dimanche 10 juillet 2016
samedi 4 juin 2016
PAOLO COELHO
PAULO COELHO,
nhà văn có tác phẩm được đọc nhiều nhất thế giới.
Sinh năm 1947 tại Rio de Janeiro, Brazil, 40 tuổi mới viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên, Paulo Coelho được xem là nhà văn ( còn sống ) được đọc nhiều nhất thế giới: tuy số lượng tác phẩm đến nay chỉ trên 20 cuốn, nhưng đã phát hành đến 86 triệu bản tại 150 quốc gia, trong đó có nhiều cuốn luôn ở trong danh sách best-seller.
Tuổi thơ của Paulo Coelho được đánh dấu bởi những thái độ và hành động phản kháng: chống đối những ép buộc, gò bó của gia đình; chống đối kỷ luật nghiêm ngặt, hà khắc của trường dòng, nơi ông theo học. Bố ông là kỹ sư, rất mong con sẽ nối nghiệp mình, nhưng ngay khi mới mười lăm tuổi, ông đã bày tỏ ước nguyện muốn trở thành nhà văn. Mẹ ông rất ngạc nhiên ( và không hài lòng ) về điều này. “ Ba con là kỹ sư. Ông là người chuộng lẽ phải, biết lý luận, luôn có một cách nhìn thực tế về thế giới. Con có hiểu nhà văn thực sự là người thế nào không?” Sau khi tìm hiểu, ông tự giải đáp:
+ Nhà văn là người lúc nào cũng mang kính và không bao giờ chải đầu. Một nửa thời gian, nhà văn tỏ ra tức giận về mọi chuyện, một nửa khác thì thất vọng. Ông ta dành ra phần lớn cuộc đời mình nơi các quán rượu, tranh luận với các nhà văn khác, cũng tóc tai rối bù và mang kính. Ông ta luôn nói những điều “ sâu sắc”. Ông luôn có những ý tưởng lạ lùng cho cốt truyện của tác phẩm sắp tới của mình và ghét bỏ tác phẩm ông vừa xuất bản.
+ Nhà văn có nhiệm vụ là không bao giờ được thế hệ của mình hiểu được, tự cho là mình đã sinh ra vào một thời đại tầm thường, và tin rằng được người khác hiểu có nghĩa là đánh mất đi cơ hội được xem như là thiên tài. Nhà văn đọc lại và sửa lại mỗi câu mình viết rất nhiều lần. Vốn từ vựng của một người trung bình bao gồm 3.000 từ, một nhà văn thực thụ không bao giờ dùng đến từ nào trong số đó, bởi vì trong từ điển còn có tới 189.000 từ khác, và nhà văn không phải là người trung bình.
+ Nhà văn muốn nói điều gì thì chỉ những nhà văn khác mới hiểu được. Tuy vậy ông ta vẫn ghét tất cả những nhà văn khác vì họ lúc nào cũng dùng mánh khóe để giành lấy những khoảng trống do văn học sử từ nhiều thế kỷ để lại. Và như thế, nhà văn và những người đồng hạng với mình luôn cạnh tranh để giành giải thưởng “ cuốn sách phức tạp nhất “ và người thắng giải là người biết viết sao cho khó đọc nhất.
+ Khi được hỏi đang đọc gì, nhà văn luôn nhắc đến một cuốn sách mà chưa ai từng nghe nói đến.( … )
Nghe những lời này, bà mẹ lại càng ngạc nhiên hơn. “ Nhưng dù sao, làm kỹ sư dễ dàng hơn nhiều con ạ. Vả lại, con có mang kính đâu.” (1)
Lo ngại trước xu hướng có vẻ bất bình thường này, năm ông mười bảy tuổi,gia đình đưa ông vào điều trị tại một bệnh viện tâm thần. Ba lần ông tìm cách thoát khỏi nơi này và chỉ thực sự trở lại cuộc sống gia đình năm hai mươi tuổi. Về việc này, ông cho rằng: “ Cha mẹ tôi làm điều này không phải để tôi phải khổ, chẳng qua họ chẳng biết làm gì khác.Họ làm vậy không phải để hại tôi, mà để cứu tôi thôi.” Sau đó, để cha mẹ vui lòng, ông ghi tên học luật, nhưng chỉ một năm thì bỏ.
