jeudi 27 novembre 2014
NHẦM SỐ
Truyện ngắn
Lưu Dĩ Xương
Nhà văn Trung Quốc ( 1918 - )
Sinh tại Thượng Hải năm 1918, tốt nghiệp Đại học St John năm 1941, và bắt đầu viết báo. Sau khi thân phụ qua đời năm 1948, ông một mình sang sinh sống tại Hong Kong, vẫn tiếp tục làm báo. Đã xuất bản một số truyện ngắn, nhưng với cuốn tiểu thuyết đầu tiên "Tửu đồ ", in năm 1963, Lưu Dĩ Xương mới được biết đến như một nhà văn.
I.
Khi chuông điện thoại reo, Trần Hi đang nằm dài trên giường, mắt nhìn lên trần nhà. Ngô Lệ Thường gọi rủ anh đi xem phim ở rạp Lợi Vũ đài, xuất năm giờ rưỡi. Điều này khiến anh phấn khích trở lại, anh vội vàng cạo râu, chải đầu, thay quần áo, khẽ huýt sáo điệu nhạc bài "Người Trung Quốc dũng cảm". Thay quần áo xong, anh chăm chú soi gương và nhủ thầm là phải mua một chiếc sơ mi hàng hiệu để mặc đi chơi. Anh yêu Ngô Lệ Thường và cô ấy cũng yêu anh. Chỉ cần anh kiếm được việc làm, và cả hai có thể đến toà thị chính làm thủ tục kết hôn. Anh mới từ Hoa Kỳ về và, tuy có bằng cấp, chỉ có may mắn anh mới kiếm được việc. Nếu gặp may anh mới có việc làm sớm, còn không, anh phải chờ một thời gian. Anh đã gởi bảy, tám thư cho những nơi tuyển dụng, và đang chờ hồi âm những ngày sắp tới đây. Chính vì lẽ đó mà mấy hôm nay anh cứ ở cạnh điện thoại, chờ cuộc gọi từ một trong những người tuyển dụng đó, không dám đi đâu, trừ trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, nếu Ngô Lệ Thường yêu cầu anh đưa cô đi xem phim thì anh không thể có lựa chọn nào khác, nhất thiết anh phải đi thôi. Đã năm giờ kém năm rồi, anh phải vội lên để khỏi đến trễ, nếu không Ngô Lệ Thường sẽ giận. Vậy là anh vội vàng mở cửa, rồi chiếc cổng sắt, và, bước ra ngoài rồi lại quay trở vào đóng cửa, bước vội đến thang máy để xuống đường, nhanh chân đi về hướng trạm xe buýt, lòng thanh thản. Đúng ngay lúc anh vừa tới nơi, một chiếc xe buýt lao nhanh đến, và, không kiểm soát được tốc độ, đâm vào trạm dừng, cán phải Trần Hi, một bà già và một bé gái, nghiến bẹp cả ba người.
II.
Khi chuông điện thoại reo, Trần Hi đang nằm dài trên giường, mắt nhìn lên trần nhà. Ngô Lệ Thường gọi rủ anh đi xem phim ở rạp Lợi Vũ đài, xuất năm giờ rưỡi. Điều này khiến anh phấn khích trở lại, anh vội vàng cạo râu, chải đầu, thay quần áo, khẽ huýt sáo điệu nhạc bài "Người Trung Quốc dũng cảm". Thay quần áo xong, anh chăm chú soi gương và nhủ thầm là phải mua một chiếc sơ mi hàng hiệu để mặc đi chơi. Anh yêu Ngô Lệ Thường và cô ấy cũng yêu anh. Chỉ cần anh kiếm được việc làm, và cả hai có thể đến toà thị chính làm thủ tục kết hôn. Anh mới từ Hoa Kỳ về và, tuy có bằng cấp, chỉ có may mắn anh mới kiếm được việc. Nếu gặp may anh mới có việc làm sớm, còn không, anh phải chờ một thời gian. Anh đã gởi bảy, tám thư cho những nơi tuyển dụng, và đang chờ hồi âm những ngày sắp tới đây. Chính vì lẽ đó mà mấy hôm nay anh cứ ở cạnh điện thoại, chờ cuộc gọi từ một trong những người tuyển dụng đó, không dám đi đâu, trừ trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, nếu Ngô Lệ Thường yêu cầu anh đưa cô đi xem phim thì anh không thể có lựa chọn nào khác, nhất thiết anh phải đi thôi. Đã năm giờ kém năm rồi, anh phải vội lên để khỏi đến trễ, nếu không Ngô Lệ Thường sẽ giận. Vậy là anh vội vàng mở cửa, rồi chiếc cổng sắt, và rồi...
Chuông điện thoại reo lần nữa.
Nghĩ rằng đây có thể là cuộc điện thoại về việc làm mà mình đang chờ, anh quay vào vội vàng trả lời.
- Allô!
Anh nghe một giọng phụ nữ:
- Chú có nhà không ạ?
- Ai?
- Chú.
- Không có chú nào ở đây.
- Thế thì cô có nhà không?
- Chị gọi số nào vậy?
- 39 57 ...
- Có phải ở Cửu Long?
- Vâng.
- Chị gọi nhầm số, đây là Hong Kong.
Anh mạnh tay gác máy, vội vàng mở cửa, rồi chiếc cổng sắt, và khi bước ra ngoài rồi lại quay trở vào đóng cửa, bước vội đến thang máy để xuống đường, nhanh chân đi về hướng trạm xe buýt, lòng thanh thản. Khi còn cách khoảng năm mươi mét, anh nhìn thấy một chiếc xe buýt lao nhanh đến, và, không kiểm soát được tốc độ, đâm vào trạm dừng, cán phải một bà già và một bé gái, nghiến bẹp hai người.
