TIẾNG LOA KÈN
O’ Henry
( 1862 - 1910 )
O’Henry , nhà văn Mỹ, tác giả của gần 400 truyện ngắn đăng trong các nhật báo và tạp chí, sau được in trong mười tập truyện. Cuộc đời của Ông rất phong phú : làm nhiều nghề khác nhau ( dược sĩ, vẽ kỹ thuật và kiến trúc, thư ký, đầu bếp nhà hàng, nhân viên công ty địa ốc, nhân viên xưởng in… ), từng tham gia ca hát, diễn kịch, vẽ hí họa, có lúc bệnh nặng, có lúc ở tù. Có lẽ vì thế mà bối cảnh các truyện ngắn của Ông cũng rất phong phú, khắc họa xã hội nước Mỹ thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Phần lớn truyện ngắn của Ông có cốt truyện đơn giản, với nhiều tình tiết oái oăm, khắc nghiệt, có khi khôi hài để kết thúc bất ngờ.
Về bút danh của ông, có một tờ báo đã hỏi ông chữ O có ẩn ý gì, và ông nói: " O là của Olivier, cái tên Pháp của Oliver". Và thực sự là đã có một vài truyện ông ký tên Olivier Henry.
Những truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông là: After 20 years ( Hai mươi năm sau ), The Gìft of the Magi ( Món quà của các nhà thông thái ; “Chiếc lá cuối cùng” ( The last leaf ) là một truyện ngắn nổi tiếng, được nhiều nước chọn đưa vào sách giáo khoa, tại Việt Nam truyện này được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 8.
Sau những năm tháng cùng quẫn, mặc dù đến lúc đã nổi danh và có tiền nhuận bút khá, O’ Henry vẫn không được hưởng hạnh phúc vào những năm cuối đời: khó khăn về tài chính vì chi tiêu quá cao, lại thêm chứng lao phổi lây từ người mẹ và tật nghiện rượu nhiễm từ người cha. Ông qua đời một cách khổ sở tại thành phố New York do bệnh lao cộng thêm chứng xơ gan khi mới 47 tuổi.
O’ Henry được xem như một trong những bậc thầy về truyện ngắn trên văn đàn thế giới, bên cạnh Tchekhov của Nga, Saki của Anh, Guy de Maupassant của Pháp.
Năm 1919, Hội Nghệ thuật và Khoa học ( Society of Arts and Sciences ) thiết lập
“ Giải thưởng Tưởng niệm O’ Henry” ( O’ Henry Memorial Awards ), hàng năm trao cho những truyện ngắn đặc sắc.
Có lẽ nhờ cuộc đời phong phú của tác giả nên các truyện ngắn của O. Henry (tổng cộng gần 400 truyện ), cũng thể hiện các nét đa dạng của xã hội Mỹ đương thời. Người ta có thể tìm thấy những nhân vật làm các nghề mà chính tác giả đã trải qua, và còn nữa: chủ cửa hiệu, nhân viên bán hàng, ký giả, họa sĩ, bác sĩ, diễn viên sân khấu, thợ cắt tóc, cảnh sát, thanh tra, dân đi tìm vàng, cũng có những người vô nghề nghiệp vô gia cư, và kể cả kẻ tội phạm và tù nhân.
Những bối cảnh trong các truyện ngắn cũng phong phú, với nhiều truyện lấy Thành phố New York - nơi O. Henry sống tám năm cuối đời ông - làm bối cảnh, cộng thêm những mẩu chuyện phiêu lưu trong vùng Trung và Tây - Nam nước Mỹ. Tất cả đều biểu hiện khung cảnh xã hội kinh tế nước Mỹ vào thời khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, lúc đường Thành phố New York còn được thắp sáng bằng đèn ga, người còn dùng xe ngựa để di chuyển, nhiều dân chăn bò (cowboy, hay "cao bồi") vẫn còn sống bờ sống bụi và xem pháp luật bằng nửa con mắt, dân đi tìm vàng tự lập nên những thị trấn mới rồi "tự cai tự quản", v.v.
Người đọc truyện của Ông không bao giờ đoán trước được đoạn kết.
