dimanche 28 juin 2015

Thơ VU KIÊN


( Yu Jian 于坚 )
Nhà thơ Trung Quốc
(1954-).


      Sinh năm 1954 tại Vân Nam, Tây Nam Trung Quốc, Vu Kiên phải bỏ ngang việc học dưới thời Cách mạng Văn hoá, mười lăm tuổi đi làm công nhân. Chịu ảnh hưởng của thân phụ, vốn ham chộng thi ca cổ điển, ông bắt đầu làm thơ từ những năm giữa thập niên 70. Năm 1980, nhân lúc các trường đại học được mở cửa trở lại, ông vào học Đại học Vân Nam và tốt nghiệp ngành văn học Trung Quốc năm 1984. Hai năm sau, những bài thơ đầu tiên của ông đã xuất hiện trên các tạp chí văn học.
         Vu Kiên kể lại quãng đời này:

       " Khi tôi bắt đầu viết, không có cách gì để công bố tác phẩm của mình được vì không hề có tạp chí văn học nào dưới thời Cách mạng Văn hoá, và không ai có thể viết loại thơ mà tôi đang viết. Thơ được xem như phương tiện tuyên truyền của nhà nước. Thế nên tôi chỉ có thể viết một cách bí mật, đấy chỉ là một sinh hoạt hoàn toàn riêng tư của tôi, và tôi cũng không trông mong kiếm sống với việc này.  Ở xí nghiệp, tôi là thợ mộc, thợ tán đinh, thợ hàn, thợ khoan, và tôi dốc sức làm việc. Sau mười năm, tôi trở thành công nhân lành nghề và có thu nhập khá. Trong suốt thời gian làm thợ, tôi đã đọc và tự học về ngôn ngữ và văn chương, nhờ đó tôi không gặp khó khăn nào khi thi vào trường đại học. Về sau, khi các tạp chí văn học được xuất bản trở lại tôi đã gởi đăng một vài bài thơ của mình, nhưng tôi có ý định sẽ sống với công việc khác, ngoài việc viết lách. Thật tình là tôi không tin mình có thể sống được bằng ngòi bút, nhất là tại Trung Quốc từ sau năm 1949 - viết lách trở thành một công việc nguy hiểm, bất cứ lúc nào nó cũng có thể làm cho cuộc sống nhà văn bị đảo lộn ngay..."
        Thời gian này, Vu Kiên đọc rất nhiều. Các tác giả cổ điển ông ưa thích là Vương Duy và Tô Thức, sau mới đến Lỗ Tấn. Ông cũng sớm làm quen với văn học phương Tây, với Shakespeare, Goethe, Whitman, các tác giả Pháp như Balzac, Hugo, Stendhal, Romain Rolland và nhất là các nhà thơ : Rimbaud, Baudelaire, Valéry, Prévert. 
            Đọc và nghiền ngẫm, nhưng khi sáng tác, ông tự chọn con đường riêng của mình. Ông không để lôi cuốn bởi trào lưu " thơ mông lung " ( 朦胧诗 mông lông thi ) , "mông lung" về nội dung và "cách tân" về hình thức, phát triển đầu những năm 80 thế kỷ trước.  
       Thơ tôi khác biệt thơ mông lung, tôi cố tránh lối diễn đạt mơ hồ, tối nghĩa. Theo tôi, viết tối tăm rất dễ. Tôi nhận thức được tầm quan trọng của cách diễn đạt rõ ràng và dễ hiểu. Tôi hiểu sức mạnh của ngôn ngữ, mỗi khi viết, bạn đã tạo ra biểu tượng và ẩn dụ. Mặt khác, viết là thể hiện cái " tâm " ( 心 ) của mình đối với thế giới. Ngôn ngữ phương Tây thường dịch 心 là trái tim hay là tinh thần, có lẽ khái niệm về 心 không có tương đương. Dẫu sao, đây không phải là thứ mà các nhà tâm lý hay nhà phân tâm học có thể giải thích dễ dàng.
      Thơ của tôi có thể tóm tắt bằng mấy chữ: đời sống thường ngày. Tất nhiên có khía cạnh chính trị khi mô tả thực tại..."  

      Vu Kiên mô tả cái thực tại xã hội, chính trị và gia đình đó từ vị trí một người quan sát. " Với tôi, ý tưởng về khoảng cách rất quan trọng. Tôi thích đứng lùi ra. Đấy là khoảng cách tinh thần, không phải là khoảng cách của một ẩn sĩ sống trên núi. Tôi quan sát những gì đang diễn ở góc nhìn cố ý từ bên ngoài "  ( Như khi ẩn mình trong nhà bếp, nơi góc khuất, cách bàn ăn hai bước, để quan sát các thực khách). Ông đưa vào thơ những sinh hoạt và vật dụng đời thường, lúc cắt điện, khi mua sắm, căn hộ, siêu thị, bức tường, cái máy giặt...Những yếu tố cụ thể của đời sống như thế được soi rọi trong ánh sáng huyền bí của cội nguồn. Nhìn những sản phẩm thảo mộc trong siêu thị ông thấy cả vụ mùa xanh tươi, nhìn miếng thịt bít tết ông thấy cả con thú đang cựa quậy. Ông mô tả cái cây phải giữ khoảng cách với mọi vật để mời liên tưởng đến chỗ đứng của con người trong thế giới vây quanh: con người không thể thoát ly khỏi môi trường sống.

       Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Vu Kiên là bài thơ dài Hồ sơ số 0, công bố năm 1954. Bài này có hình thức một hồ sơ hành chính, bao gồm nhiều phiếu mà mỗi phiếu liên quan đến khía cạnh cuộc sống của cá nhân. Ông giải thích: 
       " Ở Trung Quốc, cuộc đời chúng tôi lúc nào cũng đi theo những hồ sơ, ngay từ lúc nhỏ. Khi bạn thay đổi một nhiệm sở, cấp trên đơn vị mới sẽ nắm lấy hồ sơ của bạn và dựa vào đó mà ứng xử. Tôi đã tìm thấy hồ sơ của tôi lập từ lúc tôi mới lên bốn, và ý tưởng của bài thơ này bắt đầu từ đó. Tôi tự đặt mình vào vị trí của người thiết lập hồ sơ. Tôi nhại theo ngôn ngữ hành chính. Đây là trải nghiệm viết lách đau thương nhất của tôi, nó theo vào những cơn ác mộng tôi từng có. Tôi mất đến hai năm để hoàn thành tác phẩm này". 

