Truyện ngắn
MARCEL PRÉVOST
Nhà văn Pháp
( 1862 - 1941 ).
Marcel Prévost sinh năm 1862 tại Paris, theo học trường dòng tại Bordeaux và đại học Bách Khoa ở Paris. Sau khi tốt nghiệp được vài năm, ông áp dụng kiến thức khoa học đã thu nhận để mở xí nghiệp thuốc lá.
Nhưng ông sớm từ bỏ tất cả để chuyên chú việc viết lách. Từ năm 1887, ông cho ra đời một loạt tác phẩm cho đến năm 1893. Và bất ngờ qua năm 1894, ông công bố công trình nghiên cứu về tác dụng của giáo dục và xã hội Paris đối với giới trẻ. Đến 1904, ông lại thử sức mình với vở kịch bốn hồi La plus faible được trình diễn tại Nhà hát kịch Pháp ( Comédie française ).
Năm 1909, ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp .
Ông qua đời năm 1941.
Truyện ngắn giới thiệu dưới đây, phảng phất phong vị liêu trai, chuyện mờ mờ ảo ảo, được xem như một trong những truyện hay nhất của ông.
****
“ Vâng”, lời ông bạn già Tribourdeaux của tôi, một con người văn hoá và một triết gia, sự kết hợp hiếm khi thấy ở những bác sĩ quân y chuyên phẫu thuật, “ vâng, điều siêu nhiên nơi nào cũng có, nó ở quanh chúng ta, vây quanh ta và ngấm vào ta. Nếu khoa học tìm kiếm nó, nó vụt qua, không giữ được. Khả năng hiểu biết của chúng ta cũng giống như tổ tiên chúng ta khai phá vài mẫu rừng, khi nào họ đến gần giới hạn khai phá hết thì họ lại nghe tiếng gầm gừ và nhìn thấy những đôi mắt lấp loáng ở xung quanh. Chính tôi đã có cái cảm giác đạt tới những giới hạn của điều không biết nhiều lần trong đời, và vào một dịp đặc biệt.”
Một nàng trẻ tuổi có mặt ở đó ngắt lời ông:
“ Thưa bác sĩ, ông đang muốn kể cho chúng tôi một câu chuyện. Xin bắt đầu đi!”
Vị bác sĩ cúi thấp đầu:
“ Không, tôi xin thưa thật tôi không phải là không lo. Tôi càng ít kể câu chuyện này thì càng tốt. Vì nó sẽ ám ảnh những người nghe nó, và cũng làm tôi bấn loạn luôn. Tuy vậy, nếu cô thích, thì chuyện như thế này:
“ Năm 1863, khi tôi còn là y sĩ trẻ làm việc ở Orléans. Thành phố thượng lưu ấy đầy những ngôi nhà cổ kiểu quý tộc, thật khó mà tìm được những căn hộ dành cho người độc thân, và, do tôi thích cả không khí lẫn không gian thoáng đãng, tôi chọn chỗ ở của mình ở tầng một của một toà nhà lớn ở ngay rìa thành phố, gần Saint-Euverte. Ban đầu nó được xây dựng vừa làm kho chứa hàng vừa làm chỗ ở cho một nhà sản xuất thảm. Trong giai đoạn đó thì nhà sản xuất này thất bại, và toà nhà lớn ông ấy xây dựng không được sửa chữa vì thiếu người thuê, đã được bán với toàn bộ nội thất với giá rẻ mạt. Người mua hy vọng mua nhà này sẽ sinh lợi về sau vì thành phố đang phát triển ra hướng đó, và thực tế là tôi tin rằng hiện giờ toà nhà đã nằm trong quy hoạch của thành phố. Tuy nhiên, khi tôi thuê một chỗ ở đó, toà nhà còn đơn độc ở ven một miền quê thoáng đãng, cuối một con đường ngoằn nghèo có vài ngôi nhà rải rác vào lúc chạng vạng tạo ra ấn tượng đó là một cái hàm đã rụng hết răng.
