lundi 27 avril 2015

THẰNG BÉ TRONG HOÀNG HÔN


Truyn ngn

Dư Hoa ( YU HUA )
( Nhà văn Trung quc , 1960 -          )


Kết quả hình ảnh cho yu hua


Sinh ti Hàng Châu, th ph tnh Triết Giang, tây nam Trung quc. Lúc khi đầu cuc Cách mng văn hoá, Dư Hoa mi 6 tui, nhưng cũng kp thu chu nhng h lu ca thi cuc: cha ông là bác sĩ phi chuyn đến mt th trn nh, nghèo nàn, lc hu, lúc này đang b dch bnh sán máng. Tui thơ, do vy, không để li cho ông nhiu k nim êm đẹp lm. Hc xong trung hc, Dư Hoa được đào to ngn hn để tr thành nha sĩ, và tuy chng mn mà gì lm vi cái công vic " ngày nào cũng phi nhìn vào mm người ta ", ông vn phi làm ngh này trong 5 năm. T nơi làm vic ( mt th trn nh gia Thượng Hi và Hàng Châu ), hàng ngày ông nhìn thy các nhân viên cơ quan văn hoá địa phương nhàn nhã qua li khiến ông mun b ngh. Theo li khuyên ca nhng người này, ông th viết và công b mt truyn ngn, đủ để ông tr thành đồng nghip ca h. Năm 1988, ông đến Bc Kinh theo hc Vin Văn hc L Tn.

     Sut thi k Cách mng văn hoá, Dư Hoa chng được đọc gì khác nhng t áp phích viết ch to, gi là Đại t báo, trên đó ông b qua nhng khu hiu mà ch quan tâm đến nhng câu chuyn người dân t cáo láng ging và thân nhân ca mình vi đủ tình tiết ly k, hp dn, như mt loi truyn ký ghi truyn thường ngày. Cui thp niên 80, mt s tác phm văn hc được xut bn tr li, nht là tác phm dch văn hc nước ngoài, giúp ông làm quen vi nhng tác gi phương Tây như Kafka, Borges..., nh hưởng đến nhng trang viết đầu tiên ca ông. Ban đầu ông viết truyn ngn, đăng trên nhng tp chí địa phương, không gây được s chú ý nào. Phi ch đến lúc ông xut bn cun truyn đầu tiên, " Thp bát tuế xut môn vin hành " ( Mười tám tui ra khi nhà đi xa ), ông mi   btđầu ni tiếng.

                Thành công này to đà cho Dư Hoa tiếp tc sáng tác. Năm 1993, ông viết cu" Sng ", khc ho hình nh xã hi Trung quc sut thi gian t thp niên 40 đến lúc khi đầu chính sách ci cách và m ca cui thp niên 70, qua nhng bước thăng trm trong cuc đời nhân vt T Phúc Quý. Vn con nhà tư sn giàu có, sng trong nhung la, vung tin trong c bc đỏ đen, đến thi Đại Nhy Vt và Cách mng  văn hoá, T Phúc Quý phi trng tay, khn cùng, tr v làm nông dân. Cui đời, T Phúc Quý sng cô qunh vi con trâu già, nhưng vn nuôi khát vng vượt qua nghch cnh để sng còn. Tác phm tr thành "best- seller", được dch sang tiếng Anh và càng ni tiếng hơn khi đạo din Trương Ngh Mưu dng thành phim vi hai din viên ngôi sao: Cát Ưu ( vai T Phúc Quý ) và Cng Li ( vai người v ). Cun phim đã đạt Gii thưởng ln ca Ban Giám kho ti Liên hoan Phim Cannes và Cát Ưu Gii Nam din viên chính xut sc.

     Năm 1995, Dư Hoa xut bn tiếp cun " Ha Tam Quan mi huyết ký " ( Truyn Ha Tam Quan bán máu ). Vn là hoàn cnh bi thm ca người dân ( nghèo túng phi bán máu để kiếm sng và ... để dành tin cưới v. Và vn là ước mơ cháy bng mun vượt qua s phn.
      Năm 2003, cun truyn dài hai tp " Huynh đệ ", thut li cuc đời ca hai anh em Lý Trc và Tng Cương qua hai thi k, t Cách mng văn hoá đến thi hin đại, cũng gây được tiếng vang ln.

       Sau thi gian này, Dư Hoa ngng sáng tác để đi du lch và din thuyết theo li mi ca các nhà xut bn. Mãi đến năm 2010 ông mi cho ra mt cun tiu thuyết mi vi nhan đề gi trí tò mò : " Trung quc trong 10 ch ". Có th xem đây là tác phm tng hp tt c quan đim ca Dư Hoa trong các sách ông đã viết t trước đến nay. Bng cách tóm tt trong mười ch: Nhân dân, Lãnh t, Đọc, Viết, L Tn, Cách mng, Chênh lch, Dân quèn, Bt chước, Lường gt, Dư Hoa đã nêu lên nhn định v hin thc xã hi Trung quc qua cách nhìn phê phán, thng thn và có phn châm biếm.
     Cun sách mi nht ca ông là "Đệ tht thiên " ( Ngày th by ), ra mt vào tháng 6 năm 2013. Vi bút pháp huyn o, Dư Hoa thut li nhng điu tai nghe mt thy ca nhân vt Dương Phi, sau khi chết được by ngày, tc là t góc độ ca thế gii người chết để miêu t thế gii hin thc. Tác phm đã làm dy lên nhiu ý kiến tranh lun, khen chê trái ngược nhau.

      Tác phm ca Dư Hoa đã được dch ra nhiu th tiếng ( Anh, Pháp, Đức, Ý, Nht bn, Hàn quc... ). Cun " Sng "được Gii thưởng Grinzane Cavour Prize, mt gii thưởng văn hc uy tín ca Ý, năm 1998. Cun " Huynh đệ ", được gii thưởng Prix Courrier international ca Pháp, năm 2008.