          Ban đầu bài thơ bị giới phê bình gièm pha nhưng đến nay đã được công nhận là  tuyệt tác của thi ca Trung Quốc hiện đại. 
              Hãy đọc thử một đoạn:   

       "(...) Một loạt những động từ/ chìm trong bóng tối/ không sao tránh khỏi/ nó không thể cựa quậy/ không thể ló ra ngoài sáng//Không thể thấm nước/ không thể bắt lửa/ không một con chuột/ không có vi khuẩn/ không một vi sinh vật// Căn cứ vào đó người ta sẽ xem nó là đồng chí/ cấp giấy tờ cho nó/ phát lương cho nó/ công nhận giới tính của nó// Căn cứ vào đó nó đi làm tám tiếng mỗi ngày/ sử dụng đủ loại giấy/ mực và chất lỏng tẩy xoá// (...) Một tiến trình liên tục tận dụng mực viết/ những chuyển động của một người mẫu mực/ ai đó gọi số 0// Cơ thể nó nhận trách nhiệm/ là số 0 nó quay lại trả lời/ người khác đòi nó tờ giấy// Nhà nó không cựa quậy/ vị trí cuả nó không cựa quậy/ những tia sáng không cựa quậy// Các ổ khoá không cựa quậy/ những chiếc tủ lớn bằng thép không cựa quậy/ chiếc phong bì của nó không cựa quậy (...) "

      Hiện nay thơ của Vu Kiên xuất hiện thường xuyên trên các tạp chí và phần lớn tác phẩm đã in trong Vu Kiên Thi Tập do nhà xuất bản Văn học Nhân dân ấn hành từ năm 2000.  Ông được trao tặng Giải thưởng văn học Lỗ Tấn năm 2006.

         Điều đáng ghi nhận là thơ Vu Kiên đang được phổ biến rộng rãi trên thế giới qua các bản dịch tiếng Anh, Pháp, Ý, Đức, Nga, Nhật, Bồ Đào Nha, Thuỵ Điển, Đan Mạch... Ông được đặc biệt yêu thích tại Pháp, các bản dịch đã xuất hiện từ lâu trên tạp chí Po&sie, nhờ lực lượng dịch giả là sinh viên và giáo sư người Trung Quốc đang sống và làm việc tại nước này. Những dịch giả Sebastien Veg, Li Sinjia, Chantal Chen-Andro đã công bố tác phẩm của Vu Kiên với những nhan đề tiếng Pháp ( Dossier 0, Un Vol, Rose évoquée ... ) qua những nhà xuất bản lớn như Gallimard, Caractères ngay từ năm 2005 và tiếp tục những năm sau. Mùa thu năm 2014 ông đã sang đọc và giới thiệu thơ trong các sinh hoạt giao lưu tổ chức tại Paris và nhiều thành phố khác ( Orléans, Montpellier...)

         Ngoài việc sáng tác thơ,Vu Kiên còn là nhà nhiếp ảnh, hoạ sĩ, nhà thư pháp, tác giả kịch bản, đạo diễn phim tài liệu.

    

THƠ
( Nhiều bài không có nhan đề, chỉ đánh số )



239 ( HAI BÀN TAY KHÔNG )


Hai bàn tay không            mang tới một bài thơ
Tôi bước vào phòng khách           nhân sinh nhật chủ nhà
Đẩy cánh cửa              cởi giày ra
Tất cả quý ông quý bà              đều quay đầu lại
Như những con khỉ được thuần dưỡng           đang chờ đợi
Từ hai bàn tay             hệt như nhà ảo thuật
Tôi sẽ rút ra quà tặng               cho chủ nhân
Một đoá hồng         điếu xì gà         một hộp quẹt
Một búp bê           hay là những viên kẹo
Thậm chí            một chiếc xe
Họ đã chuẩn bị những             tiếng hoan hô
Những          " Ồ đẹp quá!"
Và tôi chợt hiểu ra            rằng ở đây
Món quà của tôi không còn coi được
Làm sao giải thích cho chủ nhà mặt mày rạng rỡ
Rằng mừng sinh nhật tôi đã mang tới một bài thơ
Thật hết sức thiếu lịch sự        cổ lỗ        rẻ tiền        kỳ quái
Quá đỗi buồn cười          bủn xỉn        không ai nghĩ ra
Rằng dưới mắt mọi người bài thơ của tôi
Chẳng khác gì kẻ ti tiện         đạo đức giả
Có thể khiến họ thét lên
Kinh tởm.



1


Khi khởi đầu là một con thỏ
Ta biết rõ rằng đằng sau là con sói hung dữ
Nhưng ta tự nhủ vở kịch phải có hồi kết thúc
Ta còn có thời gian
Ta có thể nán lại xem
Chờ lâu hơn nữa
Đến lúc có lẽ là, lạ lùng thay,
Một xe tăng xung kích chạy ngang sân khấu
Và rồi, con sói hung dữ hiện ra đó
Ta đành phải đi ra
Nhưng không nhìn thấy hồi đầu nữa
Không còn con thỏ nữa
Và kết cục duy nhất của tôi là con sói hung dữ.


93 ( CHIỀU NAY NHỮNG ĐÁM MÂY )


Chiều nay những đám mây cuộn vòng như tóc trên đầu Beethoven
Chiều nay trên sân khấu chiếc màn kéo lên dưới bàn tay của hoàng hôn
Một chiếc dương cầm đỏ khổng lồ
Choán chỗ từ Nộ giang đến núi Cao Lê Cống
Từ đáy sâu nước phun lên những giọt trong
Trên cành cây chim chóc rỉa nhổ lông
Con báo vàng bỏ lại móng vuốt ở cửa phòng    con rắn ngóc đầu
Tảng đá nới lỏng vòng ôm tảng đá     trong rừng vỏ cây tối sầm
Từ trên cao sao trời căng tai           mọi sinh vật đều lắng nghe
Diễn tấu đi! Ôi bàn tay bất tử!


79

Xuất phát từ khoảng sáng
Chúng ta đi về phía bóng tối
Không bao giờ ngược lại.


90


Tựa như một khúc uốn trên mặt đất
Tựa như một đoạn thẳng giữa hai điểm
Suốt ngày đêm dòng sông vỗ bập bềnh
Suốt ngày đêm con rắn nước nín thinh.


88


Những bánh xe răng cưa của dòng sông
Đã ngừng lại giữa những tảng đá
Điều này có nghĩa là
Chỉ có Trời mới hiểu.



80


Trong bóng tối
Ta vẫn đi theo những con đường quen thuộc
Như dòng máu biết rõ trái tim
Chúng ta biết, từ chốn sâu thẳm tối tăm,
Tự tổ chức chính mình
Hay hạ gục một đối thủ
Nhưng trong ánh sáng
Khi trước mặt ta mọi thứ đều bày rõ
Chúng ta phải bó tay bó chân.


13


Tôi nhìn thấy đoá hồng
Điều này có nghĩa
Là tôi thấy đoá hồng
Trên cành của nó
Tôi nhìn thấy đoá hồng
Điều này có nghĩa là
Chẳng phải một thiếu nữ
Trong phòng trang điểm
Đấy là hai khái niệm
Hoàn toàn khác biệt nhau
Khi bạn thấy đoá hồng
Cái bạn thấy chính là đoá hồng
Khi bạn thấy một thiếu nữ
Cái mà bạn thấy
Là  cặp vú tròn
Hoặc bờ vai cũng rất gợi cảm
Chỉ có đôi mắt một thạc sĩ văn chương
Mới nhìn mà không thấy cái vú
Mới nhìn mà không thấy bờ vai thiếu nữ
Mới tưởng cô thiếu nữ trên đại lộ mùa hè
Là đoá hồng với những cái gai.


