A.- Ca dao là những câu hát lưu hành trong dân gian .Ca dao thường tả tính tình, phong tục của người bình dân nên còn được gọi là phong dao. Cũng như tục ngữ, ca dao không rõ ai là tác giả. Có lẽ lúc đầu có một người nào đó do xúc cảm mà làm ra, rồi vì lời hay, ý đẹp nên câu hát được phổ biến rộng rãi trong dân gian và truyền tụng cho đến ngày nay.
Về hình thức, ca dao được đặt theo mấy thể văn thuần Việt: lục bát (và biến thể), song thất lục bát (và biến thể), nói lối, hoặc có khi gồm cả hai hay ba lọai trên.
Về kết cấu, ca dao được đặt theo ba thể: phú, tỉ và hứng, hoặc có khi gồm cả hai hay ba thể trên.
Về ý nghĩa, ca dao có thể được chia làm nhiều lọai:
- Những câu hát của trẻ con (như bài “Thằng bờm có cái quạt mo…”)
- Những bài ru trẻ (như bài “Em tôi buồn ngủ buồn nghê/con tằm đã chín con dê đã muồi…”)
- Những câu nói về công việc làm ăn của dân quê
- Những câu nói về tín ngưỡng dân gian
- Những câu luân lý và tâm lý người đời
- Những câu hát về tình yêu và đời sống lứa đôi
- Những câu liên quan đến lịch sử
- V.v…
B.-Bài viết nầy chỉ nói đến một số câu ca dao liên hệ đến lịch sử (và dã sử) nhà Nguyễn, đặc biệt là những câu mà nhiều nhà sưu tập chưa thống nhất với nhau về ý nghĩa.
Câu 1: .- Kim Long có gái mỹ miều,
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi.
Câu trên ám chỉ vua Thành Thái thường lên Kim Long tìm người đẹp. Kim Long là tên một cái làng nằm ở tả ngạn sông Hương, nơi có các phủ đệ của họ hàng bên ngọai các vua Nguyễn. Có lẽ nhờ nguồn nước mát ngọt của sông Hương và nhờ những vườn cây ăn trái xum xuê bốn mùa mà con gái Kim Long hầu như ai cũng “mỹ miều”.Thuở nhỏ tôi thường nghe kể rằng đêm đêm vua Thành Thái phi thân qua bức tường cao của hoàng thành rồi thẳng đường lên Kim Long. Thuở ấy tôi (cũng như nhiều thiếu niên đồng trang lứa) còn nghe nhiều chuyện khác về vua Thành Thái mà chúng tôi rất ngưỡng mộ, nhưng khi lớn lên một chút, biết suy nghĩ, chúng tôi hiểu rằng đó chỉ là chuyện thêu dệt, huyền thọai. Còn sự thật được nghe kể lại thì thế nầy: Thời đó, Vĩnh Quốc Công Nguyễn Hữu Độ có phủ ở Kim Long, sát bờ sông Hương. Ông có ba người con gái xinh đẹp, một gả cho vua Đồng Khánh, một gả cho em vua Hàm Nghi (Ưng Quyến), còn người con thứ ba chưa chồng tên là Nguyễn Hữu Thị Nga rất mỹ miều nên vua Thành Thái hay đi xe song mã đến nhà chơi. Sau đó, cô Nga được vua đưa vào cung , phong làm huyền phi, sinh được hai người con.Tương truyền câu ca dao trên là do chính miệng vua Thành Thái nói ra, xuất phát từ lúc vua đến nhà ông Nguyễn Hữu Độ lần đầu tiên.
Câu 2.- Rù đầu giả dại làm ngây,
Khôn kia dễ bán dại nầy mà ăn.
Câu ca dao nầy thoạt nghe cứ tưởng là nói về chuyện đời thường hoặc nói đến thế thái nhân tình, ai ngờ lại có dính dấp đến lịch sử. Nó ám chỉ chuyện Nguyễn Hòang giả điên.
Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) là con thứ hai của Nguyễn Kim. Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Nguyễn Kim cùng một số cựu thần của nhà Lê chạy vào Thanh Hóa. Năm 1533 Nguyễn Kim tôn lập Lê Ninh lên ngôi, tức Lê Trang Tông . (1533-1548). Năm 1545 Nguyễn Kim bị một tướng trá hàng của nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Sau khi Nguyễn Kim chết, rể là Trịnh Kiểm chuyên quyền cậy thế, giết hại con trưởng của Nguyễn Kim (và là anh vợ Trinh Kiểm) là Nguyễn Uông để thâu tóm hết quyền hành về tay mình. Dĩ nhiên Trịnh Kiểm còn muốn trừ khử cả Nguyễn Hoàng nữa.
Cậu ruột của Nguyễn Hoàng là Thích Quận Công Nguyễn Ư Dĩ biết rõ lòng dạ của Trịnh Kiểm nên khuyên Nguyễn Hoàng nên cầu cứu với bà chị là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, chính phi của Trịnh Kiểm. Bà nầy lập mưu, bắt Nguyễn Hoàng giả điên rồi xin với Trịnh Kiểm cho em mình vào trấn trị ở Thuận Hóa và Quảng . Trịnh Kiểm nghĩ rằng hai xứ ấy là nơi rừng thiêng nước độc, đang có quân nhà Mạc,”ta cứ cho hắn đến , kể như mượn tay nhà Mạc để trừ khử đi, ta vừa tránh được hậu họa, lại vừa tránh được tiếng không biết dùng người’’, bèn ưng thuận. Trịnh Kiểm liền tâu vua phong cho Nguyễn Hoàng làm Thái Úy Đoan Quốc Công, giữ chức trấn thủ Thuận Hóa. Thế là kế giả điên của Nguyễn Hoàng thành công. Từ chức vụ Trấn thủ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng trở thành người khai sáng ra triều đại nhà Nguyễn sau nầy ở trong .