          Truyn " Thng bé trong hoàng hôn " gii thiu sau đây phn nào cho thy s ám nh ca Dư Hoa v nhng cnh tàn bo ông tng chng kiến hi nh, dưới thi Cách mng văn hoá.


      Buổi trưa ngày mùa thu, người đàn ông tên Tôn Phúc đang ngồi cạnh sạp hàng bày đầy trái cây.
       Ánh nắng chói chang khiến ông phải nheo mắt, đôi mắt với cả năm mươi năm đàng sau. Ông chống hai bàn tay lên đầu gối, tư thế làm ông chồm về trước, trên đôi cánh tay. Dưới ánh sáng mặt trời, mái tóc hoa râm của ông trông ra màu tro, giống như con đường trước mặt ông. Con đường thăm thẳm, ngút ngàn trải dài đến tận chỗ ông và sau đó còn chạy xa tít tắp. Đã ba năm rồi ông vẫn ngồi ở đấy, cạnh bến cảng nơi các chuyến tàu lửa đường xa chở khách dừng lại, kiếm sống bằng việc bán trái cây. Một chiếc xe chạy qua gần chỗ ông ngồi, tung những cuộn bụi nhấn chìm ông, tưởng chừng như một bầu trời đen nghịt trùm lên người,  rồi sau đó cả người lẫn trái cây lại hiện ra, như trong ánh sáng lúc bình minh.

    Khi đám mây bụi mờ đã tan , ông nhìn thấy trước mặt mình một đứa bé giương đôi mắt đen sáng ngời nhìn ông chằm chặp. Ông nhìn thẳng đứa bé áo quần dơ dáy, bàn tay đặt lên một trái cây của ông. Ông nhìn bàn tay thằng bé, móng tay đen và dài sờ vào trái táo đỏ bóng, ông đưa tay lên, vẫy ra trước như muốn đuổi ruồi, bảo thằng bé:
" Cút đi! "
     Thằng bé rút bàn tay đen như than lại, thân hình lắc nhẹ, rồi bỏ đi. Nó chậm rãi bước tới, đôi tay đu đưa, cái đầu có vẻ quá to trên thân hình ốm tong teo của nó.

     Ngay lúc này có mấy người đến gần sạp hàng, Tôn Phúc quay sang nhìn họ, không quan tâm đến thằng bé đang bỏ đi nữa. Những người này đến trước mặt Tôn Phúc, phía bên ngoài sạp hàng, và hỏi ông:
" Táo bán bao nhiêu đây? Còn chuối, nửa ký bao nhiêu? "
     Tôn Phúc đứng dậy, lấy cái cân, cân táo và chuối, cầm lấy tiền những người khách đưa, rồi lại chống tay lên đầu gối, và ông thấy thằng bé hồi nãy. Nó trở lại.
     Lần này nó không đứng trước mặt mà ngay bên cạnh ông, đôi mắt đen ngời sáng nhìn chăm chú mấy trái táo trái chuối của Tôn Phúc, trong khi ông cũng nhìn lại nó. Nhìn trái cây một lát, thằng bé ngẩng đầu lên phía Tôn Phúc và nói:
" Cháu đói lắm. "
     Tôn Phúc vẫn nhìn nó mà không trả lời. Thằng bé nhắc lại:
" Cháu đói lắm. "
      Nghe giọng nói trong trẻo, Tôn Phúc vẫn không rời mắt khỏi thằng bé dơ dáy, nhíu mày nói:
" Cút đi! "
     Thằng bé khẽ run lên, Tôn Phúc nhắc lại to hơn:
" Cút đi! "
     Thằng bé giật mình, hoảng sợ, nó ngập ngừng, hai chân đong đưa, rồi quyết định nhúc nhích. Tôn Phúc thôi không nhìn nó nữa mà quay sang nhìn ra đường, ông nghe tiếng tàu lửa ngừng lại phía bên kia, trên tàu, có người đứng dậy, qua khung cửa kính, ông thấy một đám người lấn nhau chen ra phía cửa. Một lúc sau cả một làn sóng người đổ ra hai đầu. Đúng lúc đó, Tôn Phúc quay đầu lại và thấy thằng bé hồi nãy chuồn thật lẹ. Thấy nó chạy ông không hiểu tại sao. Ông nhìn đôi bàn tay nó vung vẫy khi chạy, và nhận ra bàn tay phải của nó đang cầm một vật gì đó, một vật hình tròn mà ông biết ngay: nó đang cầm trái táo. Tôn Phúc đứng dậy, chạy đuổi theo thằng bé, miệng hét lớn:
"Ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp, kia kìa, đàng trước đó! "