61


Kiến trúc sư của nhà thương điên

Một người tử tế
Tinh thần minh mẫn
Đã từng xây
Hàng nghìn nhà ở
Nhiều
Chỗ đi tiểu và trung tâm thương mại
Với những kết cấu
Gạch đá
Thuỷ tinh và sắt thép
Giống nhau
Những vật trang trí giống nhau
Những không gian xanh giống nhau
Những ống thoát nước và khí đốt 
Giống nhau
Nhà thương điên
Là một công trình bình thường
           được xây bởi một người bình thường.
Anh ta phải rút lui
Tuân phục kế hoạch
Tận dụng thời khắc
Trở thành người tử tế
Ngủ bình thường
Ăn bình thường.

Nhưng anh ta chẳng bình thường
Anh vào ở bên trong
Và đã có ý nghĩ khác thường
Biến căn phòng mà người tử tế xem là bình thường
Thành căn phòng điên số 204

Với những bức tường, điên, gia cố chất dẻo, và những lan can, điên, bằng thép,
Những khung kính tô màu vòi nước điên
Những máy thu thanh điên những thắt lưng da
Những bóng đèn điên 60 watt
Những ghế xếp điên bằng kim loại và bồn tiểu điên bằng sứ 
Một phòng khách rộng điên với tiền sảnh
Một ông bố điên 
         đọc nhanh cả đống nhật báo điên
Một miếng vải lau nhà điên
          cào vào lớp xi măng

Tóm lại con người này điên rồi
Và phải bị đem nhốt
Vào căn phòng bình thường kia.


71


Con đường của cái chết
Không phải là con đường trong đêm tối dẫn đến chiếc quan tài và lò hoả táng
Nhưng lát đầy những khổ thơ tuyệt vời
Giống như
Những giấc mơ của chiếc tổ
Trong ánh sáng biến thành những phi trường. 



6

Cái cây
Giữ khoảng cách với bầu trời
Giữ khoảng cách với một cây khác
Giữ khoảng cách với một loại trái khác
Giữ khoảng cách với một thứ đất trồng khác
Giữ khoảng cách với nguồn nước khác
Giữ khoảng cách với những loài chim
Cây phải giữ khoảng cách với mọi vật
Bởi chỉ cần nó nhích một bước
Là đánh mất bầu trời
Đánh mất mặt đất
Đánh mất dòng nước
Đánh mất chim muông
Và mất cả chỗ đứng
Và chết luôn.


PHÍA NAM RỒI PHÍA TÂY

Phía Nam rồi phía Tây
Trên những tảng đá xám
Những con nhện mùa đông trườn lên
Hoặc là trên thân hình đen của những con nhện
Những tảng đá xám trườn lên.


CÁC DĨ ĐẦU


Phía bắc Vân Nam bên đường quốc lộ
Một tấm biển ghi địa danh Các Dĩ Đầu
Ôi Các Dĩ Đầu
Chẳng ai biết đây là nơi đâu
Chỉ thấy dưới tấm biển
Một con đường bị mưa gió bùn lầy phá hỏng
Rồi đế guốc và chân trần giẫm phẳng.



89

Trong khoảng không cao và xanh
Hẳn phải có con chim đại bàng đang bay
Vào lúc nó nghĩ đến điều này
Cái vật đang bay
     Là con chim quạ.



12 ( CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN NƠI KIA )


Con đường dẫn đến nơi kia không cần phải băng qua
Sắt thép
Chất dẻo hay ni lông
Không cần phải đi theo
Những lối nhỏ
Hay là đại lộ
Không cần phải đi ngang
Các bàn trang điểm của phụ nữ
Và những cốc bia của đàn ông
Không cần đến hộ chiếu
Giày dép
Hay là xăng
Tôi biết là con đường này trên trái đất
Xưa kia
Không hề có giới hạn
Nhưng giờ đây muốn đi đến nơi kia
Mà không phải bước       
Trên những ống dẫn khí đốt hay trong những phòng kế toán
Tôi chỉ có những bài thơ
Thay cho đôi chân.



33


Nền móng xi măng của siêu thị ẩn sâu 10 m dưới mặt đất
Sao cho những trái táo đã chế biến, và thịt bò, đã đông lạnh,
Khỏi từ các kệ hàng rơi xuống.

Nhưng nếu như siêu thị
Chẳng là gì khác một địa điểm trên mặt đất
Trên bề mặt vững chãi đã khử trùng
Thì những cây táo sẽ không mọc được
Trên những gian hàng trang trí màu mè
Và sẽ không còn ai
Vô tình đến một khúc quanh
Nhìn thấy được nơi xa
Dưới chân núi, về phía nam,
Một con bò cái, một chú cừu non,
Đang cúi gầm, gặm cỏ.


100


Mặt trời buổi chiều
Chiếu qua những đồ đạc
Lấn vào góc sâu của gian phòng
Soi rõ chén dĩa trong tủ chạn
Khiến muối và tiêu bóng nhoáng trong bếp lò
Làm sáng tỏ những mảnh vuông đỡ lấy chiếc bàn
Mặt trời đã sắp xếp lại sắc màu nơi kho chứa
Và chỉ thoáng chốc trong cõi tối tăm
Tôi tìm thấy lại chiếc thìa bạc
Đánh mất đã từ lâu.


76


Trung tâm đã nổ         uy quyền cũ đã lỗi thời
Trong phòng khách hỗn độn          côn trùng lúc nhúc dưới những đèn chiếu
Tôn ti bị đảo lộn              Trong bóng tối nhà thơ
Ngồi ở hàng cuối.

Thượng đế đã nghỉ hưu            thần thánh đi định cư nơi khác
Trật tự chưa lập lại             hỗn mang chưa phục hồi
Một mình, tay cầm đèn:             nhà thơ


Vầng dương trên bầu trời              rực rỡ là tính từ của nó
Trái đất ở phía dưới             mọi sự vật vây quanh
Người ta gọi là độ sâu        những gì ẩn giấu trong bùn
Tên gọi đúng duy nhất của con người là dân lao động        Còn kịch sĩ
Chỉ những người nhìn thấy vườn hồng trong nông trang
Nhưng nơi căng tin không còn món ăn nào để mang đi
Này nhà thơ         bậc thang giá trị của anh phải dựa trên địa lý.


72


Con báo đen
Như viên đá đen
Che giấu trong bóng tối
Hai viên kim cương xanh.

Đứng sau tay vịn đám đông xuất sắc
Vây lấy nó
Đổ vào nó bao lời chì chiết
Khạc nhổ lên người.

Không hề lay chuyển
Nó khinh dễ nền văn minh
Như viên kim cương trong bóng tối
Coi thường cái cổ của nữ vương.