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch theo bản tiếng Pháp của Brigitte Duzan
( Nguồn : www.chinest-shortstories.com )
lundi 24 novembre 2014
CÁI ĐUÔI
Truyện ngắn
Uông Tăng Kì
( nhà văn Trung Quốc, 1920 - 1997 )
Sinh năm 1920 tại Cao Bưu, tỉnh Giang Tô, tiếp thu nền giáo dục truyền thống, nhưng sớm có xu hướng thiên về khoa học tự nhiên - toán, lý, hoá, tự tìm hiểu thơ ca, chịu khó chép lại những bài thơ cổ đời nhà Tống, thường gợi nỗi buồn ly biệt, chủ đề mà Uông Tăng Kỳ thường nhắc đến trong truyện của mình sau này.
Năm 1939, ông chuyển về Vân Nam, thi vào khoa Văn học Trung Quốc, Trường Đại học Liên hợp Tây Nam. Thời gian này, ông viết những truyện ngắn đầu tiên: " Tiểu học giáo đích chung thanh " ( Tiếng chuông trường tiểu học ) và " Phục cừu " ( Trả thù ).
Thời gian từ 1948 đến 1958, ông phụ trách biên tập cho
nhiều tạp chí văn học - nghệ thuật ở Bắc Kinh, rồi chuyển sang viết kịch bản ca kịch, chuyên viết cho Đoàn Kinh kịch Bắc Kinh.
Uông Tăng Kỳ được nhắc đến nhiều nhất như một tác giả truyện ngắn, nổi tiếng nhất là " Thụ giới" , " Đại náo ký sự " ( Giải truyện ngắn xuất sắc năm 1981 ), " Tuế hàn tam hữu ". Không khí truyện của Uông Tăng Kỳ là hoài niệm quá khứ, nhắc đến những lễ hội truyền thống, nghi thức tôn giáo, sinh hoạt đời thường của người dân..., báo hiệu khuynh hướng " tầm căn văn học " ( tìm về nguồn ) .
Cố vấn về nguồn nhân lực Hoàng là một nhân vật rất thú vị. Thực vậy, xí nghiệp không hề có cái chức danh kỳ lạ này, " cố vấn về nguồn nhân lực ", đơn giản chỉ vì ông ấy đã công tác quá nhiều năm ở phòng nhân sự nên biết rõ hết đường tơ kẽ tóc, hơn nữa, hai năm trở lại đây, ông đã già đi, sức khoẻ suy giảm, ông thường than van đủ thứ bệnh tật, lại cao huyết áp, và ông đã đề nghị để chỉ làm cố vấn, do phần lớn vấn đề người ta thường tham khảo ý kiến ông đều liên quan đến nhân sự, nên mọi người gọi ông là cố vấn về nguồn nhân lực . Ban đầu có vẻ như chỉ là một biệt hiệu, nhưng rồi nghe mãi lại thành ra một chức danh hoàn toàn chính thức. Khi nào ông có thể tránh, ông chẳng tham dự cuộc họp nào liên quan đến vấn đề nhân sự. Còn khi có mặt, có lúc ông lên tiếng, có lúc chẳng nói gì. Và khi ông phát biểu, nhiều người tỏ ra rất thích, có người không. Ông đọc đủ loại sách và thích kể chuyện. Ngay trong những cuộc họp quan trọng nhất ông cũng kể chuyện. Sau đây là một chuyện như thế.
Trong xí nghiệp kia, anh kỹ sư tên Linh chuẩn bị được đề bạt chức kỹ sư trưởng. Tuy nhiên việc này chưa được sự đồng thuận của ban lãnh đạo, nhiều người tán thành, có người phản đối, và họp đi họp lại nhiều lần vẫn chưa đi đến thống nhất. Lý lẽ của những người tán thành thì không cần bàn, còn ý kiến những người phản đối có thể tóm tắt ở mấy điểm:
1. Lý lịch gia đình xấu: gia đình tư sản.
2. Quan hệ xã hội phức tạp, quan hệ với nước ngoài, có anh họ đang ở Đài Loan.
3. Có nhiều phát biểu hữu khuynh vào lúc có chiến dịch chống hữu khuynh.
4. Quan hệ quần chúng không tốt, hay phát biểu châm chọc...
Sự phản đối mạnh nhất là từ một người tên là Đồng, trưởng phòng nhân sự, một kẻ dễ kích động, không thể lý luận chặt chẽ, hợp lẽ nên thường chỉ biết lặp lại mấy chữ: " dân trí thức! xì, trí thức! ", đỏ mặt tía tai.
Ông cố vấn về nguồn nhân lực tham dự nhiều buổi họp mà không phát biểu ý kiến. Và bí thư chi bộ nói với ông: " Sao, ông Hoàng, cho chúng tôi biết ý kiến đi chứ!" Ông Hoàng thong thả, nói từ tốn:
" Tôi xin kể hầu quý vị một câu chuyện. Xưa có người tên Nghệ Tử. Một hôm khi ngồi trên chiếc thuyền neo bên bờ sông, giữa đêm khuya, ông nghe tiếng khóc vọng lên từ dưới nước. Chú ý lắng tai nghe ông mới biết là đám tiểu dân dưới nước đang khóc. Ông hỏi lý do thì được trả lời: Long vương ra lệnh cho chúng tôi giết hết loài thuỷ dân nào có đuôi, vậy nên chúng tôi mới khóc. Nghe mấy lời đó lòng Nghệ Tử thấy thương cảm. Tuy nhiên khi nhìn gần hơn ông thấy có một con ếch cũng khóc. Ông bèn hỏi: Sao chú cũng khóc? Chú đâu có đuôi!