Tôi thuê một nửa tầng một, là một phần toà nhà gồm 4 phòng. Tôi lấy hai phòng mặt tiền làm phòng ngủ và phòng làm việc, phòng thứ ba tôi để mấy cái kệ, tủ quần áo, còn phòng kia tôi để trống. Chỗ này thành nơi cư trú rất thoải mái đối với tôi, và tôi có một bao lơn rộng chạy suốt mặt tiền toà nhà làm chỗ dạo chơi, hay nói đúng hơn, là một nửa bao lơn đó, vì toà nhà được chia làm hai phần ( xin cẩn thận chú ý chi tiết này ) bằng một hàng rào song sắt, nhưng người ta vẫn có thể leo qua dễ dàng,
Tôi sống ở đó chừng hai tháng thì vào một đêm tháng bảy, khi trở về nhà, tôi ngạc nhiên thấy có ánh sáng nơi những cửa sổ của phần nhà bên kia, cùng một tầng này, nơi mà lâu nay tôi vẫn nghĩ là không có người ở. Tác động của ánh sáng này thật lạ lùng, nó chiếu sáng nhiều phần của bao lơn, con đường bên dưới, và một ít diện tích kế cận.
Tôi tự nhủ: A ha, mình có hàng xóm rồi.
Thực sự, ý nghĩ này không phải hoàn toàn được tán thành, vì tôi đã từng tự hào về sự cư ngụ độc nhất của tôi. Trước khi về phòng ngủ tôi lặng lẽ đi ra bao lơn, nhưng nguồn sáng ở ngoài đã tắt mất rồi. Vậy là tôi quay về phòng, ngồi đọc sách, chừng một hay hai tiếng đồng hồ. Thỉnh thoảng, tôi mơ hồ nghe được tiếng chân bước nhẹ, dù tôi đang ngồi trong bốn bức tường, nhưng sau khi đọc sách xong, tôi đi ngủ, và chìm vào giấc ngủ khá nhanh.
Khoảng nửa đêm, tôi bừng tỉnh giấc, vì có cảm giác lạ lùng là có gì đó đang đứng bên cạnh tôi, tôi ngồi dậy trên giường, thắp cây nến, và đây là những gì tôi thấy. Ở giữa phòng là một con mèo rất to đang nhìn tôi bằng đôi mắt sáng ánh lân tinh, lưng hơi cong lên. Đây là mèo giống Angora lớn, lông dài, đuôi phủ lông tơ, có một màu khác thường - chính xác là giống màu lụa vàng mà người ta thấy trong những cái kén - vì vậy khi ánh sáng toả trên lớp lông của nó, con vật dường như làm bằng vàng.
Nó chầm chậm bước về phía tôi bằng bốn chân mềm như nhung, dịu dàng cọ tấm thân dợn sóng của nó vào chân tôi. Tôi vói tay xoa xoa nó, nó chấp nhận sự ve vuốt , gừ gừ, và cuối cùng nhảy lên đầu gối của tôi. Lúc này tôi nhận ra nó là một con mèo cái, còn tơ lắm, và dường như nó sẵn lòng để tôi vuốt ve bao lâu tuỳ ý. Nhưng sau rốt tôi đặt nó xuống trên sàn nhà, và cố dỗ nó ra khỏi phòng, nhưng nó phóng đi trốn giữa những đồ đạc trong phòng, tuy nhiên sau khi tôi thổi tắt đèn, nó lại nhảy lên giường tôi. Đang ngái ngủ, tôi chẳng buồn đụng đến nó, mà chập chờn ngủ ngay, và sáng hôm sau khi tôi thức dậy trong ánh sáng ban mai rạng rỡ, tôi chẳng còn thấy chút dấu vết nào của con vật nữa.
Thật sự, bộ óc con người là một công cụ tinh vi và dễ bị rối loạn. Trước khi tôi kể tiếp, quý vị hãy tóm tắt lại các dữ kiện mà tôi đã đề cập: một nguồn sáng được nhìn thấy, và tắt ngấm ngay trong một phần nhà được cho là không có người ở, và một con mèo với màu lông lạ thường, xuất hiện và biến mất một cách có phần bí ẩn. Cho đến đây thì không có gì lạ lùng cả, phải không ? Hay lắm. Bây giờ hãy tưởng tượng rằng những sự kiện không quan trọng đó được lặp lại ngày này qua ngày khác cũng y như vậy suốt một tuần lễ, và rồi, xin hãy tin tôi, chúng trở nên quan trọng đủ để gây ấn tượng với bộ óc của một người đàn ông đang sống một mình, và tạo ra nơi anh ta một sự băn khoăn lo lắng như tôi nói lúc đầu câu chuyện , cũng như luôn luôn tạo ra sự lo âu khi người ta tiếp cận với điều chưa từng biết. Trí tuệ con người được cấu tạo để luôn ứng dụng một cách vô thức cái nguyên tắc cần và đủ. Với một loạt sự kiện giống nhau, nó đòi hỏi một nguyên nhân , một quy luật, và một nỗi lo ngại mơ hồ chế ngự nó không thể đoán ra nguyên nhân và lần ra quy luật này.