17


Có một hạnh phúc tôi chưa bao giờ cảm thấy
Một hạnh phúc Hitler chưa bao giờ cảm thấy
Ông ta chỉ biết ra lệnh cho tướng lĩnh
Tôi chỉ biết miệt mài viết lách
Mà trong hai chúng tôi không ai cảm thấy
Niềm vui của chiếc máy giặt
Mà cái trục xoay không gỉ
Thấy quần áo nào cũng
Dơ bẩn
Thấy quần ngắn của cô gái
Lấm lem
Thấy khăn tay của bé sơ sinh
Hôi thối
Thấy quần lao động của anh công nhân
Cố che những cáu ghét
Thấy cái áo đầm dạ hội
Đáng đem ra giặt sạch.

Tình cảm đó được chia sẻ
Bởi toàn thể nhân loại
Thế cho nên
Với những người hoàn hảo
Y phục đủ sắc màu
Và mọi kiểu cắt
Lụa phương đông hay vải lanh phương tây
Tất cả đều được ném vào
Trong khung chậu
Của máy giặt
Cả ngày đêm
Xoay tròn
Trong mọi nhà
Sông có thể cạn
Các chính phủ có thể sụp đổ
Nhưng không bao giờ
Cuộc chiến Stalingrad có thể làm cho
Cái máy giặt
Vốn không hề phân biệt bộ đồng phục với chiếc khăn tay
Có thể ngừng quay.



THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu

( Thơ trích từ chinois-classique.blogspot.com )

LÃNG DU MIỀN ĐẤT LẠ







LÃNG DU MIỀN ĐẤT LẠ
Tập thơ dịch

Lời ngỏ.

      Mười nhân vật, đến từ những đất nước thuộc nhiều châu lục khác nhau. Châu Phi xa xôi với Ai Cập huyền bí và đảo quốc Mauritius lạ lẫm. Châu Âu với nhiều nền văn học phong phú, Cộng hoà Séc, đất nước bao nhiêu lần đổi thể chế, đổi quốc hiệu, Ba Lan, quốc gia hơn 40 triệu dân và bốn nhà văn nhà thơ đạt giải Nobel văn học, nước Pháp quen thuộc và gần gũi, đáng tự hào với kỷ lục là quốc gia có nhiều giải Nobel văn học nhất ( giải đầu tiên năm 1901 với Sully Prud'homme, và giải mới nhất năm 2014 với Patrick Modiano ). Châu Mỹ với Hoa Kỳ, đa chủng tộc, đa văn hoá, với Chi Lê có hình dáng lãnh thổ độc đáo, từ Bắc đến Nam dài đến 4630 km nhưng bề ngang Đông Tây điểm rộng nhất chỉ có 430 km. Và châu Á với Lebanon, Syria ở vùng Trung Đông đầy biến động, với Trung Quốc và nền thi ca hiện đại mời gọi khám phá. Đặc biệt hơn cả là đất nước có diện tích rộng nhất thế giới, trải dài qua hai châu lục.

    Mười tác giả cận đại và đương đại, một người sinh cuối thế kỷ XIX ( Boris Pasternak, 1890 ), còn lại là thế kỷ XX ( từ đầu thế kỷ, Jacques Prévert 1900, Jaroslav Seifert 1901, Malcolm de Chazal 1902, Pablo Neruda 1904, trẻ nhất là Adonis, 1930 và Vu Kiên 1954 ). Ba tác giả vừa mất những năm gần đây ( Andrée Chedid, 2011, Wislawa Szymborska, 2012, Maya Angelou, 2014 ) và hai người còn sống.

      Mười con người với những số phận khác nhau bởi sinh sống trong những hoàn cảnh và chế độ chính trị khác nhau. Có người phải chạy trốn khỏi quê hương của mình để đến sinh sống tại một đất nước khác. Có người suốt đời không rời khỏi chốn quê nhà. Có người là đại diện ngoại giao chính thức của quốc gia mình tại nhiều nơi trên thế giới. Có người sáng tác mà đành phải công bố tác phẩm của mình dưới dạng ấn phẩm bí mật hoặc phải xuất bản ở nước ngoài. Có người không có điều kiện học hành tới nơi tới chốn, tìm đến văn chương chữ nghĩa qua việc giao tiếp, đọc sách, tự học tự rèn.

      Mười khuôn mặt được giới thiệu như là những nhà thơ. Thực ra có người còn là nhà báo, nhà giáo, nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà nhiếp ảnh, hoạ sĩ... Có người ngoài việc sáng tác thơ còn viết truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kịch. Hoàn cảnh xuất thân, làm việc và sinh sống hoàn toàn khác nhau, mỗi người chọn lối diễn đạt cho riêng mình. Có người chuyên viết những bài thơ rất ngắn, chỉ hai - ba dòng, không nhan đề và chừng như không chủ đề. Có người lại có tập thơ đồ sộ, đến 231 bài với hơn 15000 câu thơ, xếp thành 15 phân đoạn, y như chương / hồi trong tiểu thuyết. Tuy nhiên, tất cả đều coi trọng công việc làm thơ của mình; với họ, thơ ca chẳng phải là thú tiêu khiển lúc trà dư tửu hậu mà mang một sứ mệnh cao cả. "Thơ ca là và vẫn mãi là phương cách duy nhất để đối diện với sự mong manh của phận người, với sự bí mật khôn lường của cái chết, là chiếc chìa khoá giải thích một vũ trụ mà bề mặt hiển thị luôn che giấu một thực thể kín đáo khác mà thơ ca có nhiệm vụ giải mã." ( Andrée Chedid ) hoặc ngắn gọn hơn với Adonis: " Thơ ca làm cho  cuộc sống trên trái đất này tốt đẹp hơn, bớt phù phiếm, bớt khổ đau hơn. "


    Mười nhà thơ có nhiều quốc tịch khác nhau, diễn đạt bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau: tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung, tiếng Séc, tiếng Ba Lan, tiếng Á Rập, tiếng Tây Ban Nha. Từ một ngôn ngữ gốc, tác phẩm của họ đã được độc giả khắp thế giới tiếp cận thông qua các bản dịch sang hàng chục ngôn ngữ khác và phổ biến rộng rãi qua các tạp chí, sách in, sách điện tử...

     Người thực hiện tập sách này, hoặc cố ý, hoặc ngẫu nhiên, gặp được, khám phá và yêu thích  những tác giả này, mong muốn được chia sẻ với những ai đồng cảm qua việc giới thiệu vài nét về cuộc đời, tác phẩm, khuynh hướng sáng tác và thành tựu của từng tác giả trước khi chuyển ngữ ( từ tiếng Pháp và tiếng Anh, nguyên tác hay bản dịch ). Toàn tập bao gồm 275 bài thơ, ngắn nhất vài dòng, dài nhất là hai, ba trang, ít nhất là mười và nhiều nhất là một trăm bài cho mỗi tác giả.

      Xin mời bạn đọc sẵn lòng bỏ qua những hạn chế khó tránh khỏi của việc dịch thuật để cùng tác giả đồng hành trên bước lãng du qua những miền đất lạ.