Trong nhiều truyện ngắn, O. Henry thường khai thác những nghịch lý của đời sống đô thị hiện đại: sự thông minh xen lẫn dại dột, sự lương thiện đối lập với tội ác, và đặc biệt là những cú xoay chuyển bất ngờ ở hồi kết. The Clarion Call là một ví dụ tiêu biểu. Câu chuyện xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa Barnard Woods – một thám tử đã thất thế – và John Kernan – kẻ tội phạm ngạo mạn từng giúp đỡ ông trong quá khứ. Qua diễn tiến bất ngờ, tác phẩm khắc họa mối quan hệ phức tạp giữa tình riêng và trách nhiệm, đồng thời phơi bày vai trò của báo chí và sức mạnh tự hủy của lòng kiêu ngạo.
Ngay từ đầu, Woods bị đặt trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Ông là thám tử, nhưng Kernan lại là người từng cứu mạng ông. Lẽ ra sự trung thành và biết ơn có thể khiến ông nhắm mắt làm ngơ trước tội ác của Kernan. Thế nhưng, khi chứng kiến những câu chuyện khoe khoang của hắn – từ “thành công” trong việc lừa lọc, cướp bóc, cho đến tội ác giết người – trong Woods dần dấy lên nỗi ghê tởm. O. Henry cho thấy: lòng biết ơn có thể ngăn ta phản bội một con người, nhưng không thể ngăn ta khước từ một kẻ đã trở thành hiện thân của cái ác. Trách nhiệm xã hội và ý thức công lý cuối cùng đã thắng thế.
Kernan không chỉ là kẻ tội phạm, hắn còn là một kẻ tội phạm say mê chính mình. Trong cơn say và sự phô trương, hắn đã gọi điện trực tiếp đến tòa soạn báo, tự thú vụ giết Norcross và nhạo báng báo chí. Chính hành động tưởng như là trò đùa đó lại trở thành bằng chứng chống lại hắn. O. Henry đã tinh tế xây dựng chân dung một kẻ tội phạm bị chính lòng ngạo mạn đưa đến chỗ sụp đổ. Điều này phù hợp với quy luật đạo đức truyền thống: kẻ tội lỗi thường không gục ngã vì sự khôn ngoan của công lý, mà vì chính sự tự phụ của mình.
Đoạn văn miêu tả tiếng rao báo sớm tinh mơ là một trong những trang viết giàu hình ảnh nhất. Tiếng rao ấy vừa là sự ồn ào náo nhiệt của đô thị, vừa là biểu tượng cho sức mạnh của truyền thông – cái quyền lực phổ biến tin tức, định đoạt số phận con người trong một thế giới đang vận động không ngừng. Báo chí được gọi là “Clarion Call” – kèn lệnh – vừa gợi âm hưởng hùng tráng, vừa phảng phất sự lạnh lùng: nó loan báo niềm vui hay nỗi khổ, sự cứu rỗi hay sự diệt vong, mà không quan tâm đến số phận cá nhân. Trong trường hợp Kernan, báo chí trở thành công cụ gián tiếp dẫn hắn đến vòng lao lý, chứng minh rằng “cái loa của công luận” vẫn là sức mạnh không thể coi thường.
Điểm đặc trưng của O. Henry là cú “twist” cuối truyện. Woods, kẻ tưởng chừng đã mất đi khả năng hành động, bất ngờ dùng chính sự kiêu ngạo của Kernan để nhận về số tiền thưởng – bằng cách viết giấy ủy nhiệm cho kẻ phạm tội. Cái kết ấy vừa hợp lý, vừa trớ trêu: Kernan, trong cơn cười cợt báo chí, không ngờ mình đã ký bản án cho chính mình. Woods, trong nỗi day dứt về ân nghĩa, rốt cuộc lại tìm thấy con đường vừa hợp pháp, vừa hợp lương tâm: ông không phản bội ân nhân, mà trao hắn cho công lý như là kết quả tất yếu của hành vi ngạo mạn.
The Clarion Call không chỉ là một câu chuyện trinh thám – tội phạm thông thường. Nó là lời nhắc nhở về giới hạn của lòng biết ơn khi đối diện với cái ác, là minh chứng cho quy luật tự hủy của sự kiêu căng, và đồng thời là bản phác họa sắc nét về sức mạnh của báo chí trong xã hội hiện đại. Qua nghệ thuật kể chuyện dí dỏm, tình huống bất ngờ và giọng văn mỉa mai, O. Henry đã biến một vụ án thành một ẩn dụ rộng lớn: trong guồng quay của đô thị, những tiếng “kèn lệnh” báo chí không chỉ đưa tin mà còn trở thành phát ngôn của số phận.