Tôi không hèn nhát, nhưng tôi đã từng nghiên cứu về sự biểu lộ nỗi sợ hãi nơi người khác, từ hình thức sợ hãi non nớt nhất ở trẻ con cho đến tình huống bi kịch nhất nơi những người điên. Tôi biết rằng sự sợ hãi được nuôi dưỡng bởi những điều không minh bạch, nhưng khi người ta quyết định tìm hiểu nguyên nhân, nỗi sợ hãi này thường biến thành sự tò mò đơn giản.
Vì thế tôi quyết định tìm cho ra sự thật.Tôi hỏi người giao hàng cho tôi, và thấy rằng anh ta chẳng biết gì về những người hàng xóm của tôi. Mỗi buổi sáng, một bà già đến dọn dẹp phần nhà bên đó, người giao hàng của tôi cố hỏi bà ta, nhưng hoặc bà điếc hoặc bà không muốn cung cấp cho anh thông tin gì, nên bà ta không hề hé răng nói một lời nào. Tuy nhiên, tôi có thể giải thích thoả đáng điểm đầu tiên mà tôi đã thấy - đó là sự biến mất đột ngột nguồn sáng khi tôi vào nhà. Tôi đã thấy các cửa sổ kế bên cửa sổ nhà tôi chỉ được che màn vải đăng ten dài, và vì hai bao lơn liền kề, nên người hàng xóm của tôi, không biết là nam hay nữ, rõ ràng là muốn ngăn chặn bất kỳ sự tò mò nào về phía tôi, và vì thế đã luôn luôn tắt đèn khi nghe tiếng tôi về. Để kiểm tra lại giả thiết này, tôi đã làm một thử nghiệm rất đơn giản mà hoàn toàn thành công. Một hôm, tôi cho người đem đến cho tôi một bữa ăn nguội vào buổi trưa, và buổi chiều tôi không ra khỏi nhà. Khi trời tối, tôi chọn một chỗ ngồi gần cửa sổ. Rồi tôi thấy bao lơn sáng lên do ánh sáng chiếu qua các cửa sổ của nhà hàng xóm. Tôi lập tức lặng lẽ lẻn ra bao lơn, và nhẹ nhàng leo qua hàng rào cửa sắt ngăn hai phần toà nhà. Mặc dù tôi biết là có thể gặp nguy hiểm, hoặc là té gãy cổ, hoặc là giáp mặt với một người đàn ông, tôi vẫn không thấy lo ngại gì. Khi đến chỗ cửa sổ sáng đèn mà không gây ra tiếng động nhỏ nào, tôi thấy cửa mở một phần. Màn cửa, đối với tôi là hoàn toàn trong suốt vì tôi ở phía tối của cửa sổ, lại làm tôi không thể bị bất kỳ ai nhìn thấy khi nhìn về phía cửa sổ từ bên trong gian phòng.
Tôi thấy một gian phòng lớn được trang bị khá lịch sự, dù rõ ràng là không được sửa sang, và được chiếu sáng bởi một ngọn đèn treo trên trần. Ở cuối phòng là một chiếc ghế xô pha thấp, trên đó có một người phụ nữ đang ngồi, mà tôi cho là vừa trẻ vừa đẹp. Nàng xoã mái tóc vàng óng buông xuống bờ vai. Nàng đang soi mình bằng chiếc gương cầm tay, tự chiêm ngưỡng mình, cánh tay đưa lên trên làn môi, và uốn quanh cơ thể mềm mại với một vẻ duyên dáng lạ lùng của loài mèo. Mỗi cử động của nàng làm cho mái tóc dài lay động như sóng dập dờn loang loáng.