Thân Trọng Sơn



MƯỜI TÁC GIẢ



ADONIS (1930 - ...   )    Lebanon / Syria
ANDRÉE CHEDID ( 1920 - 2011 )    Pháp / Ai Cập
BORIS PASTERNAK ( 1890 - 1960 )   Nga
JACQUES PRÉVERT   ( 1900 - 1977 )    Pháp
JAROSLAV SEIFERT   ( 1901 - 1986 ) Cộng hoà Séc
MALCOLM DE CHAZAL  ( 1902 - 1981 ) Mauritius
MAYA ANGELOU  ( 1928 - 2014 )   Hoa Kỳ
PABLO NERUDA   ( 1904 - 1973 )   Chile
VU KIÊN   ( 1930 - ...  )  Trung Quốc
WISLAWA SZYMBORSKA   ( 1923 - 2012 )   Ba Lan




-----


Thân Trọng Sơn làm công việc dịch thuật bằng sự đam mê và tinh thần trách nhiệm cao, bằng sự cẩn thận và ý thức tôn trọng tác giả cũng như người đọc nên các bản dịch của ông rất đáng tin cậy. Để có cuốn sách mà các bạn đang cầm trong tay – LÃNG DU MIỀN ĐẤT LẠ, Thân Trọng Sơn đã âm thầm làm việc trong hơn 40 năm qua, một quãng thời gian không phải là ngắn đối với một đời người…

PHẠM CAO HOÀNG


CÙNG MỘT NGƯỜI DỊCH


DALAT, VILLE D’ALTITUDE
( nhiều người dịch )
NXB TP HCM                           1993

ANECDOTES DES CONCUBINES ET REINES
DE LA DYNASTIE DES NGUYEN
NXB  ĐÀ NẴNG                       2002

LA DYNASTIE DES NGUYEN –
LES NEUFS SEIGNEURS – LES TREIZE ROIS
NXB  ĐÀ  NẴNG                     2002

LA VIE DANS LA CITÉ POURPRE INTERDITE
NXB  ĐÀ  NẴNG                      2004

LES VISAGES DE L’AMOUR
( dịch thơ nhiều tác giả )
VIỆT PHƯƠNG ấn hành          2002

ENTRE NOUS
( dịch thơ TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG )
VIỆT PHƯƠNG ấn hành          2005

LA BALLADE D’UN CAFÉ
( dịch thơ PHAN NHƯ )
VIỆT PHƯƠNG ấn hành          2005

HƯỚNG DƯƠNG
( dịch thơ JACQUES PRÉVERT )
VIỆT PHƯƠNG ấn hành          2007

ORCHIDÉE
( dịch thơ DUY VIỆT )
VIỆT PHƯƠNG ấn hành          2008

À L’AMOUR , À LA VIE
( dịch thơ ĐỖ TƯ NGHĨA )
VIỆT PHƯƠNG ấn hành          2008

THƠ – POÈME – PHẠM VĂN HẠNG
( nhiều người dịch )
NXB HỘI NHÀ VĂN                 2007



THÂN TRỌNG SƠN
Sinh 1945 tại Huế

-  Tốt nghiệp Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa Huế ( 1967 )
-   Dạy học:  ( 1967 - 2007 )
Buôn Ma Thuột ( Trung học Tổng hợp BMT, Bồ Đề Huệ Năng
Huế ( Quốc Học, Nữ Thành Nội, Bồ Đề Hữu Ngạn, Bích Trúc )
Đà Lạt ( Vừa học Vừa Làm 26/3, Chi Lăng, Bùi Thị Xuân - Cao Đẳng Sư Phạm )
- Chuyên trách Công đoàn Ngành Giáo dục Tỉnh Lâm Đồng  - 1985-1994 - ( Phó chủ tịch, Chủ tịch ) 

Hiện sống tại Đà Lạt.
Weblog:        sonthan.blogspot.com
Email   :        cuanhado@gmail.com








dimanche 21 juin 2015

NÓI LÁI MÀ CHƠI NGHE LÁI CHƠI






Đúng bọi rồi, dừng chân ơm căn đi thôi.
Nếu anh không ngại, tôi sẽ mời anh đến quán mộc tồn gần đây, quán lão Điền đó.
Điền nào, Điền đô người Bắc phải không ?

Trong mỗi câu của đoạn hội thoại trên đều có nói lái, một hình thức sử dụng ngôn ngữ khá phổ biến, người quen dùng, nghe nói là hiểu ngay. Đơn giản như đang giỡn, nói lái chỉ là cách hoán đổi phụ âm đầu của hai từ (đói bụng > đúng bọi ) , ai cũng thực hành được, chẳng những trong đời thường mà còn đưa vào tác phẩm văn chương như là một biện pháp chơi chữ khá thú vị.
Nếu chưa quen nói xin mời bạn nghe lái trước đã.

NÓI LÁI TRONG ĐỜI THƯỜNG .

Có thể nói ai cũng có lần nói lái ở trong đời, đôi lúc chỉ vô tình thôi. Nếu bạn buột miệng nói “đi giữa trời nắng cực quá “ hoặc khi đèn điện không sáng mà bạn nói “điện sao lu quá chừng” , người nghe sẽ cho là bạn nói tục, có oan cũng đành chịu vì, dù bạn không cố ý nhưng nắng cực, điện lu nói lái nghe tục thật. Tương tự như thế, hãy cẩn thận đừng nói dồn lại, dồn lên, đồn láo, đồn lầm…

Ngoài những lúc vô tình như vậy, mọi người đều cố ý nói lái nhiều lắm. Từ nhỏ, ai cũng biết nghịch ngợm trêu chọc bạn với những cái tên. Thái thì Thái dúi, Thái giếng, Thọ thì Thọ lỗi, Điền thì Điền đô, Đức thì Đức cống … Còn những tên như Thu, Tốn, Bắc … sẽ có rất nhiều cách gán ghép để nói lái lại nghe không thanh nhã chút nào. Chưa kể những người có tên bắt đầu bằng chữ Đ, trẻ đến mấy cũng bị gọi bằng Cụ ! Học giả Vương Hồng Sển, lớn tuổi còn dạy học, sinh viên có khi gọi Thầy, có khi gọi Cụ để tỏ lòng kính trọng. Thầy dặn : Gọi tôi bằng họ Cụ Vương hay bằng tên Cụ Sển đều được, nhưng với thầy Vi Huyền Đắc thì nhớ chỉ được gọi là Cụ Vi.

Có khi các văn nghệ sĩ nói lái tên mình để đặt bút danh. Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, Lê Đức Vượng biến thành bút danh Vương Đức Lệ. Và, bạn có tin không, văn hào VOLTAIRE của Pháp ( 1694-1778 ), tên thật là François Marie AROUET, lấy tên thành phố quê hương là Airvault ( thuộc vùng Deux Sèvres ) nói lái là Vault – Air để có bút danh Voltaire đó !