Câu 3.- Ăn sung nằm gốc cây sung,
Lấy chồng thì lấy, nằm chung không nằm.
Trong thời gian cụ Phan Bội Châu bị Pháp giam lòng ở Huế (1925 – 1940), người ta nghe nhắc đến câu ca dao trên, nghĩ rằng đó là tâm sự của cụ. Quả thật, hồi đó cụ chủ trương chính sách Pháp Việt đề huề nên nhiều người đâm ra hoài nghi. Để đánh tan sự ngờ vực đó,cụ đã mượn câu ca dao trên làm đầu đề cho một bài thơ Đường như sau:
Thời thế xui nên giả vợ chồng,
Lấy anh chưa dễ đã nằm chung.
Ừ chơi cho nó toi đồng bạc,
Há để cho ai nếm má hồng.
Cười gượng lắm khi che nửa mặt,
Khóc thầm vì nỗi khác hai lòng.
Bao giờ duyên mới thay duyên cũ,
Thỏa thuận cùng nhau tát bể đông.
Đọc bài thơ, ta hiểu ý cụ muốn thanh minh rằng chính sách Pháp Việt đề huề chỉ là chủ trương bất đắc dĩ, chứ thực tình cụ không muốn hợp tác.
Hiểu ngụ ý của câu ca dao rồi, hẳn chúng ta sẽ không còn cười cô gái kỳ khôi : lấy chồng mà không muốn nằm chung với chồng sao được?
Câu 4.- Chiều chiều ông ngự ra câu,
Cái ve, cái chén, cái bầu sau lưng.
Câu nầy có hai cách giải thích:
- 1)-Vua Duy Tân giả vờ đi câu để gặp gỡ hai ông Thái Phiên và Trần Cao Vân mưu việc lớn. Việc không thành, hai ông Thái Phiên và Trần Cao Vân bị xử tử, còn vua Duy Tân thì bị đi đày.
- 2)-Chữ “ngự” có hai cách dùng: cách thứ nhất chỉ việc làm của vua, vua ăn thì gọi là ngự thiện, vua đi săn gọi là ngự lạp, vua đi đánh giặc gọi là ngự giá thân chinh…; cách dùng thứ hai chỉ chức quan làm việc cho vua như ngự y, ngự sử v.v.. Nếu chữ “ngự” trong câu trên ám chỉ vua, thì chỉ có hai ông vua có đi câu: vua Duy Tân (câu ở Hậu Hồ trong đại nội) và vua Tự Đức (thường câu ở hồ sen trong lăng Tự Đức – vua chưa băng hà nhưng đã xây lăng, chú thích của TTT). Gán chữ “ngự” cho vua nào cũng không ổn cả, vì hai lẽ: thứ nhất theo một vị bô lão cho biết, lúc ông còn nhỏ nghĩa là lúc chưa có vua Duy Tân thì ông đã nghe câu đó rồi; thứ hai nếu bảo “ông ngự” chính là vua Tự Đức thì cũng không ổn vì người ta nói “vua ngự’’chứ không ai gọi vua là “ông” cả. Còn nếu nói rằng chữ “ngự” ám chỉ mấy ông ngự y hoặc ngự sử lại càng không ổn, vì mấy ông nầy chỉ là những ông quan nhỏ, không ai đặt thành câu hát làm chi!
Tôi không tán thành ý kiến đó, bởi vì nếu thế sao ta còn nghe truyền tụng câu sau đây:
Chiều chiều ông Lữ đi câu,
Bỏ ve, bỏ chén bỏ bầu ai mang.
Ông Lã Vọng (Khương Tử Nha) đời nhà Chu, học rộng nhưng không ra làm quan, năm 80 tuổi vẫn còn ngồi câu cá ở bờ sông Vị Thủy. Một hôm Chu Văn Vương đi săn gặp ông ngồi câu cá, biết ông là người có tài liền mời về tôn làm quân sư.
Vậy khi còn ngồi câu cá, ông Lã (hay ông Lữ cũng rứa) chưa là ông quan chứ khoan nói đến quan to hay quan nhỏ, can cớ chi người đời đặt câu hát?
Nhưng thôi, đó là chuyện bên Tàu, tôi chỉ nhắc câu ca dao nầy để nêu giả thuyết rằng biết đâu câu “chiều chiều ông ngự ra câu…”là do câu “chiều chiều ông Lữ đi câu…” đọc trại ra chăng?
Câu 5.- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai.
hoặc : Chiều chiều lại nhớ chiều chiều chiều,
Nhớ người đãy gấm khăn điều vắt vai.
“Người quân tử khăn điều vắt vai” là ai?