     Lúc này đã sang chiều. Thằng bé chạy làm tung bụi mù. Nó nghe tiếng la phía sau, quay đầu lui nhìn, thấy ông Tôn Phúc đang đuổi theo. Nó chạy đến hụt hơi, thở hổn hển, đôi chân yếu dần, cảm thấy không thể chạy xa được nữa, quay đầu nhìn lui lần nữa, nó thấy Tôn Phúc vung tay lên và hét lớn, biết thế nào ông cũng bắt được . Rồi nó dừng lại, quay lui ngẩng đầu lên, và thấy Tôn Phúc đã đuổi kịp. Trước khi ông bắt được, nó đưa trái táo lên miệng và ra sức ngoạm một miếng to.
     Khi Tôn Phúc chạy tới, ông hất rơi trái táo trong tay nó, và tát vào mặt . Trúng đòn, nó lảo đảo té xuống. Nằm dưới đất nó lấy tay che đầu và cương quyết nhai miếng ngậm trong miệng. Nghe tiếng nhai, Tôn Phúc nắm lấy cổ áo nhấc thằng bé lên. Bị chẹt cổ, nó không nhai được, mở to đôi mắt lồi, trái táo làm hai má phồng lên. Tôn Phúc một tay nắm lấy cổ áo, một tay bóp cổ và hét lớn:
" Nhả ra! Nhả ra! "
     Thấy có đám đông tụ họp lại xung quanh, ông nói lớn:
" Nó tưởng còn ăn được nữa ! Nó ăn cắp trái táo của tôi, cắn trái táo và tưởng là ăn hết được! "
      Rồi ông dang tay tát thằng bé và thét lên:
" Nhả ra cho tao!"
     Thằng bé vẫn ngậm chặt miệng, Tôn Phúc cứ bóp cổ nó:
" Nhả ra! "
     Miệng thằng bé há ra, Tôn Phúc thấy miếng táo nó đã cắn, ông bóp cổ nó mạnh hơn, thằng bé trợn mắt. Có người nói:
" Tôn Phúc, nhìn mắt thằng nhỏ kìa, chúng sắp lộn ngược ra đó, ông làm nó ngạt thở mất."
"Đáng đời nó. Tôi làm nó ngạt thở thì nó sẽ không ăn cắp nữa."
     Rồi ông buông lỏng tay đang siết thằng bé ra, và chỉ lên trời mà nói:
" Trên đời này tôi ghét nhất phường ăn cắp... Nhả ra! "
          Thằng bé bắt đầu nhả những miếng táo ngậm trong miệng ra, nhả từng miếng một, như kiểu một kẻ bị kết án chịu nhục hình phải tự thú, và những miếng táo nó nhả rớt xuống áo quần nó. Khi thằng bé ngậm miệng lại, Tôn Phúc lấy hai tay banh miệng nó ra rồi ngồi xổm xuống nhìn vào bên trong:
" Vẫn còn, mày chưa nhả ra hết."
     Vậy là thằng bé lại khạc tiếp, khạc cả nước bọt, lẩn trong đó vài mẩu táo nhỏ.
Thằng bé không khạc ra nữa, tiếng khạc nghe khô khốc, không còn cả nước bọt để khạc. Lúc này Tôn Phúc mới nói:
" Thôi được rồi."
     Tôn Phúc nhìn đám đông vây quanh, nhận ra vài người quen, ông lên tiếng:
" Ngày xưa chẳng ai cần lắp ổ khoá cửa cả. Trong làng này cũng không ai phải khoá cửa , đúng vậy không? ". 
     Thấy vài người lắc đầu, ông nói tiếp:
" Bây giờ chẳng những phải khoá cửa mà còn lắp thêm ổ khoá nữa. Tại sao vậy? Thì tại mấy thằng ăn cắp này đây. Bởi lẽ đó mà trên đời này tôi ghét nhất là phường ăn cắp."
     Tôn Phúc quay sang thằng bé, nó ngước lên ông, ông thấy thằng bé mặt dính đất, thẫn thờ nhìn ông, ngây dại trước những lời ông vừa nói. Nhìn vẻ mặt đó, ông dằn giọng nói tiếp:
" Theo luật lệ ngày xưa là phải chặt tay, cái tay ăn cắp là phải chặt..."
     Tôn Phúc cúi xuống thằng bé và thét lên: " Tay nào? "
     Thằng bé run lẩy bẩy cả người và thu vội bàn tay phải sau lưng. Tôn Phúc chộp lấy bàn tay phải của nó, chìa ra cho mọi người xem và nói:
" Chính bàn tay này đây, nếu không tại sao nó giấu lẹ thế? "
     Thằng bé bật khóc: " Không phải tay này."
" Vậy thì tay kia." Tôn Phúc vừa nói vừa nắm lấy bàn tay trái.
" Không! " Thằng bé rút bàn tay lại và la lớn, Tôn Phúc tát nó một cái làm nó lảo đảo, ông tát thêm cái nữa, thằng bé không nhúc nhích được nữa. Tôn Phúc nắm lấy tóc nó, hất đầu nó lên và thét vào mặt:
" Vậy thì tay nào? "
       Thằng bé giương mắt nhìn, một lát sau, chìa bàn tay phải ra. Tôn Phúc nắm lấy cổ tay, rồi lấy tay kia nắm lấy ngón giữa, và tuyên bố với mọi người:
" Luật lệ ngày xưa là phải chặt tay, thời nay không như vậy nữa, mà quan trọng là giáo dục, vậy thì làm thế nào để giáo dục? "
      Nhìn thật lâu thằng bé, ông mới nói: "Đây này, làm thế này đây..."
     Lấy hết sức lực, Tôn Phúc vặn ngón tay giữa của thằng bé, nghe một tiếng rắc  khô khốc. Thằng bé đau đớn kêu một tiếng sắc lẻm như lưỡi dao, nhìn ngón tay gãy gập trên lưng bàn tay, đổ sập người xuống đất.

     Tôn Phúc nói với mấy người xung quanh: " Phải đối xử với bọn ăn cắp như vậy đó!"
      Nói xong ông đưa tay ra đỡ thằng bé dậy, thằng bé quá đau đớn, nhắm nghiền mắt, ông hét nó:
" Mở mắt ra, mở to mắt ra!"
     Thằng bé cố giương to mắt, nhưng cơn đau làm nó méo miệng. Tôn Phúc đá cho nó mấy cái rồi ra lệnh:
"Đứng dậy! "
     Tôn Phúc nắm lấy cổ áo thằng bé, đẩy nó đến trước sạp hàng. Ông lấy trong chiếc hộp giấy ra một sợi giây thừng và trói thằng bé trước sạp hàng. Thấy có mấy người đi theo, ông bảo thằng bé:
" Bây giờ mày la lên, la to lên : Tôi là thằng ăn cắp. "
      Thằng bé nhìn Tôn Phúc nhưng không la lên, Tôn Phúc nắm lấy bàn tay trái của nó, cầm ngón giữa, thằng bé vội vàng la : " Tôi là thằng ăn cắp!"
     Tôn Phúc bảo nó: " Giọng mày yếu quá. La to nữa lên!"
      Thằng bé nhìn ông, ngưỡng cổ ra và cố hết sức la: Tôi là thằng ăn cắp!
     Tôn Phúc thấy gân cổ thằng bé nổi lên, ông lắc lắc cái đầu và nói:
"Đấy, phải la to như vậy đó! "

     Chiều hôm đó, tia nắng mặt trời mùa thu soi rõ thằng bé, tay nó quặt lui sau lưng, giây buộc ở cổ, thật chặt, không sao cúi đầu xuống được, nó chỉ có thể  ngước lên nhìn con đường, cạnh bên nó là những trái cây đã làm nó thèm, nhưng bây giờ nó không thể cúi đầu nhìn được vì giây buộc quá chặt ở cổ.
        Khi thấy có người đi ngang qua trước đường, Tôn Phúc lại bắt nó la: Tôi là thằng ăn cắp.