Khi tôi nhìn nàng tôi thừa nhận rằng tôi hơi chút bối rối, đặc biệt là khi bất ngờ đôi mắt của nàng đăm đắm nhìn tôi - đôi mắt lạ lùng có màu xanh lân tinh ánh lên như lửa đèn. Tôi chắc chắn rằng mình không bị nhìn thấy, vì ở phía tối của khung cửa sổ có treo màn. Đơn giản là vậy, nhưng tôi lại cảm thấy là tôi bị nhìn thấy. Cô gái, thực sự đã phát ra một tiếng kêu, rồi quay đi và vùi mặt vào mấy cái gối của ghế xô pha.
Tôi băng qua cửa sổ tiến đến ghế xô pha, cúi mình trên khuôn mặt nàng đang che giấu. Khi tôi làm thế, tôi thực sự cảm thấy rất hối hận, tôi bắt đầu xin lỗi và trách cứ mình bằng đủ loại tên, và xin lỗi về sự đường đột của mình. Tôi nói rằng tôi đáng bị đuổi đi không được nhìn nàng, nhưng xin đừng đuổi tôi đi mà không có một lời tha thứ. Trong một hồi lâu tôi van xin như thế mà không thành công, nhưng cuối cùng nàng chầm chậm quay lại, và tôi thấy khuôn mặt khá trẻ của nàng dường như xao động với một nụ cười thoảng qua. Khi nàng nhìn tôi, nàng thì thầm những lời lúc ấy tôi hoàn toàn không hiểu được.
“ Chính là anh”, nàng kêu lên, “ chính là anh “.
Trong khi nàng nói và tôi nhìn nàng, tôi không biết phải trả lời thế nào vì tôi cứ suy nghĩ miên man, tôi đã thấy khuôn mặt này, cái nhìn này, phong thái này ở đâu? Nhưng rồi tôi cũng nói thành lời, và sau khi nói thêm vài lời xin lỗi về sự tò mò vô lối của tôi, tôi nhận được sự trả lời ngắn gọn nhưng không phản kháng, tôi rời nàng, rút lui qua lối cửa sổ mà tôi đã vào, để trở về phòng mình. Về đến phòng, tôi ngồi một hồi lâu bên cửa sổ trong bóng tối, bị mê hoặc bởi khuôn mặt mà tôi đã nhìn thấy, lòng lo lắng khác thường.
Người phụ nữ này quá đẹp, quá dễ thương, sống gần tôi, nói với tôi “ Chính là anh “ , cứ như thể nàng đã quen tôi, nàng nói quá ít, trả lời mọi câu hỏi của tôi với sự lảng tránh, gợi lên trong tôi cảm giác sợ hãi. Nàng đã nói với tôi tên nàng : Linda, và chỉ có thế. Tôi cố gắng trong vô vọng quên đi đôi mắt xanh của nàng, mà trong bóng tối dường như chiếu về tôi, và quên cả ánh lấp lánh, như ánh loé của tia lửa điện, sáng lên nơi mái tóc dài của nàng mỗi khi nàng nâng niu nó trong tay. Tuy nhiên, cuối cùng tôi đi ngủ; nhưng vừa đặt đầu xuống gối thì tôi cảm thấy một cơ thể ở dưới chân tôi. Con mèo lại xuất hiện. Tôi cố xua nó đi, nhưng nó cứ quay lại, cho tới khi tôi bỏ mặc sự hiện diện của nó. Và y như trước, tôi thiếp ngủ với người bạn lạ lùng này bên cạnh tôi. Nhưng lần này giấc ngủ không yên, bị phá vỡ bởi những cơn mơ chập chờn và lạ lùng.