* * *
( Một nửa câu chuyện này có thể tìm thấy trong hồ sơ của Sở Cảnh sát; nửa còn lại thuộc về phía sau quầy giao dịch của một tòa soạn báo.)
Một buổi chiều, hai tuần sau khi triệu phú Norcross bị phát hiện chết trong căn hộ của mình bởi một tên trộm, thì chính kẻ sát nhân ấy, đang thản nhiên dạo bước trên đại lộ Broadway, bất ngờ đụng ngay mặt Thanh tra Barney Woods.
“Có phải cậu đấy không, Johnny Kernan?” Woods hỏi, vốn đã cận thị trong đám đông suốt năm năm nay.
“Không sai!” Kernan vui vẻ kêu lên. “Nếu đây chẳng phải là Barney Woods, người xưa kẻ cũ ở Saint Jo thì còn ai vào đây nữa! Quả thật là bất ngờ đấy! Thế cậu làm gì ở miền Đông vậy? Chẳng lẽ bọn phát tờ rơi tiền giả còn bén mảng ra tận đây sao?”
“Tôi ở New York cũng nhiều năm rồi, hiện là thám tử của thành phố.”
“Ồ, tuyệt quá!” Kernan hớn hở thở phào, vỗ vỗ cánh tay viên thám tử.
“Vào quán Muller đi,” Woods nói, “mình tìm một bàn yên tĩnh. Tôi muốn nói chuyện với cậu một lát.”
Khi ấy chỉ còn vài phút nữa là bốn giờ. Làn sóng buôn bán chưa ập xuống phố, họ dễ dàng tìm được một góc yên tĩnh trong quán cà phê. Kernan, ăn mặc bảnh bao, dáng hơi khệnh khạng, tự tin, ngồi đối diện với viên thám tử nhỏ thó, ria hung nhạt, mắt nheo nheo và bộ đồ sẵn vải cheviot.
“Bây giờ cậu làm nghề gì thế?” Woods hỏi. “Cậu biết mà, cậu rời Saint Jo trước tôi một năm.”
“Tôi bán cổ phần trong một mỏ đồng,” Kernan đáp. “Có thể tôi sẽ lập văn phòng ở đây. Ồ, thật bất ngờ, hóa ra Barney lại là thám tử New York. Tôi nhớ cậu vốn có thiên hướng như thế. Hồi tôi rời Saint Jo cậu cũng đã vào ngành cảnh sát rồi, đúng không?”
“Đúng, sáu tháng,” Woods đáp. “Và giờ thì, Johnny, còn một câu hỏi nữa. Tôi đã theo dõi hồ sơ của cậu khá kỹ kể từ vụ trộm khách sạn ở Saratoga, nhưng chưa từng biết cậu dùng súng bao giờ. Tại sao cậu lại giết Norcross?”
Kernan chăm chú nhìn vào lát chanh trong ly rượu pha whisky của mình một lúc lâu, rồi bỗng ngẩng lên, nở một nụ cười méo xệch nhưng sáng rực.
“Làm sao cậu đoán ra thế, Barney?” hắn hỏi, đầy thán phục. “Thề có trời, tôi tưởng vụ này sạch sẽ, trơn tru như củ hành đã lột vỏ. Tôi có để sót manh mối gì sao?”
Woods đặt lên bàn một cây bút chì vàng nhỏ, loại thường dùng làm mặt dây đồng hồ.
“Cái này chính tôi đã tặng cậu Giáng sinh cuối cùng ở Saint Jo. Tôi vẫn còn giữ cái cốc cạo râu của cậu. Tôi tìm thấy nó dưới mép tấm thảm trong phòng Norcross. Cẩn thận với lời nói của cậu, Johnny. Tôi đã có bằng chứng buộc tội cậu rồi. Chúng ta từng là bạn, nhưng tôi phải làm bổn phận. Cậu sẽ phải lên ghế điện vì Norcross.” Kernan phá lên cười.
“Vận may vẫn đứng về phía tôi,” hắn nói. “Ai mà ngờ Barney lại lần theo dấu mình chứ!” Hắn thò một tay vào trong áo. Chỉ trong chớp mắt, Woods đã dí thẳng khẩu súng lục vào sườn hắn.