Tuổi nhỏ nghịch ngợm trêu chọc nhau bằng những câu như “ Mi là cái đồ ức căn bồng sơ chuối đỏ lọ cháy “ hoặc “ Ai đi đó ?” và trả lời “ O đi ……”

Có khi nói lái chỉ để đùa chơi, không có hậu ý gì ( Ôm nhiều thì yếu, yêu nhiều thì ốm , chà đồ nhôm chôm đồ nhà… ) nhưng cũng có lúc nói lái có ý nghĩa phê phán chỉ trích ( đấu tranh thì tránh đâu , thủ tục đầu tiên là tiền đâu , Nguyễn Y Vân , vẫn y nguyên, Vũ Như Cẩn , vẫn như cũ, Bùi Lan , bàn lui… ).

Có thể nói lái bằng cách dùng cả chữ Hán rồi dịch ra. Mộc tồn là cây còn tức là con cầy, vậy quán mộc tồn là quán thịt chó ! ( Nhiều nơi cũng gọi là Cờ tây, dễ hiểu hơn ). Còn nói đại phong để chỉ lọ tương thì phải đi lòng vòng một chút : đại phong là gió to, gió to thì chùa đổ, chùa đổ thì tượng lo, tượng lo là lọ tương !
   Cũng có khi bịa ra những câu, có vẻ như câu đối, dùng từ Hán Việt, nghe rất kêu:
Giai nhân tái đắc, giai nhân tử,
Anh hùng khai đống, anh hùng tiêu.
Thật ra chỉ để cài vô mấy chữ " tái đắc ", " khai đống ", nói lái lại là hiểu liền!

Mấy ông bạn nhậu thường hay nói : Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu.   Chẳng cần quan tâm đến ý nghĩa cả câu, chỉ tách riêng hai chữ cuối rồi giải thích: bôi thiểu > biểu thôi – ( biểu = bảo ) : Uống rượu gặp bạn hiền có Trời mới biểu thôi ! Nhắc đến mấy ông này phải nói đến tài nói lái, nhất là mấy ông trong hội “hoàng gia”, nhậu món mực mấy ông hỏi có mực ngò không, món lươn thì hỏi lươn sao không có rau dền, gọi dưa leo thì dặn nhớ thái dọc đừng thái ngang, ăn món lẩu thì đòi phải đun bằng cồn lỏng, tốt nhất là cồn nhập từ bên Lào ! Lúc uống trà thì dặn đừng lấy trà Thái đức.
Có kiểu nói lái tưng tửng, có mà không, không mà có, ai hiểu thì cười, không hiểu cũng chẳng sao. Con gái thời nay thích nhất những chàng trai có chỗ đứng./ Đừng nói tui hay đánh vợ. Tui có đánh thiệt đâu, chẳng qua là đánh mẹo thôi ! / Tui không làm ăn chi nữa, chỉ sống nhờ lương thôi. / Nếu không biết làm sương cho sáo thì cứ thử lấy tóc mà may...

Một ứng dụng độc đáo là dùng nói lái như một thứ mật mã , chỉ người nói người nghe hiểu với nhau. “ Lôi thi lừng đì lói ní lữa nĩ , lụi tị lỏ nhỉ lô vi lìa kì “ . Nói kiểu này, người ta dùng quy ước chọn một từ và thêm dấu thanh - sắc huyền hỏi ngã …- đặt trước từ muốn nói và nói lái lại; trường hợp này từ được chọn là li và thêm dấu thành lí, lì, lỉ lĩ, lị ... . Vậy giải mã câu trên là : (Lôi thi) li thôi ( lừng đì) lì đừng lí nói lĩ nữa lị tụi lỉ nhỏ li vô lì kìa = Thôi đừng nói nữa, tụi nhỏ vô kìa.

NÓI LÁI TRONG DÂN GIAN

Trong dân gian, hầu như ở miền nào cũng có nghe truyền tụng những sản phẩm nói lái, hoặc câu đố, câu đối, hò vè, thơ ca không rõ tác giả …

Câu đố :

Những câu đố sử dụng nói lái không khó giải vì thường lời giải đã có sẵn :
- Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai
Bò la, bò liệt đố ai biết gì? - (đáp: khoai lang).
- Con gì ở cạnh bờ sông,
Cái mui thì nát cái cong thì còn - (đáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng)
- Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng - (đáp: ngón chưn cái)
- Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn - (đáp: con ngựa)
- Miệng bà ký lớn, bà ký banh
Tay ông cai dài, ông cai khoanh - (đáp: canh bí, canh khoai)
- Ông cố ngoài Huế ông cố ai. (đáp : cái ô )
- Ông đánh cái chen, bà bảo đừng. (đáp : cái chưn đèn - chen đừng ) .

Câu đối :

Phần lớn câu đối có sử dụng nói lái đều không đạt những yêu cầu nghiêm ngặt (đối ý, đối nghĩa, đối thanh … ) của loại hình này, chỉ thể hiện sự dụng công nói lái thôi .
Nhiều câu ai cũng biết :
- Kia mấy cây mía.
Có vài cái vò.
- Con cá đối nằm trên cối đá.
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.
Thời kỳ đời sống khó khăn, hình ảnh người thầy giáo phải tháo giày, giáo chức phải dứt cháo là cảm hứng cho nhiều câu đối :
- Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày.
- Thầy giáo tháo giày đi dép lốp
Nhà trường nhường trà uống nước trong
- Thầy giáo tháo giầy, tháo cả ủng, thủng cả áo, lấy giáo án dán áo;
Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương, dùng lương hưu lưu hương.
Một câu khác, cũng nói lái liên tiếp như vậy :
- Chê số đời, chơi số đề, cầu giải số, cố giải sầu, càng cố càng sầu;
Cầm cái đuốc, cuốc cái đầm, soi đầy ốc, xốc đầy oi, càng soi càng xốc.
Rất ngắn gọn, mà không kém thú vị :
- Chả lo gì, chỉ lo già.
Nỏ muốn chi, chỉ muốn no.

Thơ ca, hò vè :

Trong loại hình thơ ca, hò vè cũng có thể tìm thấy nhiều câu nói lái :
- Mắm nêm ăn với quả cà
Vắng anh Tử Trực đâu mà biết ngon.
( Không kể chuyện Lục Vân Tiên đâu ! Chơi chữ đó : ăn mắm nêm với cà mà thiếu quả ớt
thì không ngon. Ớt ? Thì tử là con, trực là ngay , con ngay > cay ngon, là ớt chứ gì nữa ! )
- Bụi riềng trồng ở bờ ao
Chú Mộc Tồn quấn quít ngày nào cũng xin.
( mộc tồn : cây còn, con cầy, đã nói ở đoạn trên )
- Bài hò đối đáp sau đây phát triển từ cách nói lái cá đối cối đá :

Nữ :
Hát tình hát nghĩa đã qua
Bây giờ hát lái mới biết là hơn thua
Mẹ mua con cá đối lúc trưa
Để trên cối đá sao bây giờ mất tiêu
Chàng chỉ giùm con cá đối ở đâu
Hay mèo tha giấu ngoài rào sau mất rồi!