Quý vị đã bao giờ nghiệm thấy một loại ám ảnh tinh thần dần dần làm cho não bộ bị chế ngự bởi một ý tưởng lạ lùng độc nhất - một ý tưởng gần như điên khùng, cái ý tưởng mà lý trí và ý chí của quý vị, bám chặt vào trí óc của quý vị, và cứ phát triển mãi? Tôi đau đớn chịu đựng theo cách này vào những ngày tiếp theo cuộc phiêu lưu lạ lùng của tôi. Không có gì mới xảy ra, nhưng tối đến, khi ra ngoài bao lơn, tôi thấy Linda đứng bên phần nhà nàng, bên kia hàng rào sắt. Chúng tôi trò chuyện một lúc trong ánh sáng lờ mờ, và như trước đó, tôi trở về phòng mình để chốc lát sau lại thấy con mèo vàng xuất hiện, nhảy lên giường tôi, làm một tổ ấm cho mình ở đó, và ở lại cho đến sáng. Giờ thì tôi biết con mèo đó thuộc về ai, vì Linda đã trả lời ngay tối hôm đó khi tôi nhắc về nó, “ ồ phải, con mèo của em, có phải nó giống như làm bằng vàng không? “ Như tôi nói, không có gì mới xảy ra, tuy vậy một nỗi kinh hoàng mơ hồ từng chút từng chút một chế ngự tôi và tự phát triển trong trí tôi, mới đầu chỉ là một chút tưởng tượng ngớ ngẩn, và rồi trở thành một niềm tin ám ảnh thống lĩnh toàn bộ ý nghĩ của tôi, làm tôi thường xuyên nghĩ mình đã thấy được một chuyện mà trong đời thực hoàn toàn không thể nào thấy được.
“ Có gì đâu, cũng dễ đoán ra thôi mà “, cô nàng trẻ tuổi người đã lên tiếng ở đầu câu chuyện ngắt lời. “ Linda và con mèo là một”.
Ông Tribourdeaux mỉm cười.
“ Tôi không dám khẳng định như thế. “, ông nói, “ ngay cả hồi đó. Nhưng tôi không thể phủ nhận rằng sự tưởng tượng lố bịch này ám ảnh tôi nhiều giờ khi tôi đang cố chợp mắt giữa cơn mất ngủ vì một não bộ quá hoạt động gây ra.
Vâng, có những lúc hai sinh thể có mắt xanh này, cử động uyển chuyển này, tóc và lông vàng, đối với tôi dường như hoà thành một, là hai sự hiển thị của một thực thể. Như tôi đã nói, tôi thường thấy Linda, nhưng bất chấp những nỗ lực của tôi để bất ngờ gặp được nàng, tôi chưa hề thấy cả hai cùng lúc. Tôi cố lý giải, tự thuyết phục mình rằng thực sự không có gì không thể giải thích trong chuyện này, và tôi tự chế nhạo mình vì sợ cả một người phụ nữ lẫn con mèo vô hại. Sự thật là sau khi lý luận, tôi thấy rằng tôi không sợ nhiều lắm về một con vật độc nhất hay một người phụ nữ độc nhất, mà đúng hơn là sợ những gì tồn tại trong tưởng tượng của tôi và làm cho tôi sợ một điều gì đó vô hình - nỗi sợ về một ý tưởng mơ hồ, mà thực sự là điều tệ hại nhất trong mọi nỗi sợ hãi.
Tôi bắt đầu bị rối loạn thần kinh. Sau nhiều buổi tối dài tâm sự và rất trái với lệ thường cùng Linda, qua đó dần dần cảm xúc của tôi nhuốm màu tình yêu, tôi trải qua những ngày dài dằn vặt, như tâm trạng những người chớm điên phải trải qua. Dần dần một quyết tâm bắt đầu hình thành trong trí tôi, một nỗi ham muốn càng lúc càng thúc bách đòi hỏi một giải pháp cho sự nghi ngờ dằn vặt không dứt này. Và tôi càng quan tâm đến Linda thì càng cảm thấy hoàn toàn cần thiết hoàn thành quyết tâm này. Tôi quyết định giết con mèo.
Một buổi tối, trước khi gặp Linda ngoài bao lơn, tôi lấy từ tủ thuốc của tôi một lọ
glycérine và một chai nhỏ axit hydrocyanic cùng một que thuỷ tinh mà các nhà hoá học dùng để trộn những chất ăn mòn. Tối đó, lần đầu tiên Linda cho phép tôi vuốt ve nàng. Tôi ôm nàng trong vòng tay và lướt tay tôi trên mái tóc dài của nàng, mái tóc có tiếng lách tách với nhiều tia lấp lánh dưới bàn tay vuốt ve của tôi. Ngay khi tôi trở lại phòng mình thì con mèo vàng, như lệ thường, xuất hiện trước mặt tôi. Tôi gọi nó đến với tôi, nó cọ mình vào tôi với cái lưng uốn cong và cái đuôi vươn dài, gừ gừ thật dễ thương. Tôi cầm cái que thuỷ tinh trong tay, châm đầu que vào glycérine, rồi chìa nó cho con mèo, con vật liếm que bằng cái lưỡi dài và đỏ. Tôi làm như vậy ba bốn lần, nhưng sau đó thì nhúng que vào axit. Con mèo chẳng chút do dự dùng lưỡi liếm que. Ngay tức khắc, nó trở nên cứng nhắc, và một lúc sau, cơn co giật uốn ván làm nó bật lên không, rồi rơi xuống sàn với tiếng kêu thảm thiết - một tiếng kêu đích thực của con người. Nó đã chết.