“Cất nó đi,” Kernan nhăn mũi. “Tôi chỉ kiểm tra thôi mà. A ha! Chín thợ may mới khâu xong một bộ đồ, nhưng chỉ cần một người là có thể làm gọn một gã. Cậu thấy cái lỗ ở túi áo gi-lê không? Tôi tháo bút chì khỏi dây đeo và nhét tạm vào đó, phòng khi có chuyện. Bỏ súng đi, Barney, tôi sẽ kể cho cậu vì sao tôi phải bắn Norcross. Lão ngốc ấy chạy theo tôi ngoài hành lang, bắn loạn xạ vào mấy cái cúc sau lưng tôi bằng khẩu .22 bé tí, tôi buộc phải chặn lại. Còn bà vợ lão thì dễ thương lắm. Bà chỉ nằm trên giường, để mặc cho sợi dây chuyền kim cương mười hai ngàn đô trôi đi mà chẳng hé nửa lời, chỉ năn nỉ như một kẻ ăn mày xin lại cái nhẫn vàng gắn đá garnet trị giá chừng ba đô. Tôi đoán bà lấy Norcross cũng chỉ vì tiền thôi. Nhưng lạ thay, mấy bà ấy lại cứ khư khư mấy món kỷ vật từ Người Đàn Ông Thua Cuộc chứ! Tổng cộng sáu cái nhẫn, hai trâm cài, một đồng hồ cài lưng. Mười lăm ngàn là đủ hết.”
“Tôi đã cảnh báo cậu đừng nói nhiều,” Woods nhắc.
“Không sao,” Kernan đáp. “Đống đồ vẫn trong va-li ở khách sạn. Và giờ tôi sẽ nói lý do vì sao tôi dám khai ra: vì tôi biết chắc mình an toàn. Tôi đang nói chuyện với một người quen cũ. Cậu còn nợ tôi một ngàn đô, Barney Woods, và dẫu cậu có muốn bắt tôi thì tay cậu cũng chẳng thể nào động nổi.”
“Tôi không quên,” Woods nói. “Cậu đã đếm ra hai mươi tờ năm mươi mà không hề hỏi một câu. Một ngày nào đó tôi sẽ trả. Khoản đó đã cứu tôi… khi tôi về đến nhà thì người ta đang quẳng đồ đạc của tôi ra vỉa hè rồi.”
“Cho nên,” Kernan tiếp lời, “với một người như Barney Woods, vốn thẳng thắn như thép, biết chơi một trò chơi quang minh chính đại, thì chẳng thể nào đưa tay bắt kẻ mà mình còn mắc nợ. Trong nghề này, ngoài việc nghiên cứu khóa Yale và then cài cửa sổ, tôi còn phải học cách đọc lòng người nữa chứ. Giờ thì im nào để tôi gọi bồi bàn. Tôi mang trong mình một cơn khát dai dẳng suốt mấy năm, nó hành hạ tôi ghê lắm. Nếu có ngày tôi sa lưới, công đầu sẽ phải chia cho ông bạn Booze kia. Nhưng trong giờ làm ăn thì tôi không uống. Sau một phi vụ, tôi mới có thể cụng ly với người bạn cũ Barney trong lương tâm thanh thản. Cậu dùng gì nào?”
Người bồi bàn mang đến mấy chai nhỏ và ống xiphông rồi để họ lại một mình.
“Cậu nói đúng,” Woods trầm ngâm, vừa lăn cây bút chì vàng dưới ngón tay. “Tôi phải bỏ qua cho cậu. Tôi không thể ra tay. Nếu tôi đã trả xong món nợ ấy… nhưng tôi chưa trả, và thế là hết. Đây là một bước hụt lớn, Johnny, nhưng tôi chẳng thể tránh. Cậu đã từng giúp tôi, thì giờ tôi phải đáp lại.”
“Tôi biết mà,” Kernan nâng ly, nụ cười hãnh diện ửng hồng trên mặt. “Tôi rất giỏi nhìn người. Nào, chúc mừng Barney – một người bạn tuyệt vời!”
“Tôi không nghĩ,” Woods nói tiếp, giọng như đang lẩm bẩm với chính mình, “rằng nếu như mọi khoản nợ giữa tôi với cậu đã sòng phẳng, thì tất cả tiền bạc trong mọi ngân hàng ở New York có thể mua chuộc tôi thả cậu tối nay.”
“Tôi biết chứ,” Kernan đáp. “Bởi thế mà tôi chắc chắn mình an toàn với cậu.”