Và con ếch đáp: Vâng, nhưng tôi sợ là Long Vương biết được rằng có thời tôi là nòng nọc."
THÂN TRỌNG SƠN
Dịch theo bản tiếng Pháp của Brigitte Duzan
( Nguồn : www.chinest-shortstories.com )
jeudi 16 octobre 2014
Thơ Adonis
Thơ
Adonis
Nhà
thơ Lebanon - Syria
( 1930 -
)
Nghe như cổ tích chuyện cậu bé Ali Ahmed Saïd Esber, con nhà nông dân
vùng Al Qassabina, miền tây nước Syria: từ chỗ nhà nghèo, không được tới trường,
sau có cơ hội đi học và đạt trình độ tiến sĩ; từ chỗ thuở nhỏ làm thơ gởi các
báo nhưng không bài nào được đăng, sau lại là người sáng lập một tạp chí chuyên
về thơ và trở thành " nhà thơ vĩ đại nhất còn sống của thế giới Á Rập"
với bút danh Adonis.
Mọi chuyện bắt đầu khi, ở tuổi mười bốn,
được tin vị tổng thống đầu tiên của nước Cộng hoà Syria mới giành độc lập về
thăm làng, cậu tìm mọi cách để đến đọc trước mặt tổng thống bài thơ mà cậu viết
vào dịp này. Sự tưởng thưởng tổng thống
dành cho cậu ( theo đúng nguyện vọng ) là học bổng để vào học tại một trường của
người Pháp ở Tartus. Đỗ tú tài, Adonis học tiếp đại học ở Damascus và tốt nghiệp
cử nhân triết học năm 1954. Năm 1956, sau khi ở tù gần một năm vì tham gia vào
một đảng phái đối lập, Adonis trốn sang Beirut, thủ
đô nước Lebanon rồi trở thành công dân của nước này. Ông
đỗ tiến sĩ năm 1973 và trở thành giáo sư văn họcÁ Rập tại Đại học Lebanon, giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Damascus và nhiều trường đại học ở Pháp , Thuỵ sĩ
và Mỹ. Tình hình nội chiến ở Lebanon khiến ông phải rời bỏ xứ này và qua sống
tại Pháp từ năm 1985.
Tuy được giáo dục theo truyền thống
Hồi giáo, Adonis sớm tiếp thu ảnh hưởng văn hoá phương Tây. Trong thời gian
theo học đại học, ông tự học ngoại ngữ và đọc nhiều tác phẩm của Pháp. Ông đã dịch
nhiều văn thơ kịch của các tác giả châu Âu, nhất là Pháp ( Baudelaire, Henri
Michaux ...).
Tình yêu đối với thơ ca của Adonis được
cha truyền cho từ nhỏ và bút danh này ông ký vào bài thơ đầu tiên được đăng báo
lúc 19 tuổi.Thơ của ông là một tổng hợp giữa sự làm mới của chủ nghĩa hiện đại
và tính chất huyền bí của Á Rập cổ điển. Vừa là nhà thơ, ông cũng là nhà phê
bình văn học, nhà lý thuyết thơ. Ông chủ trương: " Ngày nay, thơ đương đầu
với một sự nguy hiểm không do tự chính nó mà do ngôn từ mà nó dẫn tới. Thơ bị
che lấp bởi thứ ngôn từ đó. Bây giờ độc giả không đọc chính bài thơ nữa, mà đọc
nhà thơ, đọc những thứ liên quan, những xu hướng của nhà thơ. Người ta đọc những
gì mọi người phát biểu về nhà thơ và về thơ ca. Đối với nhà phê bình, nhà thơ
trở thành một phương tiện để khẳng định sự lựa chọn, để giải bày những lý thuyết,
chứ không để tiếp cận bài thơ như nó vốn là thế. Đây là thứ phê bình muốn giải
mã thơ ca qua phát ngôn của mọi người. Sự phê bình đích thực hoàn toàn trái ngược
hẳn, nó khám phá thế giới thông qua thơ ca. Nó đạt tới sức mạnh của chính ngôn
ngữ không bằng phương tiện nào khác hơn chính thơ ca".
Gần 70 năm sáng tác, Adonis đã
xuất bản nhiều tập thơ giá trị, viết bằng tiếng Á Rập và được dịch sang nhiều
thứ tiếng. Ngoài Giải thưởng Thơ ca Quốc gia Lebanon ( năm 1974 ), Adonis còn
nhận được nhiều giải thưởng cao quý của các nước Nga, Bỉ, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ,
đáng kể nhất là giải thưởng mang tên văn hào Goethe của nước Đức " về toàn
bộ tác phẩm " của ông. Chỉ tiếc là giải Nobel Văn học chưa lần nào xướng
tên Adonis tuy đã nhiều lần được đề cử, sơm nhất là từ năm 1988.
Đối với Adonis, sứ mệnh của thơ
ca trước sau vẫn là:
" Thơ ca làm cho cuộc sống trên trái đất này tốt đẹp hơn, bớt
phù phiếm, bớt khổ đau hơn. "
NHỮNG
BÀI THƠ KHÔNG ĐỀ
Vào
một đêm trăng tròn
Hãy
thử chăm chú nhìn lên thiên hà
Bạn
sẽ thấy nó là dòng sông
Với
đôi tay bạn là sông nhánh
Và
khuôn ngực là cửa sông.