Năm 1970, 23 tuổi, Paulo Coelho du lịch sang các nước Peru, Bolivia, Chile, Mexico, rồi đến Châu Âu và Bắc Phi. Hai năm sau, ông về lại Brazil, tham gia tích cực vào phong trào hippie, lúc này đang phát triển mạnh.(2) Ông gặp Raul Seixas và trở thành người viết ca từ cho nhà soạn nhạc và ca sĩ nổi tiếng này. Trong nhiều năm, cả hai đã làm dấy lên phong trào nhạc rock và gây được tiếng vang lớn. Thời gian này, ông làm quen và chẳng bao lâu kết hôn với họa sĩ Cristine. Cuộc đời nhiều biến động của Paulo Coelho lại ghi thêm một sự kiện đáng nhớ: do tham gia nhiều tổ chức văn hóa nghệ thuật, năm 1974, ông bị bắt giam vì bị cho là có nhiều hoạt động nhằm lật đổ chế độ độc tài Brazil, may nhờ hồ sơ ghi lại những năm ở bệnh viện tâm thần nên ông sớm được thả. Sau đó, ông tham gia viết bài cho các tạp chí ca nhạc, cho đến năm 1978, không chịu nổi nhịp sống nhàm chán, ông bỏ việc và bỏ luôn cả vợ, để trở lại Châu Âu du lịch. Ông dừng chân tại Hà Lan, Pháp, Tây Ban Nha, và trên con đường hành hương Compostelle ông quyết định trở thành tín đồ đạo Cơ đốc và bắt đầu chú tâm hơn vào việc thực hiện ước mơ trở thành nhà văn mà ông hằng ấp ủ từ hồi nhỏ. Tất cả những trải nghiệm này được ông thuật lại trong “Người hành hương”, cuốn sách đầu tiên của ông, xuất bản năm 1987. Một năm sau, ông viết cuốn Nhà Giả Kim, ban đầu chỉ phát hành 900 bản tại một nhà xuất bản nhỏ ở Brazil, ít lâu sau, ông giao cho một nhà xuất bản khác và nhanh chóng sách được đón nhận nồng nhiệt, không những chỉ ở trong nước mà trên khắp thế giới. Tính đến nay đã có 65 triệu bản, được dịch ra 71 ngôn ngữ, mới nhất là bản dịch sang tiếng Malta, một đảo quốc ở Địa trung Hải.(3)
Nhà Giả Kim là câu chuyện đầy ẩn dụ về cuộc phiêu lưu của chàng trai trẻ Santiago. Trong khi bố mẹ cậu kỳ vọng cậu trở thành linh mục thì Santiago chọn làm người chăn cừu để thực hiện được mơ ước được chu du đây đó. Cậu thường mơ thấy một đứa bé dẫn cậu đến chân Kim tự tháp và bảo rằng nơi đây chôn giấu một kho báu lớn. Cậu tìm đến một người giải mộng và được trả lời: “ Giấc mơ là ngôn ngữ của Chúa. Nếu Người nói bằng ngôn ngữ thế gian thì ta giải được. Nhưng nếu Người nói bằng ngôn ngữ của tâm linh thì chỉ mình cậu có thể hiểu được thôi.” Cậu quyết định từ bỏ đàn cừu đã gắn bó với mình lâu nay để lên đường tìm sang Ai Cập.. Trên bước đường phiêu lưu đầy khó khăn, trắc trở, chàng đã làm nhiều việc, gặp nhiều người và chuyện trò với mỗi người để dần dần tự giải được giấc mơ của chính mình. Khi đến một ốc đảo, cậu được khuyên nên dừng chân bởi phía trước cậu là chiến tranh giữa các bộ tộc. Rồi cậu gặp Fatima, cô gái trên sa mạc và đem lòng yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chàng vấp phải một sự lựa chọn nghiệt ngã: Ở lại với tình yêu hay tiếp tục lên đường thực hiện ước mơ? Cậu quyết định tạm biệt người yêu và đi tiếp cuộc hành trình đầy gian nan. Dọc suốt chặng đường dài trước mặt, cậu chiêm nghiệm được nhiều điều:
“ Sự thật lớn lao trên hành tinh này chính là: Bất kể anh là ai, bất luận anh làm gì, khi anh thực tâm mong muốn điều gì thì đó là điều xuất phát từ cõi Tâm linh Vũ trụ. Đó là sứ mệnh của anh trong cuộc đời.” “ Nhiệm vụ duy nhất của mỗi chúng ta là thực hiện sứ mệnh của mình… Khi anh thực sự mong muốn điều gì thì toàn vũ trụ sẽ chung sức giúp anh đạt được điều đó.”