     Ngồi trên chiếc ghế tựa, đàng sau sạp hàng, Tôn Phúc nhìn thằng bé, có vẻ hài lòng lắm. Cơn giận vì mất trái táo đã nguôi, ông bắt đầu cảm thấy thoả mãn vì đã bắt được thằng bé ăn cắp táo và đã trừng phạt nó, ông còn bằng lòng là sự trừng phạt chưa xong. Ông buộc nó phải la lớn, chỉ cần thấy có người đi ngang là ông bắt nó phải la thật to, ông nhận thấy là tiếng la làm mọi người chú ý, và dòng người trước sạp hàng cứ lần lượt đông mãi không dứt. Nhiều người tò mò nhìn thằng bé bị trói đang la, ra sức la thật to tôi là thằng ăn cắp. Họ thấy lạ lùng quá. Tôn Phúc lại bắt đầu giải thích là thằng bé ăn cắp của ông trái táo, kể chuyện ông rượt bắt nó và trừng phạt nó ra làm sao, rồi kết luận: " Tôi làm thế này là tốt cho nó thôi."

     Ông biện bạch: " Tôi muốn nó hiểu ra, để rồi từ rày về sau không ăn cắp nữa."
Thuyết giảng đến đây, ông quay sang nói với thằng bé với cái giọng rõ ràng, trong trẻo: " Sau chuyện này mày vẫn ăn cắp hay chừa rồi? "
Thằng bé ráng hết sức lắc đầu ra dấu. Giây buộc vào cổ chặt quá nên động tác này cũng không rõ, chỉ thoáng nhanh qua thôi. Tôn Phúc kiêu hãnh bảo mọi người " Các ông bà thấy chưa! "

     Suốt buổi chiều, thằng bé không ngừng la lớn như thế, nắng làm môi nó khô đến nứt ra, giọng khàn đi. Đến gần chiều tối, nó không đủ sức la được nữa, chỉ còn phát ra tiếng lạo xạo của vật gì đang chà xát.
     Tuy vậy nó vẫn phải la: Tôi là thằng ăn cắp.
     Người qua đường không hiểu nó nói gì, Tôn Phúc giải thích:
" Nó nói: Tôi là thằng ăn cắp".

     Sau đó, Tôn Phúc nới lỏng sợi giây. Trời dần tối, ông chất trái cây vào xe chở hàng và tháo sợi giây. Cất giây vào xe, ông nghe đàng sau một tiếng " uỵch ". Quay lui ông thấy thằng bé ngã nhoài xuống đất, ông bảo nó:
" Mày nói đi, mày còn dám ăn cắp nữa không? "
    Nói xong, ông trèo lên xe, bỏ đi theo con đường dài thăm thẳm, bỏ mặc thằng bé nằm dưới đất. Thằng bé đã đói nay lại thêm khát, kiệt sức rồi. Nó đã té khi Tôn Phúc tháo sợi giây ra, và vẫn nằm dài dưới đất khi Tôn Phúc bỏ đi. Nó mở hé mắt, chừng như không nhìn thấy gì trên đường.  Nằm bất động như thế một lát, nó cố gượng dậy, đứng tựa vào gốc cây, rồi dò dẫm từng bước trên đường, đi về hướng tây.

     Đi về hướng tây, trong ánh hoàng hôn, thân hình nhỏ nhắn mảnh khảnh của nó lắc lư theo bước chân, thằng bé rời bỏ thị trấn nhỏ này. Một vài người nhìn thấy nó bỏ đi biết rằng đây là thằng bé mà Tôn Phúc đã bắt lúc chiều, nhưng không ai biết nó tên gì, từ đâu đến và nhất là không biết nó sẽ đi đâu. Điều làm họ để ý là cái bàn tay phải với ngón giữa bẻ quặp vào lưng bàn tay. Họ nhìn thằng bé đi xa dần trong hoàng hôn và biến mất tăm.

     Tối hôm đó, như thường lệ, Tôn Phúc đến cửa hàng nhỏ cạnh nhà, mua nửa    lít rượu, làm hai dĩa rau trộn nhỏ, xong đến ngồi nơi chiếc bàn vuông. Vào  thời điểm này, những tia nắng chiều còn sót lại len qua cửa sổ, mang lại cảm giác ấm áp dễ chịu ở bên trong gian phòng. Tôn Phúc ngồi đấy, trong ánh hoàng hôn, trước cửa sổ, chậm rãi nhắm nháp rượu.

     Nhiều năm trước, cũng trong gian phòng này, còn có một phụ nữ xinh đẹp và một đứa bé lên năm. Thời đó, phòng này lúc nào cũng rộn rã sống động. Vợ chồng ông, và đứa con trai nữa, thường xuyên chuyện trò với nhau. Ông thường ngồi ở chiếc ghế bên trong, chăm chú nhìn ra ngoài, nơi vợ ông đang nhóm bếp lửa than, đứa con không rời nửa bước, bám vào áo mẹ, vợ ông nói thật nhỏ  điều gì đó để ông khỏi nghe.
     Thế rồi, một ngày hè, lúc giữa trưa, mấy đứa trẻ con chạy đến gọi Tôn Phúc, báo tin con trai ông chết đuối ngoài ao cạnh nhà. Vậy là, ngay lúc giữa trưa một ngày hè, Tôn Phúc hối hả lao ra như một kẻ điên. Sau lưng ông, người vợ nước mắt đầm đìa gào lên thảm thiết. Cả hai ý thức được rằng thế là mình mãi mãi mất đi đứa con. Đêm về, trong bóng tối ngột ngạt, họ lặng lẽ ngồi nhìn nhau, thổn thức.