---
Hôm
nay bầu trời đã viết bài thơ
Bằng
màu mực trắng
Và
gọi tên là tuyết.
---
Giấc
mơ của bạn trẻ lại
trong khi bạn già đi
Giấc
mơ lớn lên khi tiến bước
Về
phía tuổi thơ.
---
Giấc
mơ là con ngựa
Chở
ta đến chốn xa
Mà
không hề dịch chuyển.
---
Mây
lang thang hoài cũng mệt
Nó
ghé xuống con sông gần nhất
Để
giặt áo
Mây
vừa nhúng chân xuống nước
Thì
chiếc áo rã tan
Và
biến mất.
---
Đoá
hồng bước ra khỏi giường
Cầm
đôi bàn tay của ban mai
Để
giụi mắt.
---
Hắn
bước đi trên triền dốc mùa thu
Tựa
vào cánh tay mùa xuân.
---
Bầu
trời cũng khóc
Nhưng
lau nước mắt
Bằng
chiếc khăn quàng chân trời.
---
Khi
cơn mệt đến
Gió
trải tấm thảm không gian
Để
nằm dài lên.
---
Làm
sao diễn tả cho cây
Hương
vị của trái
Cho
chiếc cung
Công
việc của sợi dây?
---
Như
một bàn tay
Ánh
sáng di chuyển
Trên
thân thể của bóng tối.
---
Tôi
ký hoà ước với mây
Để
giải thoát cho mưa
Và
ký hoà ước khác với gió
Để
gió giải thoát
Cho
mây và tôi.
---
Ký
ức - căn nhà khác của mình
Nơi
bạn chỉ có thể bước vào
Với
thân thể đã trở thành
Hoài
niệm.
---
Hắn
khoả thân kia rồi
Chỉ
còn khoác lên người
Những
lời nói.
---
Hắn
đã đóng cửa
Chẳng
phải để giam nhốt niềm vui
Mà
để giải thoát nỗi sầu.
---
Những
giấc mơ ban đêm là những sợi chỉ
Ta
lấy để đan dệt
Những
chiếc áo của ban ngày.
---
Trong
bụi bặm tôi chạm vào
Những
ngón tay của gió
Trong
cơn gió tôi đọc ra
Chữ
viết của bụi bặm.
---
Gió
thuyết giảng sự lặng im
Tuy
vẫn nói không ngưng nghỉ.
---
Cây
thích hát những bài ca
Mà
gió không nhớ ra được.
---
Có
đôi khi
Mặt
trời không thể rọi sáng em
Thế
mà ngọn nến lại soi tỏ.
---
Tôi
đứng trước gương soi
Không
phải để nhìn mình
Mà
chỉ để tin chắc
Người
tôi đang thấy đó
Đúng
thực là chính tôi.
---
Mỗi
lần tôi tự vấn
Tôi
xẻ thân làm đôi
Tôi
và một câu hỏi
Câu
hỏi tìm câu trả lời
Và
tôi tìm câu hỏi khác.
---
Hy
vọng có những ngón tay
Chỉ
gom nhặt
Những
cánh bướm lụi tàn.
---
Ánh
sáng không tự vệ
Ánh
sáng tấn công
Hoặc
đầu hàng.
---
Mây
có những tư tưởng
Tia
chớp làm chúng bật ra
Cơn
sấm chuyển chúng đi xa.
(
Trích dịch từ "Chạm vào ánh sáng", bản tiếng Phápcủa Anne Wack Minkowski )
TÌNH
YÊU
Con
đường và mái nhà đều yêu thương tôi
Người
sống và người chết
Và
cái chum đất sét đỏ trong nhà
Được
nước yêu thương.
Người
láng giềng yêu thương tôi
Cách
đồng, sân đập lúa, ngọn lửa.
Cũng
yêu thương tôi là những cánh tay lam lũ
Làm
cho thế giới tốt đẹp hơn
Chẳng
được tưởng thưởng gì cũng hân hoan.
Và
những mảnh vương rải đây đó
Bứt
ra từ lồng ngực còm cõi của anh tôi
Mảnh
thịt da khuất sau những gié lúa mùa gặt
Tựa
như những viên hồng ngọc
Còn
đỏ hơn màu máu đỏ tươi.
Thần
yêu thương sinh cùng lúc tôi ra đời
Yêu
thương sẽ ra sao khi tôi không còn nữa?
CÂY
SẦU MUỘN
Lá
đổ ào rồi nằm yên trong rãnh sâu chữ viết
Mang
theo đoá hoa sầu muộn
Trước
khi ngôn từ trở thành
Âm
vang
Giao
hoan trong khoảng tối đen.
Lá
lạc đường xoay tròn kiếm tìm mảnh đất mê say
Hết
cánh rừng này sang cánh rừng khác
Mang
theo đoá hoa sầu muộn.
HAI
NHÀ THƠ
Giữa
âm vang và tiếng động hai nhà thơ đang đứng
Người
thứ nhất lên tiếng tựa như
Một
mảnh trăng vỡ
Còn
người kia lặng thinh như đứa trẻ con
Hằng
đêm ngủ nằm ngoan
Trong
đôi tay ngọn hoả sơn.
TẤM
GƯƠNG CHO MỘT CÂU HỎI
Tôi
đã hỏi và họ đã bảo tôi, cành cây
Phủ
trong ngọn lửa là chim,
Họ
bảo tôi rằng khuôn mặt tôi
Là
những đợt sóng,
và
khuôn mặt của thế giới là những tấm gương,
Ngọn
hải đăng, nỗi buồn chàng thuỷ thủ.