“Phần lớn người đời,” viên thám tử tiếp lời, “đều nhìn nghề của tôi bằng con mắt khác. Họ không coi nó thuộc về nghệ thuật hay những nghề nghiệp cao quý. Nhưng tôi thì luôn lấy làm kiêu hãnh, dẫu là niềm kiêu hãnh ngốc nghếch. Và giờ thì tôi phá sản rồi. Tôi đoán mình là một con người trước tiên, rồi mới là thám tử sau đó. Tôi phải để cậu đi, và sau đó tôi cũng phải từ chức. Có lẽ tôi sẽ đi lái xe chở hàng. Khoản nợ ngàn đô kia càng xa vời hơn nữa, Johnny.”
“Ôi, cậu cứ coi như bỏ đi,” Kernan nói, giọng bề trên. “Tôi cũng sẵn lòng xóa nợ, nhưng tôi biết cậu sẽ không chịu. Ngày cậu vay tiền ấy hóa ra lại là may mắn cho tôi. Thôi, đừng nhắc chuyện đó nữa. Sáng mai tôi lên tàu đi miền Tây. Tôi biết một chỗ ngoài đó có thể tiêu thụ mấy viên kim cương của Norcross. Nào, uống đi, Barney, quên hết phiền muộn. Chúng ta sẽ vui chơi thỏa thích trong khi cảnh sát còn đang đập đầu vào nhau với vụ án này. Tối nay tôi lại lên cơn khát dữ dội. Nhưng tôi đang trong tay, trong tay không chính thức, của người bạn cũ Barney, và sẽ không mơ thấy một ông cớm nào đâu.
Rồi, khi Kernan vẫn đặt tay lên cái nút bấm và bắt người hầu bàn chạy tới lui, nhược điểm của y, một thói hợm hĩnh ghê gớm và cái tôi kiêu căng, bắt đầu bộc lộ rõ. Y kể hết chuyện này đến chuyện khác về những vụ cướp đoạt thành công, những âm mưu tinh vi và những tội ác tày trời của mình, cho đến khi Woods – dù từng quen thuộc với bao kẻ phạm pháp, vẫn cảm thấy trong lòng mình dấy lên một nỗi ghê sợ lạnh lẽo trước kẻ độc ác hoàn toàn, kẻ đã từng là ân nhân của ông.
“Dĩ nhiên là tôi xong rồi,” Woods cuối cùng nói. “Nhưng tôi khuyên anh nên ẩn thân một thời gian. Báo chí có thể sẽ khai thác vụ Norcross này. Hè năm nay trong thành phố đã xảy ra hàng loạt vụ trộm và giết người.”
Nghe chữ ấy, Kernan bừng lên một cơn giận âm ỉ và độc địa.
“Quỷ tha ma bắt bọn báo chí!” hắn gầm gừ. “Chúng có nghĩa gì ngoài ba cái trò khoe khoang, khoác lác và moi tiền bằng những con chữ to bằng toa tàu hỏa? Cứ cho là chúng có đăng vụ án đi, thì có nghĩa lý gì? Cảnh sát dễ lừa lắm; còn báo chí thì sao? Chúng chỉ sai một lũ phóng viên đầu đất đến hiện trường; rồi chúng kéo ngay vào quán rượu gần nhất, gọi bia và chụp ảnh cô con gái lớn của ông chủ quán trong bộ váy dạ hội để in lên báo như thể là vị hôn thê của chàng trai ở tầng mười, kẻ đêm xảy ra vụ án đã ngỡ rằng mình nghe thấy tiếng động ở dưới. Đó, báo chí săn bắt được ‘ngài Ăn Trộm’ cũng chỉ đến thế thôi.”
“Ờ, tôi cũng không chắc đâu,” Woods trầm ngâm. “Có vài tờ báo đã làm việc khá tốt về mảng này. Lấy tờ Morning Mars làm ví dụ. Nó đã lần ra được vài manh mối, và tóm được thủ phạm sau khi cảnh sát đã bỏ mặc để vụ việc nguội lạnh.”
“Để tôi cho anh xem,” Tiernan nói, đứng lên, ưỡn ngực. “Để tôi cho anh thấy tôi nghĩ thế nào về báo chí nói chung, và cái tờ Morning Mars của anh nói riêng.”
Cách bàn của họ chừng một mét có một buồng điện thoại. Kernan bước vào, ngồi xuống bên máy, để cửa mở. Hắn tìm số trong danh bạ, nhấc ống nghe và gọi tổng đài. Woods ngồi im, nhìn khuôn mặt lạnh lùng, khinh miệt, đầy cảnh giác của hắn kề sát vào máy truyền âm, và lắng nghe những lời tuôn ra từ đôi môi mỏng, hung hãn, cong lên trong một nụ cười mỉa mai.