       Dần dà họ cũng bình tâm trở lại, với cuộc sống tĩnh lặng như trước đây. Năm tháng trôi qua nhanh. Một ngày mùa đông, một anh thợ hớt tóc dạo đi ngang qua nhà, vợ Tôn Phúc bước ra, ngồi lên chiếc ghế anh ta mang đến, dưới ánh nắng, khẽ nhắm mắt khi anh ta cắt tóc, gội đầu, và cả ráy tai, cuối cùng bàcòn để anh ta xoa bóp vai và cánh tay. Chưa bao giờ bà cảm thấy sảng khoái đến như thế, tưởng chừng như sắp buông thả. Và thế là, lúc đêm về, bà gói quần áo bỏ Tôn Phúc đi theo anh thợ hớt tóc.

     Tôn Phúc còn lại một mình, cả cuộc đời nay gom lại trong tấm ảnh đen trắng đã   ngả màu vàng treo trên tường, với chân dung vợ, con và chính ông. Ngay giữa là hình đứa con đội chiếc mũ vải bông to quá khổ. Bên trái là vợ ông với hai bím tóc chảy dài trên vai, mỉm cười vẻ mãn nguyện. Còn ông, phía bên phải, khuôn mặt trẻ trung, tràn đầy sức sống.



THÂN TRỌNG SƠN
Dịch theo bản tiếng Pháp của Brigitte Duzan








MƯỜI TÁM TUỔI RA KHỎI NHÀ ĐI XA


Truyn ngn

DƯ HOA     Yu Hua 余华
( Nhà văn Trung quc , 1960 - ...  )

Kết quả hình ảnh cho yu hua


Truyn ngn " Thp bát tuế xut môn vin hành" gii thiu dưới đây là mt trong nhng truyn đầu tay ca Dư Hoa, viết vào năm 1986, lúc tác gi, tri qua mt tui thơ không my vui v và sáng sa thi cách mng văn hoá, phi mày mò hc đọc qua nhng Đại t báo, chưa hiu biết gì v văn chương, sáng tác. Tuy thế, truyn cũng được quan tâm và tán thưởng, nh bút pháp độc đáo, li k chuyn trn ln hin thc vi khôi hài, qua nhng chi tiết l lùng đến bt ng, phi lý. Thành công bước đầu giúp Dư Hoa t tin, quyết định theo hc Vin Văn hc L Tn và tiếp tc s nghip sáng tác, để tr thành mt khuôn mt sáng giá trên văn đàn Trung Quc, ni tiếng khp thế gii.






Con đường rải nhựa liên tục lên cao xuống thấp tận ngút ngàn, chừng như được gắn lên trên đầu ngọn sóng. Trong vùng rừng núi này, đi bộ trên đường khiến tôi có cảm tưởng như đang ở trên con tàu. Năm đó tôi mười tám tuổi, vài sợi lông vàng từ râu cằm lay theo gió, tôi thấy quý lắm vì đó là những sợi đầu tiên. Tôi đã đi bộ trên con đường này suốt cả ngày rồi, nhìn thấy bao nhiêu là núi, bao nhiêu là mây, chúng gợi cho tôi nhớ lại những người thân quen nên tôi gọi chúng bằng biệt danh những người này. Nhờ thế mà đi cả ngày rồi nhưng tôi vẫn không thấy mệt. Tôi ra đi lúc sáng sớm, giờ đã cuối ngày, đã thấy những dấu hiệu đầu tiên của buổi hoàng hôn. Tôi chỉ mong thấy xuất hiện một cái quán thôi.

Trên đường đi tôi có gặp vài người, nhưng không ai biết có gì ở phía trước, có cái quán nào không. Ai cũng bảo tôi: "Đi rồi biết! " Tôi nghĩ là họ có lý cả thôi, đó cũng chính là điều tôi đang làm: tôi sẽ biết. Dù sao, tôi vẫn chưa thấy cái quán nào và bắt đầu lo.

Điều làm tôi ngạc nhiên là suốt cả ngày tôi chỉ bắt gặp một chiếc xe. Lúc đó gần giữa trưa, đúng vào lúc tôi có ý muốn nhờ quá giang, thời điểm mà tôi chưa cần tìm ra cái quán lắm, tôi chỉ nghĩ là đi quá giang thì tốt hơn. Tôi đứng ở phía thấp con đường và vẫy tay, cố làm mọi cách để tỏ ra ung dung thôi. Nhưng tài xế lại tỏ vẻ như không nhìn thấy tôi, và chiếc xe chết tiệt, cũng làm ngơ không để ý đến tôi như gã tài xế, phóng vụt qua như tia chớp. Và tôi cũng vụt chạy theo sau, cho vui thôi, vì thực ra tôi chưa bận tâm tới chuyện tìm cho ra cái quán lắm. Tôi cứ chạy theo như thế cho đến lúc chiếc xe khuất dạng, rồi thấy mình chạy kiểu đó tôi bật cười to, và nhận ra là tiếng cười làm tôi khó thở, tôi thôi không cười nữa và lại hăng hái tiếp tục con đường. Tuy thế, tự thâm tâm tôi lấy làm tiếc là không có một cục đá to trong bàn tay mà tôi đã ung dung vẫy.