Tôi
đã tới, và thế giới trên đường tôi đi
Là
mực, mỗi cử chỉ là một câu văn
Tôi
không hay rằng giữa chúng ta
Có
một chiếc cầu tên là "Tình Huynh đệ"
Tạo
nên bằng những bước chân, lời tiên tri và ngọn lửa.
Tôi
không hay rằng khuôn mặt tôi
Là
con tàu lướt trong một tia lửa.
TẤM
GƯƠNG CHO THẾ KỶ HAI MƯƠI
Một
quan tài mang khuôn mặt đứa bé
Một
cuốn sách được viết bên trong ruột một con quạ
Một
dã thú cầm một đoá hoa lết về phía trước
Một
hòn đá
Thở
trong phổi một người điên.
Chính là nó,
Đó là thế kỷ hai mươi.
TẤM
GƯƠNG CHO NHỮNG ÁNG MÂY
Những
cánh chim
Nhưng
bằng sáp
Và
mưa rơi không phải là mưa
Đúng
hơn là những con tàu
Chở
những giọt nước mắt của chúng ta.
TẤM
GƯƠNG CHO MỘT GIẤC MƠ
Hãy
lấy giấc mơ của tôi,
May
nó, khoác nó vào,
Như
chiếc áo.
Bạn đã làm hôm qua
Ngủ trong đôi bàn tay tôi
Dẫn tôi đi loanh quanh
Quay vòng tôi như tiếng rên
Trong những chiếc xe của mặt trời,
Chim hải âu bay vút lên
Phóng từ đôi mắt tôi.
HOANG
PHÍ
Không
có đường chân trời giữa chúng ta
Cây
yêu thương là bụi bặm
Và
đêm là toa tàu chở bước tôi đi
Chở
hoang mạc về với chính nó.
Không
có đường chân trời giữa chúng ta
Giờ
khắc phơi bày không che đậy
Và
cái chết của tôi là mảnh vải.
Người
thừa kế của cát
Mang
viên đá đen làm thực phẩm
Mặt
trời là dòng nước và bóng mờ của nó.
TRẺ
CON
Trẻ
con đọc cuốn sách về hiện tại, và bảo,
Đây
là thời điểm đang nở hoa
Từ
trong lòng những phiến lá tơi tả.
Chúng
viết,
Đây
là thời điểm chúng ta nhận ra
Làm
thế nào cái chết nuôi nấng trái đất
Và
làm thế nào nước và nước phụ bạc nhau.
THÍ
NGHIỆM
Vâng,
tôi sẽ không ngủ
Tôi
sẽ nghiên cứu những con đường này và hiểu được điều nhiều người đã biết
Vâng,
tôi sẽ gia nhập đám đông này -
Một bước, hai bước, ba ... /
Một người chết, một cảnh sát
Một
người chết, một cảnh sát
Một
người chết, một cảnh sát... /
Và
bạn sẽ không là người làm chứng chống lại chúng tôi.
Tôi
đây rồi giữa đại dương ngôn từ
Những
cánh buồm nổi trôi trên đỉnh
Và
tôi hiểu tôi đang lặp lại điều mọi người từng nói
Và
tôi hiểu tôi đang ngủ thiếp.
NHỮNG
NHÀ THƠ
Không
có nơi nào cho họ, _ họ sưởi ấm
Cơ
thể trái đất, họ làm
Chìa
khoá cho không gian _
Họ không tạo ra
Một dòng tộc hay một mái nhà
Cho những huyền thoại của mình.
Họ
viết chúng
Như
cách mặt trời viết lịch sử của nó.
Không
có nơi nào...
TÌM
KIẾM
/
... Một con chim
Giương
đôi cánh _ Phải chăng nó sợ
Bầu
trời sẽ sập? Hay là sợ
Cơn
gió là cuốn sách ẩn trong bộ lông?
Cổ chim
Chèn tới chân trời
Và đôi cánh là chữ nghĩa
Bơi lội trong mê hồn trận.
LỜI
AI ĐIẾU ( dành cho cha tôi )
1.
Cha
tôi là một ngày mai
Lềnh
bềnh ập xuống chúng tôi
Là
một mặt trời,
Và
bên trên ngôi nhà chúng tôi mây bay lên.
Tôi
yêu ông, một bí mật khó khăn bị chôn vùi
Một
vầng trán lấm bụi.
Tôi
yêu ông, những chiếc xương đang phân rã và bùn.
2.
Trên
ngôi nhà chúng tôi, im lặng lan toả và tiếng khóc thầm trổi dậy
Và
khi cha tôi nằm xuống
Một
cánh đồng cạn kiệt, một con chim sẻ chạy trốn.
(
Trích dịch từ Tuyển tập Thơ Adonis, bản tiếng Anh của Khaled Mattawa ).
THÂN TRỌNG SƠN
dịch
và giới thiệu.
mercredi 1 octobre 2014
THƠ MALCOLM DE CHAZAL
Thơ
MALCOLM DE CHAZAL
Nhà
thơ Mauritius
(
1902-1981)
Sinh ra tại vùng đất từng là thuộc
địa liên tiếp của Hoà Lan, Pháp và Anh cho đến khi giành lại độc lập - năm 1968
- và trở thành nước Cộng Hoà Mauritius ( tiếng Pháp là Maurice ), Malcolm de
Chazal là một tác giả khác thường, kỳ lạ, độc đáo, thường được nhắc tới như một
nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ.