Nam :
Cá mắm chuyện của nữ nhi
Bậu còn vô ý thì chuyện gì cho nên
Con mèo đuôi cụt nhà bên
Biết mẹ đi mua cá nó leo lên mút đuôi kèo
Mẹ xách con cá đối nó nhìn theo
Thấy để trên cối đá nó khều liền tay
Lần sau nhớ lấy lần này
Thấy mẹ mua cá đem ngay cất liền.

- Bài khác : xin để ý từng cặp nói lái ngay trong mỗi câu :
Cá có đâu mà anh ngồi câu đó
Biết có không mà công khó anh ơi ?
Anh ra đây em vẽ cho một nơi cá nhiều.
Anh ngồi đây ngày đôi ba lượt
Biết mất công mong cất con cá diếc lên
Để anh về làm giống nhân trên ruộng đồng.

- Một câu hò ở Nam bộ , giải rõ ra thì tục, nhưng mới nghe qua khó nhận thấy :

Thằn lằn đeo cột thằn lằn trốn
Cá nằm trong đăng, cá mắc kẹt đăng
Anh với em nhân ngãi đồng bằng
Dù xa duyên nợ nhưng cột lằn đừng xa.

Có những bài không rõ tác giả ; trong bài sau đây, cách nói méo trời méo đất thật là tài tình :
Yêu em từ độ méo trời
Khi nào méo đất mới rời em ra .

Bài này đọc lên nghe rất tục :

Ban ngày lặt cỏ tối công phu
Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu
Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo
Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".

Từ thập niên 50 của thế kỷ trước bài sau đây được nhắc đến nhiều, hẳn là phản ảnh thời cuộc :

Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi
Chiến khu thu cất chú khiêng rồi
Thi đua thắng lợi thua đi mãi
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi.

NÓI LÁI TRONG VĂN HỌC


Trong văn xuôi hình như ít thấy nói lái, hoặc tản mác nên khó phát hiện. Tác giả sở trường món này chắc phải là Vương Hồng Sển (1902- 1996 ). Rải rác trong tác phẩm " Hơn nửa đời hư " ông chen vô mấy chữ " ủ tờ ", " mống chuồng " , dễ thấy là tiếng lái của " ở tù ", " muốn chồng ". Khi nhắc lại kỷ niệm chuyến du lịch thăm Đài Loan và Nhật Bản, ông kể chuyện cùng người bạn Pháp trọ ở một khách sạn, mặc tạm áo kimono để sẵn trong tủ: " Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẵn cho khách mượn, Menken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che không khuất, trống trước trống sau, đứa " lù coi ", đứa " lắc cọ ", áo nhột nhột, cảnh thật buồn cười".  Cũng chính tác giả của " Saigon năm xưa", " Saigon Tạp pín lù " đã đặt tên cho xe thổ mộ là xe u mê, và giải thích: " vì sàn xe bằng gỗ cứng, khách ngồi bệt trên sàn, ê ẩm bàn trôn, nhứt là khách phụ nữ đều phải ê mu, nói lái cho bớt tục".

Còn trong thơ ca thì nói lái không thiếu.
Tác giả đầu tiên phải nhắc đến tất nhiên là HỒ XUÂN HƯƠNG.

...Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo. (Kiếp Tu Hành)

...Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.
Chày kình, tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo. (Chùa Quán Sứ)

...Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,
Rủ chị em ra tát nước khe. ( Tát nước )

...Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo. ( Quán Khách )


Nhà thơ trào phúng TÚ MỠ ( Hồ Trọng Hiếu, 1900-1976 ) có bài " Lỡm cô Ngọc Hồ " với hai câu nói lái phong cách Hồ Xuân Hương:

HỒ tù ngán nỗi con rồng lộn
NGỌC vết thương tình kẻ cố đeo
(Nhắn khách Băng Tâm ai đó tá
Mỹ danh hai chữ, nghĩ buồn teo.)

THẢO AM NGUYỄN KHOA VY ( 1881-1968 ) nhà thơ miền Sông Hương Núi Ngự cũng rất nổi tiếng với những bài thơ nói lái :

Lũ quỷ nay lại về lũy cũ
Thầy tu mô phật cũng thù tây.

Trông khống vô phòng thấy trống không
Chứa chan sầu lệ chán chưa chồng
Dòng châu lai láng dầu chong đợi
Bóng nhạn lưng chừng, bạn nhóng trông
Nhòm ngó đã cùng nơi ngã đó
Mơ mồng bên cạnh gối mền bông
Đêm thâu mưa gió đâu thêm mãi,
Xông lướt đi tìm phải xước lông.

Còn BÙI GIÁNG , có người gọi là nhà thơ Bán Dùi vì là Ông ưa nói lái. Kiểu nói lái của Bùi Giáng thật khác người, không cần người đọc có hiểu hay không. Ông thường dùng những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp…

Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
(Mưa nguồn)

Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều.  
(Bờ trần gian)

Bài "Trong bàn chân đi" đầy dẫy những chỗ nói lái nhưng thật khó mà hiểu được :

Có mấy ngón
Năm ngón
Mười ngón
Món người
Non ngắm
Nắm ngon
Hoặc là năm ngón nón ngăm
Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần
Nón ngăm dặm bóng xoay vần
Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.
( … )

Có nhiều nhà thơ lúc cao hứng cũng lái ngay một bài, tinh nghịch và bất ngờ thú vị. Đó là NGUYỄN THÁI DƯƠNG:

Mực ngò, mực ngó, mực ngằn
Mực, bao nhiêu mực chẳng bằng mực nghi
Chao ôi bất luận mực gì
Vẫn thua mực ngút li bì sớm hôm.

Và cả BÙI CHÍ VINH, người có thể " khạc ra thơ " ( chữ dùng của chính tác giả trong hồi ký ) mọi nơi mọi lúc mọi đề tài, có bài Đảo Ngữ Hành lái từ đầu đến cuối:

Hành đảo ngữ kể từ GIẢI PHÓNG
Thi ca làm PHỎNG DÁI niêm vần
Muốn in báo phải làm đầy tớ
Nhưng ta nào phải kẻ lòn trôn

Ta nào phải là ông Hàn Tín
Phò Lưu Bang phản bạn lừa thầy
KỸ SƯ vì thế thành CƯ SĨ
THẦY GIÁO từ đây chịu THÁO GIÀY

Họp ĐỒNG CHÍ thấy toàn ĐÌ, CHỐNG
XÔ VIẾT ngày nay khoái XIẾT VÔ
Hình treo LỘNG KIẾNG như LIỆNG CỐNG
Ðể thằng TO DỰ hét TỰ DO

Chú đeo BẢNG ĐỎ mà BỎ ĐẢNG
Mượn SAO VÀNG che đậy SANG GIÀU
CĂNG BỒNG nhờ nói CÔNG BẰNG nhỉ
LƯU MANH nào lại chẳng LANH MƯU?