Tới giờ này tôi thực sự mong đi nhờ xe vì chiều tối rồi mà chẳng thấy bóng dáng cái quán nào. Nhưng suốt buổi chẳng có chiếc xe nào khác xuất hiện. Nếu bây giờ mà có dịp nhờ quá giang xe, nhất thiết tôi phải chặn cho được. Có thể tôi sẽ nằm ra đường, sẽ có cơ may nghe tiếng xe thắng gấp khi tới gần tôi. Vậy mà giờ này không hề có tiếng động cơ nổ. Tôi chỉ còn có thể bước đi, chờ đợi chuyện rất đúng với câu nói: đi rồi biết.

Con đường vẫn lên cao xuống thấp, những điểm cao thu hút tôi, khích lệ tôi cố sức chạy thật nhanh để may ra lên đó sẽ nhìn thấy cái quán, nhưng mỗi lần như thế tôi chỉ nhìn thấy một vòng cung gây thất vọng, rồi lại một điểm cao khác nữa. Dù đã nhiều lần gắng sức chạy lên cao như thế, nhưng lúc nào cũng chẳng có kết quả gì. Lúc này, tôi tiếp tục rảo chân lần nữa, và lần này tôi nhìn thấy, không phải một cái quán, mà một chiếc xe tải. Từ trên cao, tôi thoáng thấy phía sau người tài xế. Không thể nhìn thấy đầu vì anh ta đang cúi gầm vào ca- pô xe mở nghiêng. Đằng sau xe tải chất cao những chiếc giỏ mây, hẳn là chứa đầy trái cây. Mà chắc là chuối. Tôi nghĩ là thế nào bên cạnh ghế tài xế cũng có, và ngồi vào đó rồi tôi có thể lấy ăn. Hẳn là xe đã dừng lại theo hướng hồi nãy tôi đến đây, mà tôi cũng chẳng cần biết hướng nào. Giờ này, tôi chỉ cần cái quán, mà không có quán thì tôi cần một chiếc xe, và xe ở kia rồi, trước mặt tôi.

Tôi phấn khởi chạy về phía tài xế và nói lớn: " Chào ông anh, khoẻ không? "
Hình như tài xế không nghe thấy gì, cứ tiếp tục lục lọi nơi động cơ xe.
" Mời ông anh điếu thuốc. "
Ngay lúc đó, tỏ vẻ cố hết sức, anh ta thò đầu ra ngoài ca- pô, chìa bàn tay đen như than và chụp lấy điếu thuốc. Tôi vội châm lửa cho anh ta, anh rít vội vài hơi, rồi ngậm điếu thuốc nơi môi, tiếp tục chúi đầu vào máy.

Tôi cảm thấy yên tâm, anh ta đã nhận điếu thuốc của tôi, chẳng lẽ lại không cho tôi lên xe. Tôi đi vòng quanh chiếc xe, cũng để xem thử có gì trong mấy cái giỏ đó. Không nhìn thấy được, đành phải nhờ đến lỗ mũi và nó mách bảo mùi táo. Tôi tự nhủ táo cũng được. Một lát sau, sửa xong, anh tài xế đóng nắp xe và nhảy xuống đất. Tôi vội chạy đến chỗ anh ta và lên tiếng: " Anh ạ, cho tôi xin quá giang." Trái với điều tôi tưởng tượng, anh ta đẩy tôi ra bằng bàn tay đen như than và cộc cằn nói: " Tránh ra!" Tôi sững sờ đứng im; anh ta bình thản mở cửa xe leo lên. Tôi nghe tiếng anh đang mở máy. Tôi hiểu rằng nếu bỏ lỡ cơ hội này thì sẽ không còn có dịp khác, vậy thì phải liều, một mất một còn thôi. Tôi chạy qua phía bên kia, mở cửa nhảy lên. Tôi sẵn sàng đánh nhau với anh ta ngay trong ca bin này, tuy thế, vừa leo lên tôi chỉ hét lớn: " Anh còn ngậm điếu thuốc của tôi mà! " Lúc này xe đã khởi động. Anh ta tỏ ra vui vẻ, nhìn tôi và phá lên cười; tôi chẳng hiểu ra sao cả. Tôi hỏi anh đi đâu. Anh ta đáp: " Tôi theo con đường này." rồi vẫn nhìn tôi và nói thân mật: " Muốn ăn táo không?"" Chẳng cần phải xin. Cứ việc lấy ở đằng sau."
Anh ta lái nhanh đến nỗi tôi không biết làm cách nào để rời khỏi ghế trước mà bước ra phía sau. Vậy nên tôi nói: " Thôi khỏi." Anh ta khẩn khoản: " Lấy một trái đi!"
Thấy anh ta cứ chăm chú nhìn mình, tôi nói: "Đừng nhìn tôi kiểu đó, bộ tôi vẽ đường đi trên mặt sao?"

Xe chạy theo hướng hồi nãy tôi tới. Ngồi thoải mái, tôi đưa mắt nhìn ra ngoài và chuyện trò với anh tài xế. Bây giờ chúng tôi đã là đôi bạn tốt. Tôi biết là anh là một kiểu chuyên chở tư nhân. Xe này là của anh, mấy giỏ táo cũng vậy. Tôi nghe tiếng những đồng tiền kim khí trong túi anh. Tôi hỏi: " Anh đi tới đâu?" Anh đáp: " Tôi cứ lái và rồi sẽ biết."

Câu này giống như câu anh tôi nói, tôi cảm thấy một tình cảm thân thiện. Tôi nghĩ là điều đó làm chúng tôi gần nhau hơn. Còn cảnh vật đang lướt qua bên ngoài, chúng hoàn toàn quen thuộc với tôi; những ngọn núi đó, những đám mây đó gợi cho tôi nhớ những con người thân quen mà tôi đã gọi tên bằng những biệt danh. Tôi không bận tâm về cái quán nữa, trong chiếc xe tải, cạnh anh tài xế, ngồi êm trên ghế, tôi thấy thanh thản lắm rồi. Tôi không biết xe sẽ chạy tới đâu, mà anh lái xe cũng không biết. Dù sao, nơi đến có gì quan trọng đâu, chỉ cần là xe đang chạy, mọi chuyện khác, sẽ biết sau.