Có 3 lời giải đáp:
a)- Đó là mẫu người đàn ông thời xưa: Trang phục của đàn ông ngày trước khi đi ra ngoài đường là đầu chít khăn đóng, che dù đen, mình mặc áo dài trắng hay áo lương đen, quần dài trắng, chân đi guốc hay giày hạ, vai mang một cái đãy bằng vải trong đựng giấy tờ, thơ phú hay các đồ dùng cá nhân.
b)-Đó là An Phong Công Hồng Bảo, con trưởng của vua Thiệu Trị: Hồng Nhậm (Tự Đức) là con thứ hai của vua Thiệu Trị nhưng lại được nối ngôi, Hồng Bảo vì quá uất ức và không cam chịu ngai vàng tuột khỏi tay mình nên âm mưu cướp lại .Sự việc bị phát giác, ông bị Tự Đức giam vào ngục, sau đó ông tự tử trong ngục. Xác ông bị đem vùi chôn nơi bụi tre, mấy đứa con của ông cũng bị bắt giam, người con trưởng bị đổi ra họ Đinh là họ mẹ.
Cảm thương Hồng Bảo bị chết thảm nên thầy học cũ của ông là Tương An Quận Công mới làm câu ca dao trên.
c)-Đó là vua Hiệp Hòa: Theo cụ Tùng Lâm – một thâm nho ở Huế - thì câu trên là của công chúa Đông Xuân (con vua Thiệu Trị) đặt ra để tưởng nhớ vua Hiệp Hòa bị hai quyền thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường sát hại.Lúc còn là hoàng tử (Văn Lãng Quốc Công Hồng Dật), ông hay mang cái đãy gấm đựng điếu thuốc vấn sẵn móc bên nút áo và cái khăn điều vắt bên vai để lau nước trầu ở miệng. Ông hay đi dạo vào buổi chiều và thường đến chơi với công chúa Đông Xuân. Vua Thiệu Trị có tất cả 64 người con, 29 hoàng tử và 35 công chúa. Hồng Dật là hoàng tử thứ 29 (không biết năm sinh),còn công chúa Đông Xuân tên thật là Gia Phúc, sinh năm 1847, là công chúa thứ 35. Năm bà 16 tuổi, vua Tự Đức gả bà cho Nguyễn Lâm, con trai danh tướng Nguyễn Tri Phương. Năm 1873 Nguyễn Lâm tử trận, bà còn rất trẻ. Không rõ hoàng tử Hồng Dật thường đến chơi với bà lúc bà đã có chồng hay trước lúc đó, nhưng điều đáng nói là quan hệ giữa bà và ông anh nầy không thấy có điều tiếng gì đáng chê trách, trong lúc đó giữa bà và một ông anh khác ( cùng cha khác mẹ) là Gia Hưng Vương Hồng Hưu thì xẩy ra chuyện lọan luân khiến cho dư luận đương thời lên án nặng nề còn triều đình thì kết tôi. Ông bị đưa đi an trí ở Lao Bảo, còn công chúa Đông Xuân thì bị phế làm dân thường và bị đổi qua họ mẹ là họ Hồ.Trong thời gian vua Đồng Khánh lên trị vì, bà tỏ ra ăn năn hối cải, một mực thờ chồng nuôi con, cả lưỡng cung và nhà chồng đều thương tình nên vua cho phục hồi công chúa, nhưng đổi sách phong lại là Phục Lễ Công Chúa (phục lễ = trở lại với lễ).
Trong 3 câu giải đáp, có lẽ câu thứ ba hợp lý hơn cả.
Câu 6.- Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
Câu nầy cũng có 3 lối giải thích khác nhau:
a)-Ám chỉ vua Lê Chiêu Thống và bà hoàng thái hậu chạy qua Tàu. Bà phi Nguyễn Thị Kim theo không được nên trở về quê.
b)- Ám chỉ 20 vạn quân Tàu bị vua Nguyễn Huệ đánh cho tan tác (về trời), còn Lê Chiêu Thống thì bị chê cười (chịu lời đắng cay).
c)- Ám chỉ bà Lê Thị Răm và con bà là Nguyễn Phúc Cải. Lê Thị Răm quê làng An Hải, Hội An. Nguyễn Ánh và cô Răm đã yêu thương nhau từ năm cô 15 tuổi/16 tuổi ta (1775) chèo đò chở công tử Ánh (lúc đó 13 tuổi/14 tuổi ta) đi thăm đảo Yến ở Cù Lao Chàm. Năm 1776, chúa Nguyễn Phúc Thuần bị Nguyễn Huệ đánh chiếm Quảng Nam doanh, liền đem Nguyễn Ánh vượt biển chạy vào Gia Định. Nguyễn Huệ lại đem quân đánh đuổi chúa Nguyễn chạy vào Định Tường, rồi giết Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên. Nguyễn Ánh chạy thoát. Cô Răm vượt biển chạy theo tiếng gọi của tình yêu và đến năm 1778 thì họ có với nhau đứa con trai đầu lòng đặt tên là Nguyễn Phúc Cải. Sau khi xưng vương ở Gia Định, Nguyễn Ánh đổi tên bà Răm là Phi Yến phu nhân, đổi tên Cải là Nguyễn Phúc Hội An, để kỷ niệm nơi gặp bà Răm lần đầu tại Cù lao Chàm (tức đảo yến, Hội An).Năm 1783 Nguyễn Ánh lại bị Nguyễn Huệ đánh đuổi, phải chạy ra Côn Đảo, lính tráng thuyền bè tan tác cả. Nguyễn Ánh bảo vợ là Phi Yến trao con trai là Hội An (lúc đó 5 tuổi / 6 tuổi ta) cho Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) đem qua Pháp làm con tin để xin cầu viện. Bà Phi Yến không chịu liền bị Nguyễn Ánh giam vào hang đá vắng vẻ ở hoang đảo Cỏ Ống..Chú bé Hội An khóc lóc đòi mẹ làm cho Nguyễn Ánh rất tức giận. Ông thét lớn:”Mi muốn theo mẹ mi thì tau cho mi xuống âm phủ để mi theo mẹ mi!”Thế là ông sai ném Hội An (tức Cải) xuống biển. Dân làng vớt xác Cải lên chôn cất tử tế.Ít lâu sau quân Tây Sơn vây đánh Côn Đảo, Nguyễn Ánh chạy thóat khỏi đảo, bỏ lại bà vợ trong hang sâu. Dân làng dò la cứu bà ra và làm cho bà một căn nhà nhỏ bên mộ con bà. Nhưng một hôm bà bị tên chủ làng là Biện Thi lẻn đến nhà hãm hiếp.Ngay đêm đó bà treo cổ tự tử. Chuyện thảm thương như vậy nhưng sách ‘’Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả” không hề ghi tên bà phi Lê Thị Răm tức Phi Yến, cũng không nói gì đến hoàng tử Cải tức Hội An. Tên mẹ con bà chỉ còn được nhắc đến qua câu ca dao:
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay
mà ai đó đã sửa lại thành: “Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”
cho phù hợp với nội dung câu chuyện.