Mười sáu tuổi ông sang Mỹ học trung học
và đại học, tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp chuyên ngành chế biến đường, sang Cuba
làm việc trong ngành này, vài tháng sau trở về quê hương tiếp tục công việc.
Năm 1937, ông bỏ nghề và chuyển sang làm công chức ngành viễn thông, thăng đến
chức Thanh tra Thương mại và nghỉ hưu sớm vào năm 55 tuổi. Quá trình học tập,
đào tạo và nghề nghiệp có vẻ như chẳng liên quan đến việc cầm bút, vậy mà sự
nghiệp sáng tạo của ông trong suốt cuộc đời lại bay nhảy qua nhiều loại hình đa
dạng, phong phú rất bất ngờ.
Ngôn ngữ chính thức của Mauritius
là tiếng Anh ( cùng với các thứ tiếng créole, tiếng Pháp và tiếng Hindi ),
nhưng ông sử dụng tiếng Pháp : ông thuộc
thế hệ thứ năm của một gia đình gốc miền Auvergne, nước
Pháp, di cư sang đảo quốc này từ năm 1763.
Không kể những bài viết đầu tiên (
trên báo và sau in thành sách ) về các vấn đề kinh tế, những sáng tác văn học của
Malcolm de Chazal xuất hiện từ năm 1936 trên một tạp chí, trong đó đã sớm gây
chú ý là nhận định:
"Dante thực là vĩ đại vì ông đã
hiểu cáiđiều mà rất nhiều nhà văn không biết: rằng chữ nghĩa là những vật sáng
tạo sống động. Ông có thể trộn lẫn, phân tích và xếp đặt chúng đúng vào vị trí,
để từ đó tạo ra được sự hài hoà về âm thanh và hình ảnh, nhưng ông cũng không
bao giờ quên rằng mỗi lời nói là một bản thể. Khi tôi viết " tinh tú"
với sáu chữ cái, tôi không ghi ra những dấu hiệu khô chết. Chúng chứa đựng một thực thể rõ ràng và hữu cơ. Mỗi lời nói
là một ma lực của cuộc sống."
Và có thể nói tuyên ngôn của ông về sứ
mệnh của thi ca là:
" Với tư tưởng và sự ngẫu hứng
luôn mạnh mẽ, nhà thơ hầu như lúc nào cũng là nhà tiên tri của thời đại mới".
Năm 1940, ông xuất bản một tập sách
nhỏ lấy nhan đề là Tư tưởng I, bao gồm 204 phát biểu ngắn gọn, chỉ vài ba dòng,
mà ông gọi là Cách ngôn ( aphorisme ), và sau đó, từ 1942 đến 1947, ông tiếp tục
công bố hàng nghìn câu Cách ngôn khác trong các cuốn Tư tưởng II, III, IV, V,
VI. Đó là những ý nghĩ bất chợt mà thú vị về mọi đề tài, chẳng hạn như:
- Chẳng có niềm vui sống nếu không
có niềm vui yêu thương.
- Tiếng cười là thứ thuốc khử trùng
tốt nhất cho tâm hồn.
- Phụ nữ khiến ta thành
thi sĩ, trẻ con khiến ta thành triết gia.
- Trong số các loại người điên khác
nhau, thiên tài là những người điên tỉnh táo.
Những năm đầu của thập niên 50 (
thế kỷ XX ), ông chuyển sang viết kịch,
chỉ có một vở được dàn dựng, vài ba vở được xuất bản, phần lớn thì về
sau ông đốt hết.
Ngẫu hứng sáng tạo của Malcolm de
Chazal đẩy đưa đến việc viết truyện ngắn, truyện vừa, và cả tiểu thuyết nữa,
nhưng ông không xuất bản tác phẩm nào.
Đến năm 56 tuổi, ông bắt đầu cầm
cọ, dù trước đó ông không hề biết vẽ, cũng không tỏ ra có chút thiên hướng gì về
ngành nghệ thuật này. Ông chuyên vẽ tranh màu bột và tranh màu nước, những nét
vẽ giống
tranh của những hoạ sĩ phái hồn nhiên. Tại quê hương, ông nhiều lần triển lãm,
trưng bày hàng trăm tác phẩm nhưng không bán được tranh nào. Vậy mà sau này,
ông lại thành công khi tổ chức triển lãm tại Paris, Luân Đôn, Montréal,
Grenoble, San Francisco, Dakar.
Tác phẩm của Malcolm de Chazal
khó đến với độc giả trên thế giới vì ban đầu ông chỉ xuất bản tại quê hương, đảo
quốc Mauritius với diện tích 1865 km2 và dân số chưa tới 1 200 000 người, mà có
khi chỉ in mỗi cuốn 100 bản. Có thể nói
loại hình nghệ thuật khiến ông nổi tiếng nhất là thi ca và cũng phải chờ đến
năm 1947 khi Nhà xuất bản Gallimard của Pháp in cuốn Sens plastique, rồi sau đó
là các bài viết trên báo Le Figaro, với nhiều ý kiến khen ngợi, thậm chí cho rằng
ông là một nhà thơ thiên tài, và xếp ông sánh ngang với những nhà thơ siêu thực
đương thời. Thơ của ông là những bài rất ngắn, gần giống với cách ngôn, nhiều ẩn
dụ, thường có màu sắc triết lý, đôi khi hài hước.
Những bài dịch dưới đây, chọn rải
rác trong các tập Sens plastique, Sens magique, Poèmes, dẫn theo
trang recoursaupoeme.frvà các
trang khác, tạm đặt tên là
MỘT TRĂM BÀI THƠ KHÔNG ĐỀ
( Những chữ số trước mỗi bài
không mang ý nghĩa gì, chỉ tiện cho người đọc khi muốn tạm dừng lại để chiêm
nghiệm, để tủm tỉm cười, để đồng cảm với một tác giả ở phương trời nào xa lắc
mà trải lòng chia sẻ như với bạn tri âm ).
1.
Đá
Khi
chết
Chẳng
cần
Được
chôn cất.
2.
Lửa
Đến
chậm
Hoặc
nhanh
Ánh
sáng
Lúc
nào cũng
Đúng
giờ.
3.
Vàng
Là
kim loại
Có
đôi vai
Rộng
nhất.
4.
Cầu
vồng
Là
Cái
đồng hồ
Không
có
Nút
lên giây.
5.
Ăn
mặc
Với
phụ nữ
Là
cách
Tốt
nhất
Để
trò chuyện.
6.
Nước
Buông
tà váy xuống
Khi
mái chèo
Luồn
qua.
7.
Mọi
vật thể
Khi
rơi
Đều
Làm
dấu thánh.
8.
Trời
nóng
Cơn
mưa
Làm
chiếc quần
Tụt
xuống.
9.
Ngọn
lửa
Than
phiền
Vì
Củi
Không
Hiểu
được nó.
10.
Chiếc
bàn
Thiếp
ngủ
Cuộc
trò chuyện
Làm
nó chán.
11.
Cái
chết
Đến
Khi
con người
Vắng
mặt.
12.
Bạo
lực
Khóc
Trên
Đống
đổ nát
Của
dịu dàng.
13.
Nước
Chẳng
bao giờ
Khoả
thân
Khi
Có
người nhìn.
14.
Trái
đất
Chưa
bao giờ
Biết
đến
Copernic.
15.
Trời
nóng
Đến
nỗi
Các
loài hoa
Phải
dùng đến
Sắc
màu
Làm
quạt.
16.
Con
ong
Lúc
rời
Nụ
hoa
Bước
ra
Dáng
say khướt.
17.
Cơn
giông
Là
Tiếng
kêu
Hấp
hối
Của
ngọn lửa.
18.
Đêm
Lúc
nào
Cũng
đi ngủ
Khi
có mặt
Ánh
sáng.
19.
Những
nét vẽ đầu tiên
Mang
lại
Cho
người
Khuôn
mặt
Của
ý tưởng.
20.
Bàn
tay
Làm
tổ
Để
bắt lấy
Con
chim.
21.
Con
đường
Mòn
Không
còn
Cảm
thấy
Mỏi
mệt.
22.
Vỉa
hè
Dừng
lại
Cứ
mỗi lần
Có
người
Ngang
qua
Để
nhìn
Con
đường.
23.
Đường
sá
Là
Vật
duy nhất
Chẳng
lãng phí
Thời
gian.
24.
Đồng
hồ
Là
Thời
gian
Bị
tháo rời.
25.
Tất
cả những gì
Chuyển
động
Đều
là
Chiếc
neo
Của
không gian.
26.
Bóng
tối
Là
Sức
nặng
Của
không gian.
27.
Số
không
Chính
là
Thủ
phạm
Của
cái
Nó
không có.
28.
Mùa
đông
Chỉ
thấy lạnh
Khi
mùa xuân
Gần
đến.
29.
Khoảng
không
Chẳng
bao giờ
Ngừng
Rơi.
30.
Trái
cây
Thuộc
giống đực
Khi
bày ra dĩa
Và
giống cái
Khi
ở trên cây.
31.
Vàng
Thành
hà tiện
Khi
Chế
biến làm
Nữ
trang.
32.
Tật
xấu
Là
thứ
Biết
vâng lời nhất
Trong
số
Các
bản năng.
33.
Chiếc
gương soi
Là
thời gian
Hay
quên.
34.
Dòng
sông
Chảy
chậm hơn
Bờ.
35.
Trái
đất
Rất
đỗi
Ngạc
nhiên
Vì
sự đi nhanh
Của
con rùa.
36.
Chiếc
quạt đẹp nhất
Là
cái miệng:
Nó
mở ra
Ngay
chính giữa.
37.
Chiếc
máy
Mỏi
mệt
Ngáy
Thời
gian
Ngủ
Trong
lòng nó.
38.
Chữ
nghĩa
Là
những chiếc
Bẫy
ruồi
Con
nhện
Là
ý tưởng.
39.
Bom
nguyên tử
Đã
chọn
Im
lặng
Làm
mục tiêu.
40.
Ánh
sáng
Thọc
tay vào
Chiếc
túi ban chiều
Và
rút ra
Một
ngôi sao.
41.
Nước
Sợ
Bị
ướt
Và
biến thành
Sương.
42.
Đen
Là
ánh sáng
Bị
chọc thủng.
43.
Ánh
sáng
Chỉ
thực sự
Khoả
thân
Bên
bờ nước.
44.
Chiếc
gương soi
Không
hề có
Trí
nhớ.
45.
Không
mùi hương nào
Còn
trinh nguyên.
46.
Con
nhện
Chết
Khi
tưởng mình
Là
ruồi.
47.
Duyên
dáng
Chính
là
Khoái
cảm
Thường
trực.
48.
Cái
miệng
Của
em bé
Là
viên kẹo
Đầu
tiên
Của
nó.
49.
Mọi
tai nạn
Xảy
ra
Khi
Con
đường
Đổi
ý.
50.
"
Không "
Chỉ
đối lập
Với
"
Có "
Trong
những chuyện
Tiền
bạc.
51.
Nếu
không có
Lá
Thì
muôn hoa
Đều
cận thị.
52.
Mỗi
Con
chim
Có
màu sắc
Theo
tiếng kêu.
53.
Rượu
Say
Người
Uống
Không
đúng cách.
54.
Thời
gian
Chỉ
Được
coi trọng
Với
những người
Chậm
chạp.
55.
Màu
xanh
Là
Sức
nóng
Của
mùa xuân
Và
Hơi
lạnh
Của
mùa hè.
56.
Con
chim
Khi
sợ hãi
Cảm
thấy
Bị
nhốt trong chuồng.
57.
Cái
lưỡi
Là
Bộ
phận
Trong
cơ thể
Ta
thấy
Quen
thuộc nhất.
58.
Vàng
Giàu
hơn
Khi
ở cạnh
Ngọc
Và
nghèo đi
Trước
kim cương.
59.
Trọng
lượng
Chỉ
Thấy
khoẻ
Ở
trong
Chiếc
cân.
60.
Sương
mù
Là
chiếc dù
Không
có gọng.
61.
Người
Càng
uống
Rượu
Càng
ngon.
62.
Lòng
tự ái
Có
Những
vết thương
Không
rỉ máu.
63.
Cơn
mưa
Đánh
rơi
Chiếc
thắt lưng
Trong
làn sóng.
64.
Gió
Thấy
Bị
hụt hơi
Khi
bị
Tát
tai.
65.
Chẳng
có
Chút
ngẫu nhiên nào
Cho
Thiên
tài.
66.
Nàng
có
Những
bước đi
Khôn
ngoan
Trên
đôi chân
Điên
cuồng.
67.
Ánh
sáng
Ngủ
đứng
Còn
ban đêm
Ngủ
mọi hướng.
68.
Mặt
trời
Choàng
Quanh
Mặt
trăng
Một
đồng hồ đeo tay.
69.
Cảm
giác
Cuối
cùng
Của
người bị treo cổ
Là
ai đó
Lôi
Đôi
chân của mình.
70.
Hơi
thở
Ca
hát
Trong
nụ hôn.
71.
Tin
tưởng
Là
Sự
mỏi mệt
Của
người sùng đạo.
72.
Ánh
sáng
Tỉa
lá dần
Khi
Những
cánh hoa
Mùa
thu
Rơi
rụng.
73.
Nước
biển
Lúc
nào cũng
Kéo
quần lên
Để
nhảy qua
Tảng
đá ngầm.
74.
Vật
duy nhất
Không
biết
Dạ
dày của mình
Là
không khí.
75.
Sự
vuốt ve
Chỉ
cảm nhận
Mùi
hương
Trong
da thịt
Trẻ
con.
76.
Khi
Cơn
gió
Thổi
qua
Cỏ
Rạp
người xuống
Để
làm tình.
77.
Khi
Ấn
vào bụng
Ngọn
lửa,
Ánh
sáng
Cười.
78.
Mọi
viên gạch
Trong
Bức
tường
Đều
cảm thấy
Bị
Chôn
sống.
79.
Nếu
không khí
Không
biến thành
Con
bướm
Thì
làm sao
Bướm
bay được
Trong
không khí?
80.
Sự
cô đơn
Của
những cái mông
Là
địa ngục
Của
đàn bà.
81.
Con
mắt
Ngủ
Khi
cái miệng
Nói
quá nhiều.
82.
Trong
buồn phiền
Con
mắt
Làm
tính trừ
Và
cái miệng
Làm
tính cộng.
83.
Nước
Đi
chân trần
Ra
tắm
Ngoài
biển.
84.
Đêm
nay
Mặt
trăng
Ngủ
không ngon
Những
đám mây
Gây
cho nó
Những
ác mộng.
85.
Khoái
lạc
Ở
Ngay
trung tâm
Cơn
gió xoáy
Của
giác quan.
86.
Trên
cửa kính
Con
ruồi
Tự
hỏi
Đâu
là
Phía
bên ngoài
Và
phía bên trong
Của
mọi vật.
87.
Tảng
băng
Dưới
thác
Chơi
Môn
trượt nước.
88.
Khi
trời mưa
Biển
Cứ
tưởng
Đã
sinh ra
Bãi
biển.
89.
Chỉ
có lửa
Mới
có thể
Tự
liếm
Vào
mắt.
90.
Rễ
cây
Nằm
trên đất
Chạy
lon ton
Như
con chim.
91.
Bóng
tối
Là
Chiếc
va- li
Của
không gian.
92.
Chiếc
nhẫn
Tự
xỏ ngón tay
Vào
con mắt của mình.
93.
Người
thợ giày đầu tiên
Là
Chiếc
xương cá.
94.
Chiếc
găng
Chộp
lấy
Bàn
tay
Khi
Ta
mang nó vào.
95.
Vết
thương
Cười
Vì
đau đớn.
96.
Chiếc
nệm
Chờ
đợi
Người
Để
Ngủ.
97.
Nếu
loài người
Làm
tình
Tập
thể
Ý
nghĩa nụ cười
Sẽ
ngừng
Mãi
mãi.
98.
Con
bò
Tưởng
mình
Là
ruồi
Khi
Bị
ai chích.
99.
Khi
sợ hãi
Khuôn
mặt
Ứng
xử
Như
Bàn
tay.
100.
Đường
chân trời
Chưa
bao giờ
Biết
Thắt
nơ.
THÂN
TRỌNG SƠN
dịch
và giới thiệu
Inscription à :
Articles (Atom)