Theo CHÍNH PHỦ ai ngờ CHÚ PHỈNH
Vào CHIẾN KHU thì bị CHÚ KHIÊNG
Mồm ĐÁNH MỸ mà tâm ĐĨ MÁNH
TIỀN ĐÂU? chú chặn họng ĐẦU TIÊN

GIÁO CHỨC đói meo đành DỨT CHÁO
Làm NHÀ THƠ vô bót NHỜ THA
THIÊN TÀI không đủ THAI TIỀN hả?
CẤT ĐUỐC về quê CUỐC ĐẤT à!

KHIẾN CHÁN ta làm thơ KHÁNG CHIẾN
Gào THI ĐUA chú bịp THUA ĐI
LÀM THƠ mà LỜ THAM mới nhục
THÌ CẤY cày mất đất THẤY KỲ

LÃNH TỤ sạch nhờ ôm TỦ LẠNH
BẨN NGƯỜI DO bác BỎ NGƯỜI DÂN
BÁC ĐI quá sớm thành BI ĐÁT
NGHỆ SĨ tụi con NGHĨ XỆ quần.

Nói lái qua vài câu, vài bài thơ đã là thú vị, vậy mà nhà thơ VÕ QUÊ xứ Huế dai sức, dài hơi làm luôn một tập gần 50 bài . Khởi đầu là một bài cảm tác từ trận lụt kinh hoàng năm 1999 ở Huế:

Trời lụt ca nhi cũng trụt lời
Trời đong mưa lũ xuống trong đời
Vái lạy lụt tan lành váy lại
Đời cho du khách dạo đò chơi.

Bài thơ nhanh chóng được " xuất bản miệng " rộng rãi trong thân hữu,  tạo cảm hứng cho tác giả tiếp tục sự nghiệp thái lơ của mình, gom góp lại thành tập NGƯỢC XUÔI THẾ SỰ, do nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2011.

Đầu năm thi tứ nằm đâu?
Sắc màu nhân thế đượm sầu mắt ai?
Ngược dòng thế sự láng lai
Lang thang nhặt lái một vài câu chơi!

Có nhiều bài bỡn cợt vui vui kiểu như bài đùa các bợm rượu:

Một chai mai chột, coi chừng!
Nhị chai nhai chị tưng tưng ngà ngà
Ba chai là bai nghe cha!
Bốn chai cẩn thận kẻo mà bái chôn
Ngũ chai ngai chủ hùng hồn
Sáu chai sai cháu bếp cồn luộc tôm!

Hoặc là TỰ HỎI:

Viết câu chi đó?
Có viết chi đâu!
Trống rỗng tim, đầu
Tìm đâu chữ nghĩa...

Và TỰ TRÀO:

Mùa lễ hội thơ hoa lỗi hệ
Lục bát đành lạc bút từ khuya
Đợi lâu mới biết đâu có lợi
Bìa treo đây mai ruột đầy bia?

Nhiều nhất là những trăn trở của nhà thơ trước những vấn đề thời sự:

Dầu xăng tăng giá dạ giăng sầu
Đầu tiên trăn trở bạc tiền đâu
Giật gấu vá vai theo vật giá
Thâu đêm nhức nhối nghĩ thêm đau!

Hoặc:

Biến chất điếm đàng đi chiếm đất
Cánh đồng xoang bởi quán đồng xanh
Hối mại chức quyền gieo mối hại
Lanh mưu thoái hóa thật lưu manh!

Và:

Dân mình hiến đất xây trường
Quan tham lấn đất trầy xương thầy trò
Học đường lắm nỗi sầu lo
Quan tham thì vẫn trùm sò dài lâu.

Lần vô danh lợi hại dân lành
Tranh thùng tranh thủ mới trung thành!
Đầy tớ vét tiền bao tờ đấy
Giành nhau tham nhũng chúng giàu nhanh


Thơ lái Võ Quê, thông minh, dí dỏm, thâm trầm và sâu sắc, không chỉ là những lời cười cợt mua vui.


       Tóm lại, nói lái là một hình thức sử dụng ngôn ngữ khá thú vị nhưng phải lưu ý một điều là, cũng như chuyện tiếu lâm, nói lái thường có yếu tố tục. Vấn đề là phải nói sao cho đúng nơi, đúng lúc, đúng liều lượng, nhẹ nhàng dí dỏm. Nói lái thể hiện tính khôi hài, óc châm biếm, đôi khi rất thông minh, sáng tạo bởi có nhiều cách nói lái. Nói lái nhiều lần liên tiếp theo kiểu Thầy giáo tháo giầy, tháo cả ủng, thủng cả áo, lấy giáo án dán áo là lái dồn. Nói lái mà gây phản cảm, làm khó chịu người nghe là lái dở, lái dỏm. Còn lái giỏi là nói kín đáo, bất ngờ, có khi không nhận ra được ngay. Chẳng hạn khi ăn thịt chồn, bạn chỉ cần nói con chồn có cái lạ là không bao giờ đi tới trước (để cho mọi người suy ra là chồn đi lùi ! ) . Chẳng hạn khi đứng trước nhiều giống hoa lạ, có ai hỏi tên bạn cứ trả lời đây là hoa “ khiết bông “ chứ đừng vội thú nhận là bạn không biết, thế nào người ta cũng nói cái hoa lạ quá mà tên nghe cũng lạ. Cũng là hoa, nhưng nên nhớ đừng nói với bạn gái là “ em rạng rỡ như hoa dã quỳ ”. Người ta giận đó!  Lái kiểu này là lái ( giả ) đò.
Trong một truyện ngắn, nhà văn Y BAN kể chuyện một bà vợ chạy chữa bệnh liệt dương cho chồng bằng đủ loại thực phẩm, thuốc men đều không hiệu quả, nên mới nghĩ tới một bài thuốc dân gian. “ Bài thuốc này gồm 3 vị : Hà thủ ô, cỏ thiên, và trứng vịt lộn “. Người đọc cứ thắc mắc, hà thủ ô với trứng vịt lộn thì ai cũng biết, nhưng cỏ thiên là cỏ gì ? Tác giả bật mí : Ba vị thuốc đó gọi tắt là HÀ THIÊN LỘN, có thể do tâm lý ông chồng không thấy hứng thú khi gần vợ, cho ông đi tìm … , may ra hết bệnh ! Nói lái kiểu đó chắc phải gọi là lái ( bóng ) gió !

      Vậy thì, bạn cứ thử nói lái đi, nhiều kiểu lắm và kiểu nào cũng có luật của nó. Nếu bạn không ngại luật nói thế tức là bạn đã biết nghệ thuật nói lái rồi đó.

          Đọc xong bài này, nếu bạn thấy nóng trong người vì những chỗ ( có vẻ ) không thanh tao lắm thì tôi xin tạ tội bằng cách mời bạn một ly nước " bất hiếu ". ??? Chẳng có gì bí mật khi tôi bật mí thế này: tôi mời một ly đá chanh!  Ủa, đánh cha mà không phải bất hiếu sao?



THÂN TRỌNG SƠN