Đối chiếu với lịch sử ta thấy nếu câu chuyện “rau răm và cây cải”là chuyện thực thì Nguyễn Phúc Cải sinh cùng một năm với Nguyễn Phúc Cảnh. Theo chuyện nầy năm 1783 Nguyễn Ánh dự tính gởi Cậu Cải cho Giám mục Bá Đa Lộc đem qua Pháp làm con tin thì theo sử sách, hoàng tử Cảnh cùng Giám mục Bá Đa Lộc lên tàu qua Pháp ngày 25 tháng 1 năm 1784.Vậy có thể hiểu rằng sau khi tính chuyện gởi hoàng tử Cải đi theo Giám Mục Bá Đa Lộc không xong, Nguyễn Ánh mới đưa hoàng tử Cảnh thay thế vai trò con tin. Nghe có vẻ trùng khớp về thời gian, nhưng có một nhân chứng quan trọng không nên bỏ sót. Đó là Giám Mục Bá Đa Lộc. Nếu Cậu Cải và Bà Răm là hai nhân vật có thực thì Giám Mục Bá Đa Lộc ắt phải biết, phải nhớ vì Giám Mục là người được Nguyễn Ánh gởi gắm cậu Cải. Thế sao không ai tìm thấy vết tích gì về bà Răm và Cậu Cải trong những bài vở, sách báo viết về Giám Mục Bá Đa Lộc?
Xin tạm kết thúc câu chuyện nầy cùng với nỗi thắc mắc còn đeo đẳng.
THÂN TRỌNG THỦY
Tài liệu tham khảo:
1.- Ca dao xứ Huế bình giải của Ưng Luận, Sở VHTT Thừa Thiên Huế,1999
2.-Giai thọai dã sử Việt của Nguyễn Khắc Thuần, NXB Trẻ, 2000
3.- Việt Sử Giai Thoại của Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo Dục, 2002.
4.- Từ Điển Thành ngữ, Tục ngữ, Ca dao Việt của Việt Chương, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2003.
5.- Chuyện Kín Cấm Thành của Mai Thanh Hải,NXB Văn Hóa Thông Tin, 2008
6.- Công Chúa Việt ,NXB Thanh Niên, 2006
7.-Việt Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm, Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục xuất bản, 1941
8.- Giai thọai Làng Nho của Lãng Nhân,NXB Văn Học, 2001
9.- Trang web NetCodo
10.-Ca dao Tục ngữ Việt của Hà Phương Hoài, trang web e.cadao.com
11.- Bài viết về “Cây cải về trời” của Hoàng Long Hải-Tuệ Chương, vietno.com.
12.- Bài viết”Công chúa lấy chồng” của Võ Hương An.
Ghi chú : Một bạn đọc có ý kiến :
Bài khảo cứu rất công phu.
Đề nghị tác giả viết thêm huyền thoại về câu đố sau đây:
Trái chi nho nhỏ dễ thương/
Mắc hai chứng bịnh cũng liều đánh Tây.
Xin mời đọc tiếp bài sau đây, nói về Huyền thoại trận Mù U :
Huyền thoại trận Mù-u
Võ Hương-An
Thập niên 1960, Nhật Bản có một cuốn phim đen trắng rất nổi tiếng, phim Rashomon, Lã Sinh Môn. Phim nổi tiếng không vì tài tử xuất sắc, tiếng tăm gạo cội, cũng không vì hình ảnh đẹp, dàn dựng công phu tốn kém, mà vì cốt chuyện thâm thúy. Dưới cổng Rashomon một chiều mưa tầm tã, mấy người trú mưa cùng kể về một vụ án mạng nhưng không ai giống ai, vậy thì sự thật ở chỗ nào? Thế mới biết bắt đúng sự thật không phải dễ, huống hồ là sự thật lịch sử, những việc khi chúng ta nói tới đã cách chúng ta biền biệt cà hàng chục, hàng trăm hay hàng ngàn năm. Tam sao thất bản, nếu có, cũng là chuyện thường, nhất là khi người kể, người viết không nắm bắt được dữ kiện, lại phóng chiếu câu chuyện bay bổng theo trí tưởng tượng của văn chương. Tôi nhớ đến những hòn bi mù-u thời thơ ấu và trận giặc mù-u lãng đãng mây khói trong không khí cổ tích.