Với mồ hôi bắt đầu toát ra trên trán, và với đôi bàn tay run run, tôi quỳ sụp trên nền nhà bên cạnh xác chết con mèo vẫn còn chưa lạnh. Đôi mắt đăm đăm một cái nhìn làm tôi điếng người vì kinh hoàng. Cái lưỡi đã hoá đen le ra giữa hàm răng, bốn chân co rút hiển lộ cơn đau đớn. Tôi lấy hết can đảm với nỗ lực dữ dội của ý chí, nắm lấy chân con vật và ra khỏi nhà. Vội vã đi xuống con đường vắng, tôi đi về phía bờ kè dọc sông Loire, và khi đến nơi, tôi ném gánh nặng của mình xuống sông. Tôi lang thang trong thành phố cho tới khi trời sáng, đi đâu tôi chẳng biết, và cứ thế cho tới khi trời bắt đầu mờ xanh rồi hồng lên ánh bình minh tôi mới có đủ can đảm trở về nhà. Khi tôi đặt tay lên cửa, tôi rùng mình. Tôi có nỗi sợ, như trong một truyện nổi tiếng của Poe, là thấy trong nhà vẫn còn sống con vật mà tôi mới làm cho chết. Nhưng không, gian phòng của tôi trống vắng. Tôi ngã mình mệt nhoài lên giường, và lần đầu tiên tôi ngủ với cảm giác hoàn toàn một mình, một giấc ngủ như của một con thú hay của một kẻ ám sát, cho tới khi đêm xuống .
Có người lên tiếng, phá vỡ sự im lặng khi chúng tôi đang nghe.
“ Tôi có thể đoán ra đoạn kết. Linda biến mất cùng con mèo.”
“ Cô đoán đúng lắm. Tribourdeaux trả lời, Trong những chi tiết của câu chuyện này có một sự trùng hợp lạ lùng, vì thế cô có thể đoán khá chính xác mối quan hệ giữa họ. Phải, Linda biến mất. Người ta thấy trong căn hộ của cô ấy, trang phục, đồ lạnh, thậm chí cả đồ ngủ mà cô ấy đã mặc đêm đó, nhưng không có gì có thể cung cấp một chi tiết sơ lược nhất về lý lịch của cô ấy. Chủ toà nhà đã cho người thuê căn hộ, “ Cô Linda - ca sĩ thính phòng” , ông ta không biết gì hơn. Tôi được cảnh sát triệu tập. Vào đêm cô ấy biến mất có người đã thấy tôi lang thang với vẻ mất trí ở khu vực bờ sông. May thay, viên thẩm phán quen tôi, lại may thay ông là người có trí thông minh không bình thường. Tôi kể riêng với ông ấy toàn bộ câu chuyện, y như tôi đang kể với quý vị. Ông ta huỷ bỏ cuộc thẩm vấn, tuy nhiên tôi có thể nói là có rất ít người tránh được một phiên toà hình sự với một lối thoát hẹp như tôi.
Sau một hồi lâu, sự im lặng của nhóm người nghe bị phá vỡ. Cuối cùng, một quý ông, để giải toả sự căng thẳng, kêu lên:
“ Thôi nào, ông bác sĩ, hãy nói thực đây là chuyện tưởng tượng, rằng ông chỉ muốn làm cho quý bà quý cô ở đây mất ngủ.”
Tribourdeaux khó nhọc cúi mình, ông không cười, mặt hơi tái.
“ Ngài có thể nghĩ vậy nếu muốn “, ông nói.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
( tháng 8/2023 )
Nguồn:
https://americanliterature.com/author/marcel-prevost/short-story/the-woman-and-the-cat