“Đó có phải là tòa soạn Morning Mars không? … Tôi muốn gặp tổng biên tập … Sao, bảo với ông ta có người muốn nói về vụ án mạng Norcross.
“Ông là tổng biên tập à? … Được. … Chính tôi là kẻ đã giết lão Norcross … Chờ đã! Giữ máy đi; tôi không phải hạng điên rồ thường đâu … Ồ, chẳng có gì nguy hiểm cả. Tôi vừa bàn chuyện này với một ông bạn thám tử đây. Tôi giết lão già vào lúc 2 giờ rưỡi sáng, hai tuần trước, tính đến ngày mai … Uống với ông một ly? Thôi nào, để mấy câu đùa đó cho ông chọc cười thì hơn! Ông không phân biệt nổi lúc nào người ta giỡn ông và lúc nào người ta trao cho ông tin chấn động nhất mà cái mảnh giẻ ướt của ông từng có sao? … Ờ, đúng, nó là một tin nửa vời – nhưng ông cũng không thể mong tôi gọi điện mà khai tên tuổi và địa chỉ của mình.
… Vì sao à? Ồ, bởi tôi nghe nói báo ông chuyên phá những vụ án bí ẩn làm cảnh sát bó tay … Không, chưa hết đâu. Tôi muốn nói cho ông biết rằng cái tờ lá cải thối tha, lừa lọc, rẻ tiền của ông còn vô dụng hơn cả một con chó poodle mù trong việc truy lùng một tên sát nhân hay kẻ cướp có đầu óc … Gì cơ? … Không, đây chẳng phải văn phòng báo đối thủ đâu; ông nghe thẳng từ tôi đây. Chính tôi đã làm vụ Norcross, và tôi đang giữ nữ trang trong va-li ở — ‘không thể tìm ra tên khách sạn’ — ông quen thuộc câu chữ đó chứ? Tôi nghĩ thế. Ông dùng nó không biết bao nhiêu lần rồi. Khá bất ngờ chứ gì, khi tên tội phạm bí ẩn gọi thẳng đến cơ quan quyền lực to lớn của công lý và chính nghĩa của ông, để nói rằng ông chỉ là một cái túi khí bất lực? … Thôi bỏ đi; ông không ngu đến thế đâu, không, ông không nghĩ tôi lừa đâu. Tôi nghe giọng ông là biết. … Giờ thì nghe đây, tôi sẽ cho ông một chi tiết để chứng thực. Tất nhiên đám nhân viên sáng dạ của ông đã mổ xẻ vụ án này rồi. Nửa cái cúc thứ hai trên áo ngủ của bà Norcross đã bị bẻ gãy. Tôi thấy rõ khi tháo chiếc nhẫn ngọc thạch từ tay bà ấy. Tôi tưởng nó là hồng ngọc. … — Thôi dẹp! Cái trò đó vô dụng rồi.”
Kernan quay lại, nở nụ cười quỷ quyệt với Woods.
“Hắn mắc câu rồi. Hắn tin tôi. Hắn vừa hạ tay khỏi máy truyền âm để bảo ai đó gọi sang tổng đài bằng một đường dây khác để dò số của chúng ta. Tôi sẽ tặng hắn thêm một nhát cuối, rồi ta chuồn.”
“A lô! … Vâng, tôi còn ở đây. Ông không tưởng tôi lại chạy khỏi một tờ báo lá cải, nhận tiền, phản trắc như ông chứ? … Tóm được tôi trong vòng bốn mươi tám tiếng à? Thôi nào, ông bỏ trò pha trò đi. Lo mà làm cái công việc săn tin ly dị, tai nạn xe điện và in cái thứ nhơ nhớp, bê bối mà ông sống bằng nó ấy. Tạm biệt, ông bạn già – tiếc là tôi chẳng có thì giờ ghé thăm ông. Tôi thấy hoàn toàn an toàn trong sanctum asinorum của ông. Tra-la!”
“Hắn tức điên như mèo mất mồi,” Kernan vừa gác máy vừa bước ra.
“Và giờ, Barney, anh bạn, ta đi xem hát cho vui tới giờ đi ngủ hợp lý. Tôi chỉ cần bốn tiếng ngủ thôi, rồi chuyến tàu đi về phía tây.”