Nhưng chiếc xe lại hỏng máy lần nữa. Lúc này chúng tôi đã là đôi bạn thân thiết rồi. Tôi đặt tay lên vai anh ta, và anh cũng vậy. Anh đang kể tôi nghe những chuyện yêu đương của mình, kể đến chuyện lần đầu tiên hôn một bạn gái thì xe dừng lại đột ngột ngay trên dốc, chẳng nghe thấy tiếng động gì, kiểu như con mèo bị đột tử. Tài xế lết ra phía trước, mở nắp xe và lại chúi đầu vào bên trong. Tôi vẫn ngồi nơi ghế trước, biết thế nào rồi anh ta cũng nhổm mông lên, cái ca pô mở ra nên tôi không nhìn thấy gì. Tôi chỉ nghe tiếng động anh tài xế gây ra khi sửa xe.

Một lát sau, anh ta thò đầu lên rồi đóng nắp xe. Tay anh bây giờ còn đen hơn trước; anh chùi nhiều lần vào quần áo, rồi nhảy xuống đất. Tôi hỏi: " Thế nào? Sửa xong rồi à?" Anh nói: " Xong rồi, nhưng sửa không được."
Tôi nghĩ thế là hết rồi và hỏi: " Bây giờ ta làm sao đây?" Anh lơ đãng đáp: "Để xem."

Tôi vẫn ngồi trong xe, không biết phải làm gì. Tôi lại nghĩ đến cái quán. Vào giờ này, mặt trời bắt đầu lặn, những ánh sáng đỏ rực xuất hiện phía chân trời, thoáng chút hơi nước vụt bay lên. Trong tâm trí tôi hình ảnh cái quán lại hiện ra, ngày càng rõ rệt hơn. Anh tài xế ra đứng ngay giữa đường, làm vài động tác thể dục theo  các bài hướng dẫn trên đài phát thanh, có vẻ chăm chú lắm. Tập xong, anh bắt đầu chạy từng bước nhỏ quanh chiếc xe. Có thể vì anh ngồi quá lâu trong xe để lái nên cần tập luyện như thế. Nhìn anh ta tập tôi cũng có ý muốn bước ra ngoài. Tôi mở cửa xe và nhảy xuống. Nhưng tôi không muốn làm động tác thể dục, cũng không chạy, đầu óc chỉ nghĩ đến cái quán thôi.

Ngay lúc đó, tôi nhìn thấy có năm người đạp xe đổ xuống từ trên dốc. Phía sau mỗi xe đạp có chiếc đòn gánh gác ngang, hai bên là hai giỏ mây thiệt to. Tôi đoán họ là những nông dân ở gần đây, đi bán rau cải về. Thấy họ đến tôi vui lắm nên vội đến gần và nói lớn: " Chào mọi người!"

Tới trước mặt tôi, họ xuống xe, tôi vui vẻ chào: " Có cái quán nào gần đây không vậy?". Họ không trả lời mà hỏi lại tôi: " Xe chở gì trong đó? "

Tôi đáp: " Táo." Vừa đẩy xe, cả bọn vừa tiến tới gần xe tải, hai người trong nhóm lẻn vào bên trong xe,  lật nghiêng những giỏ táo, ba người đứng dưới mở nắp đậy cho táo rớt ra. Tôi ngạc nhiên không hiểu chuyện gì xảy ra. Định thần lại, tôi đến gần hỏi: " Các người đang làm cái gì vậy?" Họ làm như không có tôi ở đó và tiếp tục đổ táo xuống khỏi xe tải. Tôi đến sát bên họ, cầm lấy tay một người và hét lớn: " Có người trộm táo đấy!" Một cú đấm dữ dội bay thẳng vào mũi tôi, đẩy tôi ra xa mấy thước. Tôi bò dậy, đưa tay sờ mũi, thấy nó bẹp dí, có vẻ như không gắn vào mặt và bị treo ở đó. Từ vết thương máu chảy ra như nước mắt. Tuy nhiên, khi tôi nhận rõ cái gã đã tấn công tôi thì cả bọn đã leo lên xe đạp bỏ đi. Còn anh tài xế thì đang bước chậm rãi, môi trề ra, thở hổn hển, có lẽ vì chạy mệt. Hình như anh không hề biết việc xảy ra. Tôi nói lớn: " Có người ăn trộm táo của anh đấy!" Nhưng anh ta chẳng quan tâm tới điều tôi nói mà cứ tiếp tục thong thả chạy. Thực tình tôi muốn đấm vào mặt anh ta, để anh cũng có cái mũi bị thương tích vậy. Tôi chạy đến hét vào tai anh: " Có người trộm táo đấy!"Đến lúc này anh ta mới quay lại nhìn tôi. Tôi nhận thấy mặt anh có vẻ mỗi lúc một rạng rỡ, hình như bây giờ anh ta mới nhìn cái mũi của tôi.

Đúng vào lúc này, một nhóm người đạp xe từ trên dốc xuống, sau mỗi xe cũng có hai giỏ lớn, trong nhóm có cả trẻ con. Như một bầy ong, cả bọn vây quanh xe tải. Vài người nhảy vào trong xe, rồi lần lượt ném mấy chiếc giỏ trên đó xuống đất, táo đổ ào xuống như máu trên mũi tôi, cả bọn cuống cuồng chất vào giỏ của mình như một lũ điên. Trong một loáng, toàn bộ táo trên xe đều đổ xuống đất. Khi đó, từ trên dốc lại có mấy chiếc xe kéo xuất hiện và chạy ào đến trong tiếng inh ỏi của động cơ. Các xe kéo dừng lại cạnh chiếc xe tải, mấy gã đàn ông nhảy xuống hốt táo đổ vào xe, các giỏ táo trên xe tải không còn một trái bị vứt bừa bãi ngay lúc đó. Một ít táo rơi vãi ra đất, chúng ngồi xổm xuống nhặt hết.