Lần đầu tiên được thoát khỏi sự canh chừng của mệ ngoại để theo lũ bạn hàng xóm mặc quần xà-lỏn, quẹt mũi ngang, chạy rông từ xóm Tả Tam trong Thành Nội (Huế) lên Cầu Đất, ra đường Ngọ Môn (23 tháng 8), đường Cột Cờ (Ông Ích khiêm), lượm trái mù u về làm bi để đánh bi mo, đánh đáo, quả là một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Con nít, đứa nào lại không thích đánh bi, nhưng tiền đâu để mua bi thủy tinh như tụi con nhà giàu? Những trái mù u chín vàng, rụng xuống cỏ, lâu ngày mưa nắng làm cho lớp vỏ ngoài tróc đi, còn lại cái hột tròn có vỏ cứng, con nhà nghèo lượm về làm bi, tuy không đẹp như bi thủy tinh nhưng chơi cũng hết ý như ai. Khi tôi vỗ vào hai cái túi áo cổ kiềng đầy mù-u để khoe thành tích phiêu lưu với mệ ngoại, bà bình luận ngay:
-Hồi xưa, mấy ông tướng của mình dùng mù-u ni để đánh trận với Tây đó. Giết Tây chết như rạ.
Nghe chuyện lạ, tôi hỏi ngay:
-Bộ mấy ông dùng mù u làm đạn để bắn Tây hả mệ?
-Không, nghe kể là mấy quan tướng của mình thấy Tây không có đầu gối (?!), khi đi, hai chưn cứ thẳng băng như cột tre, nếu ngã té chắc chắn không đứng dậy được. Bởi rứa, mấy quan tướng sức dân nạp mù-u, rồi sai quân rải ra đầy đường. Tây đi giày, đạp nhằm mù-u, trượt té, nằm thẳng cẳng. Quân mình phục sẵn, tha hồ đổ ra đánh giết, Tây thua.
Lớn lên, cũng có lúc nghe một đôi người cao giọng kể về thành tích trận mù-u đánh Tây, nhưng khi hỏi đó là trận nào, xảy ra ở đâu, thì không người nào nói cho ra vạch. Đọc trong sử, cũng không thấy có chỗ nào nhắc đến vụ mù-u, lòng cứ vẩn vơ thắc mắc, chuyện đánh giặc giữ nước mà nghe như đùa. May mắn, về sau chuyện này lại được học giả Thái Văn Kiểm nhắc đến trong cuốn Cố Đô Huế rất nổi tiếng của ông.
“Ngày nay trong văn chương bình dân còn truyền lại câu ca dao:
Văn Thánh trồng thông
Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc: hai hàng mù u
“Câu này nhắc lại lại một chiến công dưới thời vua Tự Đức. Khi quân Pháp đổ bộ lên cửa Thuận An, kéo binh vào thành Huế, quân ta mai phục hai bên đường vào đàn Xã tắc, bèn lấy trái mù u đổ ra đầy đường. Quân Pháp đi giày da, đạp lên mù –u, nhào té đảo điên. Quân ta thừa thế nhảy ra đánh xáp lá cà làm cho quân Pháp phải chạy tán loạn. Vì vậy mới gọi là trận giặc mù u. Ngày nay, hai bên đường xã tắc, còn hai hàng mù- u (callophylum) cao ngất nghểu thỉnh thoảng rụng trái trên vai người đi đường, như để nhắc nhở một trang sử oanh liệt.”(Thái Văn Kiểm, tr.3)
Đã gọi là “trang sử oanh liệt” thì người dân nào lại không lấy làm hãnh diện về sự nghiệp giữ nước của tổ tiên mình, huống chi đối với tôi, là người địa phương, nơi diễn ra chiến tích đó. Phải tìm hiểu thì hãnh diện mới có căn chứ. Nhưng…vậy mà không phải vậy.
Thời Tự Đức, Pháp đánh Huế mấy lần?
Nước Pháp liên minh với Tây Ban Nha, mở đầu cuộc xâm lăng Việt
Lịch sử cho thấy trong suốt thời gian vua Tự Đức trị vì, quân Pháp chưa bao giờ tấn công Huế - ngay cả tấn công cửa Thuận An, cổng ngỏ vào Huế, cũng chưa, nói chi tới việc quân Pháp vô trong kinh thành, rồi tiến lên đàn Xã Tắc giữa hai hàng mù-u để rồi bị phục binh của ta đánh giết!
Nhà Nguyễn lập ra đàn Nam Giao để tế Trời, (Hiệu Thiên Thượng Đế) lập ra đàn Xã Tắc để tế thần Đất. (Hai chữ xã-tắc cũng chỉ về đất nước, sơn hà xã tắc). Vì vậy, thuở xa xưa bên Tàu, hễ chiếm được đàn xã tắc của nước nào có nghĩa là làm chủ được nước đó, nhưng đến thời Tây qua xâm lăng Việt
Có hay không trận mù-u? Một chút lịch sử
Vậy thì không có trận mù-u?
Có chứ. Nhưng không phải như Hương Giang Thái Văn Kiểm đã dẫn. Nó thuộc về một biến cố khác, không ở dưới thời vua Tự Đức, mà cũng không dính líu gì đến đàn Xã Tắc. Nó là một phần nhỏ trong biến cố thất thủ kinh đô năm Ất Dậu, 1885, thời vua Hàm Nghi (1884-1885). Tôi xin trích của Trần Trọng Kim môt đoạn sử sau đây để bạn đọc có chút ý niệm về biến cố:
“ [1884] Nhưng ở các nơi, những quan cũ ta còn chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế đủ mọi đường. Tháng 9 năm Giáp Thân (1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức [thân phụ vua Thành Thái] giam vào nhà tối, không cho ăn uống để chết đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai ông ấy lại mộ quân tập lính và lập đồn Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy, phòng khi có việc gì thì đem quân ra đó để chống nhau với quân Pháp. Cũng vì các ông ấy có ý muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đã chiếm giữ Mang Cá ở thành Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.
Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ. Bấy giờ sự hòa ước với Tàu đã xong, bởi vậy thống tướng mới định vào Huế bắt Triều đình ta phải chịu quyền bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội đã nói chuyện với các người Pháp và những người Nam ra làm quan với Pháp, đã biết tình hình ở trong Huế là thế nào. Đến ngày 19 tháng 5 thì
thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đình cử hai quan đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón thống tướng ở cửa Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đòi hai quan phụ chính sang bên Khâm sứ để định việc vào yết kiến vua Hàm Nghi.
Hai ông ấy lúc bấy giờ còn đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay mình cả, mà thấy thống tướng làm sự đường đột như thế, cũng đã tức giận lắm…Ông Tường thì là một tay giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng biến, cho nên lúc ấy chỉ có một mình ông Tường sang ra mắt quan thống tướng De Courcy mà thôi, còn ông Thuyết thì cáo bệnh không sang.Thống tướng thấy vậy, bảo đau cũng phải khiêng sang.Tôn Thất Thuyết thấy quan Pháp ra oai như thế, phần thì tức giận,
phần thì sợ, lại nhân lúc bấy giờ mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng đấy là điềm trời xui khiến bèn quyết ý sửa soạn để đánh nhau.
Thống tướng De Courcy định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi, thì phải mở cửa chính, không những chỉ để quan nước Pháp đi mà thôi, nhưng lại phải để cả quân lính cùng đi vào cửa ấy. Triều đình thấy điều ấy trái với quốc lễ, xin để thống tướng đi cửa giữa, theo như sứ Tàu ngày trước, còn quân lính thì xin đi cửa hai bên, thống tướng nhất định không
chịu.
…Trưa hôm 22 các quan ở CơMật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định cho xong việc đi cửa chính, cửa bên, nhưng thống tướng De Courcy không tiếp. Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật sang tặng thống tướng, thống tướng cũng khước đi không nhận. Các quan thấy thống tướng làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ý tứ gì mà khinh mạn Triều đình đến như thế. Tôn Thất Thuyết càng thấy thế càng lấy làm tức giận, thôi thì sống chết cũng liều một trận, họa may trời có giúp kẻ yếu hèn gì chăng? Ấy là lúc tướng sĩ lúc bấy giờ ai cũng tưởng như thế, cho nên mới định đến nửa đêm khởi sự phát súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá [VHA nhấn mạnh]
Chiều hôm ấy thống tướng làm tiệc đãi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, thì súng ở trong thành nổ ra đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân Pháp thấy bất thình lình nửa đêm quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế nào, chỉ yên lặng mà chống giữ. Đến sáng ngày 23 [4/7/1885] mới tiến lên đánh, thì quân ta thua chạy.”
Quân Pháp phản công bằng hai mũi: mũi thứ nhất, phát xuất từ Mang Cá; mũi thứ hai từ Tòa Khâm, băng qua sông Hương. Cả hai mũi đều nhắm Đại Nội làm mục tiêu. Khoảng 7 giở rưỡi sáng, vua Hàm Nghi và tam cung lục viện thoát ra Đại Nội bằng cửa Chương Đức ở phía tây, rồi sau đó ra khỏi kinh thành bằng Cửa Hữu, bắt đầu một cuộc hành trình đầy gian nan. Tám giờ sáng, quân Pháp treo cờ trên Kỳ đài trước Ngọ Môn, họ hoàn toàn làm chủ kinh đô và họ không đụng gì đến đàn Xã Tắc.
Nhân chứng hiếm hoi của trận mù-u
Sử ghi vắn tắt về biến cố Ất Dậu, thì làm sao biết được mù-u đã được sử dụng ở đâu và khi nào? Ngày nay, khó ai trả lời được câu hỏi này nếu tác giả Lô Giang Tiểu Sử đã không chịu khó ghi lại đôi dòng cho con cháu trong nhà. Lô Giang Tiểu Sử là hồi ký của cụ Thượng thư hưu trí Nguyễn Văn Mại, hiệu Tiểu Cao, viết bằng chữ Nho, đã được con trai là ông Nguyễn Hy Xước dịch ra Việt ngữ năm 1947, in ronéo, lưu hành nội bộ gia đình. Một vài thân hữu của gia đình may mắn được đọc hồi ký này, đã nhận ra rằng ngoài chuyện cũ của cá nhân và gia đình được ghi lại, Lô Giang Tiểu Sử còn là một nguồn sử liệu hữu ích vì chứa đựng nhiều chi tiết liên quan tới lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX; vì vậy, bản phóng ảnh Lô Giang Tiểu Sử cũng được lưu hành giữa một số người nghiên cứu sử xuất thân từ Huế. Cụ Tiểu Cao đỗ Phó bảng khoa thi Hội năm Ất Dậu (1885). Ngày 15 tháng Năm (âm lịch) vào thi Đình, đang chờ kết quả thì xảy ra biến cố thất thủ kinh đô vào sáng ngày 23 tháng Năm, Ất Dậu (4/7/1885).