Cả hai dùng bữa tại một nhà hàng ở Broadway. Kernan rất mãn nguyện với bản thân. Hắn tiêu tiền như một ông hoàng trong tiểu thuyết. Rồi một vở nhạc kịch kỳ lạ và lộng lẫy cuốn hút họ. Sau đó là bữa khuya muộn trong một phòng nướng thịt, với rượu sâm banh, và Kernan ở tột đỉnh sự tự mãn.
Ba giờ rưỡi sáng, họ ngồi ở một góc trong quán cà phê thâu đêm, Kernan vẫn khoác lác một cách nhạt nhẽo, dông dài, còn Woods thì đăm chiêu nghĩ về hồi kết của quãng đời ông từng giữ gìn luật pháp.
Nhưng khi trầm ngâm, đôi mắt ông lại sáng lên với một tia sáng dò xét.
“Không biết có thể chăng,” ông tự nhủ, “tôi… không biết có thể chăng!”
Và rồi, bên ngoài quán cà phê, cái tĩnh lặng tương đối của buổi sớm tinh mơ bị xé toạc bởi những tiếng kêu mơ hồ, lạc lõng, giống như những con đom đóm âm thanh, lúc lớn dần, lúc nhỏ đi, chập chờn giữa tiếng bánh xe sữa lộc cộc và những chiếc xe hiếm hoi chạy qua. Khi gần lại, chúng là những tiếng kêu the thé, những âm thanh quen thuộc mang theo muôn vàn ý nghĩa đối với những tai người trong hàng triệu kẻ đang ngủ mê của thành phố lớn, những kẻ tình cờ tỉnh dậy để nghe chúng. Những tiếng kêu ấy, trong cái âm lượng nhỏ bé nhưng dồn nén, chở nặng cả nỗi đau, niềm vui, sự căng thẳng và hân hoan của thế gian.
Với một số người, đang run rẩy dưới tấm màn che tạm bợ của bóng đêm, chúng mang tin tức về một ban ngày sáng chói, khủng khiếp; với kẻ khác, đang chìm trong giấc ngủ yên lành, chúng báo hiệu một buổi sớm sẽ đen tối hơn cả bóng đêm. Với nhiều kẻ giàu, chúng là cây chổi quét đi của cải họ vừa sở hữu lúc sao còn sáng; với người nghèo, chúng chỉ mang đến một ngày nữa mà thôi.
Khắp thành phố, những tiếng kêu ấy đồng loạt cất lên, dồn dập và ngân vang, loan báo những cơ hội mà sự trượt lệch của một bánh răng nhỏ trong cỗ máy thời gian đã tạo ra; phân phát cho những kẻ đang ngủ mê, phó mặc cho định mệnh, sự trả thù, lợi lộc, đau buồn, phần thưởng và bản án mà con số mới trong tờ lịch đã mang đến cho họ. The thé mà não nề, như thể những giọng trẻ trung ấy than khóc rằng trong tay mình nắm giữ quá nhiều tội ác và quá ít điều thiện. Và thế là, trong những con đường của thành phố bất lực, vang vọng lời truyền đạt những sắc lệnh mới nhất của chư thần – tiếng rao báo chí – Lời Kêu Gọi Hùng Tráng của Báo In.
Woods quẳng cho bồi bàn một đồng xu, nói:
“Đưa tôi tờ Morning Mars.”
Khi tờ báo được mang tới, ông liếc qua trang nhất, rồi xé một tờ giấy trong cuốn sổ ghi chú và bắt đầu viết bằng chiếc bút chì cũ kỹ nhỏ bé.
“Có tin gì mới không?” Kernan ngáp hỏi.
Woods lật tờ giấy viết đưa qua cho hắn:
“Tờ New York Morning Mars
Xin hãy trả cho John Kernan số tiền một ngàn đô la tiền thưởng thuộc về tôi, nhờ việc bắt giữ và kết án hắn.
Ký tên: BARNARD WOODS.”
“Tôi đoán họ sẽ làm vậy,” Woods nói, “sau khi anh chế giễu họ thậm tệ như thế. Giờ thì, Johnny, anh sẽ phải theo tôi về đồn cảnh sát.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch và giới thiệu
Tháng 9 / 2025
Nguồn:
https://americanliterature.com/author/o-henry/short-story/the-clarion-call

Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire