủ mọi hình thức chơi chữ ( jeux de mots) : điệp âm, đồng âm, lặp lại, nói lái, đảo ngược … Ông đặt tên cho một tác phẩm của mình là HEBDROMADAIRES. Đó là mot valise tức là một từ mới được tạo ra bằng cách ghép một/ vài âm tiết của một từ với một/ vài âm tiết của từ khác ( hebdomadaire + dromadaire ). Tương tự như thế Ông viết un alcolonel ( alcool+colonel ) … Ông chơi chữ với hình thức đồng âm ( homonymie ) : De deux choses lune / l’autre c’est le soleil. ( l’une – l’autre và lune. ) Cũng là đồng âm nhưng ví dụ sau đây thật là bất ngờ :
Les conquérants : Terre ... Horizon . Terrorisons.
Còn học trò Hamlet ( trong bài L’accent grave ) khi chia động từ « être » đã nói
Je suis ou je ne suis pas rồi tiếp : Je suis « où » je ne suis pas
và kết luận : Être « où » ne pas être / C’est peut-être aussi la question.
thì chỉ với một cái dấu accent grave, không chỉ thầy giáo mà cả Shakespeare cũng phải ngạc nhiên.
Một đặc trưng khác của ngôn ngữ PRÉVERT là việc dùng hàng loạt danh từ, tính từ liên tiếp nhau, tiêu biểu là bài Inventaire/ Liệt kê :
Một viên đá
Hai ngôi nhà
Ba phế tích
Bốn phu đào huyệt
Một khu vườn
Những bông hoa
Người đọc tưởng như đây chỉ là những liên tưởng ngẫu hứng, không có một trật tự, một ý tưởng nào. Nhưng đọc xuống đoạn sau :
Một ông đeo bắc đẩu bội tinh.
đi liền sau câu
Một cánh cửa với tấm thảm chùi chân
hoặc Một vị giáo sĩ một cái mụn nhọt...
thì chắc chắn không phải là ngẫu hứng nữa rồi.
Thế đó, JACQUES PRÉVERT viết như một nhà ảo thuật của ngôn từ nhưng điều này không có nghĩa là thơ Ông dễ dãi, hời hợt. Là người sớm vào đời lao động kiếm sống, Ông tỏ ra đồng cảm với những cảnh đời khốn khó, chia sẻ với những thân phận bị áp bức, bóc lột. Ông lớn tiếng chống lại những thế lực tước đi tự do và hạnh phúc của con người, và, ở đây, không có đề tài nào là cấm kỵ ( tabou ) đối với Ông.
Cho dù đó là tôn giáo :
Lạy Cha chúng tôi ở trên trời
Xin Người cứ ở đó
Còn chúng tôi, chúng tôi cứ ở dưới đất
Trái đất đôi khi rất xinh đẹp...
( Pater Noster )
Cho dù đó là vương quyền :
Louis XIV mà người ta còn gọi là Vua Mặt trời
Thường hay ngồi trên chiếc ghế thủng
Vào khoảng cuối triều đại mình
Một đêm trời tối đen
Vua Mặt trời bước ra khỏi giường
Đến ngồi trên chiếc ghế
Và mất hút.
( L’éclipse )
Ngược lại, Ông luôn ca ngợi tình yêu, thương yêu trẻ em, quan tâm đến thú vật - đấy là những chủ đề quen thuộc trong thơJACQUES PRÉVERT.
Ông luôn nhắc đến thú vật trong thơ của mình, đặc biệt là loài chim. Chỉ riêng trong tập Paroles chim đã hiện diện trong hơn hai mươi bài. Chim có thể chịu một số phận bi thảm, chim bị mèo vồ ăn mất một nửa rồi được cả làng tổ chức cho một đám tang thật to ( Le chat et l’oiseau / Mèo và chim ), chim chết cả hàng ngàn con khi bay về từ hải đảo vì lóa mắt trước ánh sáng ngọn hải đăng nên va đập vào nhau ( Le gardien de phare aime trop les oiseaux / Người gác hải đăng quá yêu chim ). Nhưng chim bao giờ cũng là biểu tượng của tự do : Vẽ chim thì trước hết phải vẽ cái lồng với cánh cửa để mở, rồi khi chim tự bay vào lồng rồi thì hãy tháo gỡ dần từng chiếc chấn song, có thế chim mới cất tiếng hót ( Pour faire le portrait d’un oiseau / Để vẽ chân dung một con chim ). Chim phải được thoải mái bay chuyền từ cành này sang cành khác ( Le désespoir est assis sur un banc / Tuyệt vọng ngồi trên chiếc ghế băng ).
Càng yêu thương loài vật, Ông càng dành nhiều tình cảm cho tuổi thơ. Trẻ em không thể mãi là cậu học trò nhỏ cứ phải đứng trước lớp để cho « người ta hỏi nó / đủ mọi thứ vấn đề ». Trẻ em phải được quyền nói có với những gì mà nó thích, phải được lấy phấn đủ màu / trên tấm bảng thương đau / vẽ khuôn mặt hạnh phúc. ( Le cancre / Học trò lười ). Trẻ em không thể mãi bị tra tấn bởi những bài học nhàm chán hai với hai là bốn, bốn với bốn là tám ...khi mà từ bên ngoài lớp học tiếng chim hót vọng đến. Trẻ em phải được hát được chơi với chim để cho « tám với tám bỏ đi / và bốn với bốn và hai với hai / cũng lần lượt chuồn theo... » và lúc đó thì :
... các bức tường lớp học
yên lặng sụp đổ
rồi cửa kính trở lại thành cát
mực viết trở lại thành nước
bàn học trở lại thành cây
phấn viết trở lại thành vách đá
cán bút trở lại thành chim.
và trẻ em trở lại với khung trời mơ mộng của lứa tuổi thần tiên. ( Page d’écriture / Trang viết ).
Đối với JACQUES PRÉVERT, tình yêu rất cần cho cuộc sống, yêu là sống và sống là yêu :
Chúng ta yêu nhau và chúng ta đang sống
Chúng ta đang sống và chúng ta yêu nhau
Và chúng ta không biết cuộc đời là gì đâu
Và chúng ta không biết hôm nay là ngày mấy
Và chúng ta không biết tình yêu nó ra sao.
( Chanson / Bài ca )
Đó là tình cảm nhẹ nhàng tinh khiết của những đứa trẻ ôm hôn nhau « trong ánh sáng chói lòa của mối tình đầu tiên » ( Les enfants qui s’aiment / Những đứa trẻyêu nhau ), tình yêu của đôi trai gái cùng mới mười lăm tuổi phải « ăn gian » cọng tuổi cả hai để nói chúng ta đã ba mươi tuổi rồi chúng ta đã có quyền yêu nhau. ( Embrasse-moi / Hãy ôm hôn em ).
JACQUES PRÉVERT đã đi qua thời đại đầy biến động của Ông với một thái độ tỉnh táo, không gò mình trong khuôn phép của trường phái nghệ thuật, không để bị ràng buộc bởi xu hướng chính trị, tự khẳng định mình qua nhiều hình thức biểu hiện và nổi trội hơn cả vẫn là thơ vì với Ông “ Thơ ca có mặt ở khắp nơi cũng như Thượng đế chẳng có ở đâu cả.Thơ ca là một trong những biệt danh xác thực nhất, hữu dụng nhất của cuộc đời” (La poésie est partout comme Dieu n’est nulle part. La poésie, c’est un des plus vrais, un des plus utiles surnoms de la vie».
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu.
2 commentaires:
Jackpotcity Casino - Dr.MCD
Jackpotcity Casino. 진주 출장샵 More · 세종특별자치 출장마사지 Jackpotcity 거제 출장안마 Casino 양주 출장마사지 · New Slots · Bingo · Craps · Blackjack · Roulette · Video Poker 울산광역 출장샵 · Video
joya shoes 198l9vyxom204 joya sko,joya sko,joya skor,Cipő joya,zapatos joya,joya schoenen verkooppunten,Scarpe joya,chaussures joya,joya schuhe wien,joya schuhe joya shoes 956n4augwf438
Enregistrer un commentaire