Xin mời bạn đọc vui lòng xem bản đồ in kèm bài này để nắm vững những địa danh được nói đến, để thấy sự việc rõ hơn.
Ngay từ ngày 22 tháng 5, cống sĩ [1] Nguyễn Văn Mại đã ghi nhận rằng :
“Lúc đó, ta vào thi Đình xong, cùng với anh Trần Đào Tiềm đến Bộ Lễ để chờ kết quả kỳ thi, thì thấy trong thành [kinh thành], từ Trấn Bình Đài [Mang Cá] cho đến Lục Bộ, hai bên đường đều đào hào, lính các trại đều mang gươm súng sẵn sàng, trước các trại lính đều chất đầy những thùng chứa cột chuối để phòng bị. Hai bên đường từ Trấn Bình Đài mà ra chất đầy những đống trái bàng và mù - u ”(VHA nhấn mạnh) (tr. 35)
…“ 7 giờ đêm hôm ấy, trước khi giao chiến thì Tôn Thất Thuyết mật phái một toán quân đến vây Tòa Sứ, còn quân lính trong thành đều chủ lực về mặt bắc Trấn Bình Đài, và để lại trại không. Đến giờ bắt đầu giao chiến, quân ta bắn trước mà quân Pháp chỉ bắn trả mà thôi… Trong thành, quân ta bắn tiếp vào Trấn Bình Đài từ 8 giờ đêm cho tới 1 giờ sáng, nghe trong đài ít bắn ra, quân ta áp vào và la to: đã áp vào Trấn Bình Đài rồi. Tiếng la như sấm. Không ngờ khi quân ta bắn thì quân Pháp đều núp xuống hầm để đợi, chỉ thỉnh thoảng bắn trả ít thôi. Đến 3 giờ sáng quân Pháp nghe chừng quân ta bắn sưa ra và sắp áp vào Trấn Bình Đài thì họ vùng dậy bắn cả một loạt, quân ta thuốc đạn ít, không địch nổi, đua nhau mà chạy, quân Pháp đuổi theo và bắn chỉ thiên.”
“Quân ta nghe tiếng súng không biết ngã nào, đạp nhau mà chết trong hào hoặc giữa đường, người trước bước trên mù-u té ngã, người sau đạp lên mà chết hàng ngàn. Trước kia đào hào, rải mù-u lên đường, chủ ý là để hại quân Pháp, mà hóa ra làm hại quân ta. Tại các cửa thành, trai gái già trẻ, người mang của, kẻ bế con, tranh nhau mà ra, người trước ngã, người sau đạp lên, thây liệt đầy đường…” (tr. 35-36)
Những dòng vắn tắt của Tiểu Cao đã làm sáng tỏ những điểm sau:
- Quả thật có trận mù –u xảy ra vào đêm 22 rạng ngày 23/5 Ất Dậu, 1885;
- Nơi chiến trận xảy ra là quãng đường từ Mang Cá đến Đại Nội (đường Đinh Tiên Hoàng ngày nay) đoạn gần Mang Cá. Không dính gì đến Xã Tắc.
- Trong trận này, quân Việt không những dùng mù-u mà còn dùng cả trái bàng như một phương tiện hỗ trợ hành quân chiến đấu để hại quân Pháp .
Mù-u và trái bàng không hại được quân Pháp mà chỉ làm hại quân Việt vì lính Pháp đi giày đinh, đạp nát mu-u và trái bàng dễ dàng, còn quân dân Việt thì đi chân đất ,đạp nhằm mù u và trái bàng, té ngã, bị dẫm đạp mà chết, chưa nói chi tới tên bay đạn lạc. Tất cả ngoài dự liệu của các quan tướng. Rõ ràng là không có một chiến thắng vinh quang nào như đã được kể lại theo truyền thuyết.
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù-u nghĩa là sao?
Khi đã biết sự thật như đã trình bày thì có thể thấy được rằng giải thich về ý nghĩa của câu hát dân gian Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù-u như Hương Giang Thái Văn Kiểm đã viết là nặng phần tưởng tượng hơn thực tế đã diễn ra.
Vậy thì toàn bộ câu hát chỉ là những câu tả cảnh thôi sao? Rất có thể.
Văn Thánh tức Văn Miếu, xây dựng vào năm Gia Long thứ 7 (1808), thờ Khổng Tử và các danh Nho. Khuôn viên trồng đầy thông.
Võ Thánh tức Võ Miếu, xây dựng năm Minh Mạng thứ 16 (1835), thờ Khương Tử Nha và các danh tướng Trung Hoa và Việt Nam. Trong khuôn viên miếu này người ta trồng cây bàng. Cả hai miếu đều nằm về tả ngạn sông Hương, cách chùa Thiên Mụ về phía tây không bao xa.