“ Hãy lắng nghe trái tim mình. Nó biết mọi điều vì nó đến từ Tâm linh Vũ trụ và một ngày kia sẽ trở về đó.” “ Trái tim anh ở đâu thì kho báu anh tìm cũng ở đó.”Và chàng đã lắng nghe lời của trái tim: “Ai ai trên trái đất cũng đều có một kho báu chờ đợi mình. Chúng tôi, trái tim loài người, ít khi nói về những kho báu này vì người ta không còn muốn đi tìm chúng nữa.Chúng tôi thường chỉ nói về chúng với trẻ con thôi. Sau đó, chúng tôi để cho cuộc đời hướng dẫn mỗi người đến với số phận của mình. Song tiếc thay rất ít người đi theo con đường tiền định, con đường dẫn đến sứ mệnh và hạnh phúc.”
Khi đến được dưới chân Kim tự tháp, cậu ra sức đào nhưng chẳng thấy vàng ở đâu cả mà còn bị một nhóm người lạ mặt đánh đập và cướp mất tiền trong túi. Khi cậu thú nhận là do nằm mơ nên mới tới đây đào tìm kho báu, một tên cho biết: " Hai năm trước, ngay chính chỗ này, tao cũng đã nhiều lần mơ rằng tao phải đi Tây Ban Nha, tìm một ngôi nhà thờ làng đã sụp đổ, nơi lũ chăn cừu thường đến ngủ với đàn cừu, ở đó có một cây sung mọc nơi nhà kho đồ lễ và nếu đào xuống dưới gốc cây sung thì sẽ tìm thấy kho báu giấu bên dưới.Tao đâu có ngu để chỉ vì đã hai lần mơ như thế mà vượt sa mạc."
Thật lạ lùng, ngôi nhà thờ nhỏ mà bọn cướp nhắc đến chính là nơi mà Santiago vẫn thường dừng chân nghỉ ngơi với đàn cừu thuở trước. Cậu quay về chốn cũ và tìm được kho báu ngay tại nơi này. Vậy là kho báu ở ngay trong tầm tay nhưng nếu Santiago không can đảm, quyết tâm từ bỏ tất cả để tự giải mã giấc mơ của mình thì cậu sẽ không bao giờ có được tình yêu, hạnh phúc và thỏa nguyện.
Với lối dẫn chuyện nhẹ nhàng, giản dị, thông qua những tình tiết ly kỳ như truyện cổ tích, Paulo Coelho đã mang đến cho người đọc một thông điệp về ý nghĩa cuộc sống: hãy biết ước mơ, lắng nghe trái tim mình để quyết tâm biến ước mơ thành hiện thực.(4) Tiểu thuyết viết với nhiều ẩn dụ, ẩn ngữ này khiến người đọc liên tưởng đến hai tác phẩm khác cũng đã rất nổi tiếng trước đó: Le Petit Prince của St Exupéry (5) và The Prophet của Khalil Gibran (6).
Nhiều hình ảnh, nhiều ý tưởng trong Nhà Giả Kim ( như tiếng nói của trái tim, bài học từ sa mạc, con người tự tìm cách để thực hiện “ truyền thuyết cá nhân “ của mình… ) được Paulo Coelho tiếp tục khai thác trong những tác phẩm viết sau này.
Người đọc quen thuộc với không khí ảo mộng, cốt truyện thần kỳ và văn phong trong trẻo của Nhà Giả Kim sẽ thấy hoàn toàn bất ngờ khi đọc đến 11 phút ( 2002 ).Ý nghĩa của nhan đề này là gì? Đấy là thời gian mà một cô gái làng chơi phải mất cho mỗi người khách của mình! ( “ Sự thực là chỉ bốn mươi lăm phút và nếu trừ đi thời gian để cởi quần áo, làm một cử chỉ âu yếm giả vờ , trao đổi vài mẩu chuyện chẳng thú vị gì và mặc lại quần áo, thì thời gian thực tế để làm chuyện ấy chỉ có 11 phút.”) Như vậy là tiểu thuyết 11 phút hẳn là viết về đề tài “ nhạy cảm” này. Paulo Coelho không ngần ngại nói thẳng từ những dòng bắt đầu truyện :
"Ngày xửa ngày xưa, có một cô gái làng chơi tên là Maria. Mà khoan đã. “ Ngày xửa ngày xưa” là cách mở đầu một câu chuyện dành cho trẻ em , còn “gái làng chơi” là ngôn ngữ người lớn. Làm sao có thể bắt đầu một cuốn sách với một mâu thuẫn rõ ràng như vậy được? Nhưng xét cho cùng, bởi vì trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời, chúng ta đều đặt một chân trong truyện cổ tích và chân kia trong vực thẳm, vậy thì hãy cứ giữ câu mở đầu như vậy.