Chẳng chút e dè, tôi chạy đến bọn này, lớn tiếng nguyền rủa: " Quân ăn trộm!" Tôi nhận ngay những cú đánh đấm hầu như cùng một lúc. Chúng không chừa bộ phận nào trên cơ thể tôi. Tôi bò ra đất trong khi bị mấy đứa nhỏ ném táo vào người, táo nát cả ra trên đầu tôi. Tôi định nhào đến đánh lại mấy đứa này thì lãnh ngay một cú đá ngay sườn. Tôi muốn kêu lên nhưng không còn hơi sức nào. Tôi đổ sụp xuống không còn bò được nữa, chỉ biết nhìn táo bay tới tấp. Tôi đưa mắt tìm anh tài xế, anh chàng đứng tách ra và nhìn tôi cười rũ rượi, tôi hiểu là khi này thân thể tôi còn đẹp hơn cái mũi lúc nãy.

Cơn giận của tôi bỗng chùng xuống. Tôi chẳng màng đến nguyên nhân tại sao. Nhưng điều làm tôi nổi giận nhất là anh chàng tài xế.

Từ trên dốc cao, xe kéo xe đạp lại tiếp tục đổ xuống, dồn vào nơi vừa diễn ra cuộc tàn sát. Tôi thấy được rằng dưới đất lúc này càng ngày táo càng ít đi, và vài đứa trong bọn bỏ đi thì đứa khác lại tới. Những tên đến sau cùng leo lên lục lọi trên xe tải, tôi thấy chúng gỡ cửa kính, tháo bánh xe, phá những ván gỗ. Không còn bánh, chiếc xe tải trông thảm hại, đầu cúi gầm, lún xuống mặt đất. Có mấy đứa trẻ đến nhặt những chiếc giỏ bị vứt ra. Mặt đất sạch sẽ hơn, người thưa dần đi. Giờ này tôi chỉ còn biết quan sát, không thấy tức giận nữa. Tôi ngồi bệt xuống đất, bất động, chỉ còn biết nhìn. Bây giờ trống trải cả rồi, chỉ còn lại một chiếc xe kéo dừng lại cạnh bên xe tải nằm bẹp. Có mấy người đứng nhìn quanh quất, xem thử còn gì 
mang đi nữa không. Cuối cùng, chúng leo lên xe kéo và cho xe chạy. Tôi thấy anh tài xế cùng lên xe với bọn kia, sau khi ngồi yên suốt thời gian xe tải bị trộm, rồi nhìn tôi phá lên cười. Tôi nhìn thấy anh ta cầm cái gì đó trong tay: thì ra hắn đã cướp chiếc túi xách của tôi. Trong cái túi là áo quần, tiền bạc, có cả thực phẩm và mấy cuốn sách. Hắn đã lấy mang đi. Tôi thấy chiếc xe kéo leo lên dốc, rồi khuất dạng, nhưng tôi vẫn còn nghe tiếng động cơ. Rồi một lát sau cũng không nghe thấy nữa. Bất chợt, hoàn toàn yên ắng, và trời bắt đầu tối. Tôi vẫn ngồi dưới đất, đói và lạnh, nhưng giờ này tôi không còn gì nữa cả. Tôi ngồi yên như thế thật lâu, rồi bắt đầu bò chầm chậm, khó nhọc, vì mỗi động tác khiến tôi đau dữ dội khắp cơ thể, nhưng rồi tôi cũng bò được. Cuối cùng tôi cũng bò tới chiếc xe tải. Xe trông thật thảm hại, bẹp lún xuống, đâu cũng có vết bầm, tôi tự nhủ, chính tôi cũng có vết bầm đầy người đây thôi.

Tôi mở cửa xe chui vào. Ghế ngồi chưa bị tháo, may cho tôi. Tôi nằm duỗi dài trên khoang xe phía trước. Nghe có mùi xăng chảy, như mùi máu từ cơ thể tôi chảy ra. Bên ngoài, gió càng lúc càng thổi mạnh, nhưng, nằm dài trên ghế, tôi cảm thấy ấm. Tôi hình dung là chiếc xe dù đầy vết bầm tím nhưng bên trong không có thương tích mà có hơi ấm, và tôi cảm thấy trong tôi cũng có hơi ấm như vậy. Tôi đã bỏ công đi tìm một cái quán, mà không hề nghĩ rằng, xét cho cùng, cái quán là nơi đây rồi. Tôi đang nằm trong lòng xe tải, với cảm tưởng đang tắm ánh nắng ban trưa, vào một ngày sáng sủa, không gợn mây, dưới ánh mặt trời êm dịu.

Tôi hồi tưởng là mình đã trải qua nhiều thời gian vui chơi ở ngoài, thật hạnh phúc, rồi, lúc về nhà, thấy ba tôi bên cạnh cửa sổ đang chuẩn bị chiếc túi xách màu đỏ. Tôi chạy đến cửa sổ hỏi: " Ba định đi xa sao?"

Ba tôi quay lại trả lời: " Không phải ba, mà con mới là người ba muốn sẽ ra đi."
" Ba muốn con đi à?" - "Đúng vậy, con đã mười tám tuổi rồi, con phải đi để biết thế giới bên ngoài ra sao." Thế là tôi đã khoác chiếc túi đỏ xinh đẹp đó lên vai, ba tôi vỗ nhẹ sau đầu tôi, kiểu như người ta vỗ sau mông con ngựa. Và tôi sung sướng rời khỏi nhà, như một con ngựa khoan khoái phóng nước đại.


( theo bản tiếng Pháp của Brigitte Duzan )
Nguồn : chinese-shortstories.com

THÂN TRỌNG SƠN

dịch và giới thiệu.