Trong khi đó, đàn Xã Tắc lại đặt trong Kinh thành, bên phía tay phải của Đại Nội, trên đường Trần Nguyên Hãn ngày nay, xưa gọi là đường Xã Tắc. Đàn này lập ra năm Gia Long thứ 5 (1806) để thờ các thần chủ về đất đai (Thái Xã Thần) và mùa màng (Thái Tắc Thần). Trong một nước lấy nông nghiệp làm gốc thì đất đai và mùa màng là sự sống còn của quốc gia. Trong khuôn viên Xã Tắc người ta trồng ba thứ cây, là thông, xoài và mù-u. Con đường đi vào Xã Tắc cũng trồng mù-u nên mới có câu hát trên.
Ta hãy xem người xưa đánh giá ba loại cây này như thế nào. Đại Nam Nhất Thống Chí chép:
-Tùng (thông): Bản Thảo nói rằng tùng là đàn anh trong các loài mộc, cho nên viết theo chữ công, lại nói tùng già thì dư khí kết thành phục linh một nghìn năm thì nhựa nó kết thành hổ phách. Nay ở đàn Nam Giao, các sơn lăng, núi Ngự Bình các nơi thông mọc thành rừng…(tr.352)
- Cây mù-u: Nam mai, hoa như hoa mai trắng, quả tròn như ngón chân cái, ép dầu, trị vết đao thương, thắp đèn kiến gián không ăn. Cây cong queo bền chắc, nhà nước hay trồng để dùng làm tay cong và bánh lái ở thuyền.(tr.360)
-Cây bàng: Sơn phong, thân cây cao lớn, cành lá mọc thành tầng, hình vòng tròn như hình tán lọng; sau tiết sương giáng lá biến thành sắc đỏ, như lá cây phong, nên gọi là sơn phong. Nay trồng nhiều ở các cung điện, phủ, thự (tr.365)
Khi nghe câu hát:
Văn Thánh trồng thông,
Võ Thánh trồng bàng,
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù-u
Tôi có hỏi Thầy tôi, tức bố tôi, tại sao lại trồng mấy thứ cây đó mà không trồng thứ khác? Ông cụ đủng đỉnh trả lởi:
- Đền miếu, cung điện hay chùa chiền phải trồng cây và phải lựa thứ thích hợp để trồng thì cảnh quang mới đẹp đẽ trang nghiêm. Ở đây , các cụ xưa lại muốn chơi chữ. Văn Miếu là nơi văn học thì phải tinh thông nghĩa lý văn chương sách vở, nên trồng thông để ngụ ý nhắc nhở người đi học. Còn võ miếu là nơi tượng trưng cho việc dụng binh thì phải luận bàn kế hoạch cho chu đáo nên trồng bàng. Riêng Xã Tắc là nơi giao tiếp với đất trời, mà thiên địa mịt mù nên mượn mù-u để tượng trưng.
Tôi phải cảm ơn Thầy tôi, đã giải thích điều này, ít nhiều cũng có lý, và không làm méo mó lịch sử. Đúng hay sai, tùy bạn đọc thẩm định, và nếu được nghe một kiến giải khác hợp lý hơn, ý nghĩa hơn, thì thật là quí báu vô cùng. Riêng tôi, thấy trong hướng giải thích này nổi rõ cái phong vị Huế trong việc chơi chữ. Người Huế phát âm không chuẩn như người Bắc. Không phân biệt các âm hỏi, ngã (ví dụ: nghĩ ngợi và nghỉ ngơi); không phân biệt các âm cuối có g hay không g, vì vậy mới dám “cả gan” cho “luận bàn” nghe không khác “cây bàng”!
Còn tại sao người ta trồng xoài cùng với thông và mù-u trong khu Xã tắc? Khi theo bạn bè “thám hiểm ”, tôi không thấy cây xoài, có lẽ đã chết tiêu đâu mất, vì là cây ăn quả nên dễ bị hại. Bởi vậy tôi không biết để đem ra hỏi Thầy tôi. Khi lớn lên, đọc Đại Nam Nhất Thống Chí, mới biết đàn Xã Tắc có trồng xoài như một lại cây chính thức, thì không biết hỏi ai nữa. Lúc rảnh , rỉ rả đọc lại ĐNNTC, mục Thổ sản, mới thấy lý do tại sao các cụ xưa lại chọn cây xoài để trồng nơi này. Sách này xếp quả xoài là một “phẩm quí ở phương Nam”. Và ghi nhận: “Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quí Đôn chép rằng : Tục truyền năm nào xoài sai quả thì ngũ cốc mất mùa, xoái ít quả thì ngũ cốc được mùa. Ứng với thời tiết cũng có nghiệm.” (tr.301). Hèn gì! Xã Tắc là nơi thờ thần chủ về đất đai mùa màng. Muốn biết về mùa màng trong năm được hay mất mà đem ra hỏi thần cũng khó, chi bằng trồng cây xoài, cứ trông quả nhiều quả ít thì biết. Cây xoài trở thành khí cụ dự báo mùa màng của triều đình!
VÕ HƯƠNG-AN
01/2008
Tài liệu tham khảo
-Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha Văn Hoá Bộ QGGD, Saigon, 1960, bản in lại ở Mỹ không đề năm
-Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại, Lô Giang Tiểu sử, bản dịch của Nguyễn Hy Xước, bản in ronéo, lưu hành gia đình.
-Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, bản dịch Viện Sử Học, Tập I, nxb Thuận Hóa, 1997
1 commentaire:
Bài khảo cứu rất công phu.
Đề nghị tác giả viết thêm huyền thoại về câu đố sau đây:
Trái chi nho nhỏ dễ thương/
Mắc hai chứng bịnh cũng liều đánh Tây.
Enregistrer un commentaire