Ngày xửa ngày xưa, có một cô gái làng chơi tên là Maria. Như tất cả cô gái làng chơi khác, Maria sinh ra trong trắng, ngây thơ, và vào tuổi mới lớn, cô từng mơ ước sẽ gặp được người đàn ông của đời mình ( giàu có, đẹp trai, thông minh ), kết hôn với anh ta ( mặc bộ áo cưới ), có với anh hai đứa con ( sẽ nổi tiếng ), cùng ở trong căn nhà xinh ( có hướng nhìn ra biển ) ..."
Maria sớm kiếm việc làm tại một cửa hàng vải, và cuộc phiêu lưu bắt đầu khi cô đi nghỉ mát tại bãi biển Copacabana, một người đàn ông Thuỵ Sĩ mời cô sang nước ông làm nghệ sĩ múa samba và hứa hẹn một cuộc sống tươi đẹp với lương cao, danh tiếng và cơ hội khám phá một chân trời mới tại một thành phố xinh đẹp, trên một đất nước xa lạ cô chưa hề nghe đến tên, khác hẳn với làng quê nghèo nàn của cô. Maria tưởng chừng câu chuyện cổ tích của đời mình đã bắt đầu, nhưng thực tế hoàn toàn khác. Từ mơ ước bước vào vùng ánh sáng chan hoà, cô bị đẩy vào nơi tối tăm sâu thẳm nhất: phải hành nghề mại dâm với những ràng buộc nghiệt ngã, phải tôn trọng giá cả đã định, tránh xa ma tuý và nhất là không được yêu đương vớ vẩn. Vậy mà Maria là một cô gái luôn khao khát tình yêu, từ lúc mới 11 tuổi, cô đã thấy rung động khi trên đường đi học một bạn trai cùng trường đến hỏi mượn cây bút chì, cô không trả lời để rồi về nhà ân hận vì thái độ của mình và mấy hôm sau muốn chuộc lại lỗi lầm nhưng không còn cơ hội, bạn ấy đã chuyển trường bỏ đi. Cô chấp nhận trở thành gái bán hoa và chịu khó học hỏi, kiến thức và kinh nghiệm, thủ đoạn và mánh lới, để làm vừa lòng đủ loại khách hàng. Bao nhiêu đàn ông đã đến với cô nhưng không ai mang lại cho cô cảm giác yêu thương hay khoái lạc, vì trong sâu thẳm tâm hồn cô, giấc mơ sẽ yêu và sẽ được yêu vẫn như một ngọn lửa âm ỉ cháy. Cho đến khi Ralf xuất hiện, mang theo ngọn gió ấm áp của tình yêu đích thực thì cô mới thoát khỏi những ám ảnh tội lỗi xấu xa của tình dục để đến với thiên đường của mơ ước, của tình yêu trong sáng và hạnh phúc lứa đôi.
" Làm sao anh lại có thể yêu một cô gái điếm thế?
Lúc đầu anh cũng không hiểu rõ. Nhưng bây giờ, anh đã suy nghĩ kỹ về điều đó, anh nghĩ rằng vì anh biết thân thể em không bao giờ thuộc về một mình anh, nên anh phải tập trung vào việc chinh phục tâm hồn em..."
Maria lẳng lặng bỏ đi, như để thử thách người khách muốn làm người tình này - và thử thách chính mình- nào hay Ralf cũng lẳng lặng tìm theo cô, cuộc gặp bất ngờ tại Paris đủ để khẳng định sức mạnh của tình yêu.
Tuy có những trang mô tả cảnh làm tình, viết bằng một giọng văn trần trụi dữ dội, 11 phút không hề là một truyện khiêu dâm, ngược lại chỉ là một tiểu thuyết thắm đẫm tính nhân văn, cho thấy tình yêu khi được thăng hoa sẽ biến thành lẽ sống.
" Không thể thay đổi một con người bằng tri thức, thứ duy nhất có thể làm thay đổi tâm trí một con người là tình yêu." (7)
Một tác phẩm nổi tiếng khác của Paulo Coelho là Như dòng sông đang chảy, không phải là tiểu thuyết, nhưng không biết xếp vào thể loại gì, vừa như tuỳ bút, vừa như truyện ngắn, tạm gọi là tản văn. Đây là tập hợp 101 bài viết ông đã đăng trong nhiều nhật báo và tạp chí khắp nơi trên thế giới từ năm 1998 đến năm 2005. Chuyện kể về lẽ sống, cái chết, về định mệnh, số phận, về tình yêu lỡ mất và tìm thấy lại..., giọng văn có khi hài hước, có khi nghiêm túc, nhưng lúc nào cũng thâm trầm sâu sắc. Viết đăng báo nên bài ngắn nhất chỉ dăm bảy dòng, dài nhất là hai ba trang. Chú trọng đến nội dung, Paulo Coelho không cần gợi trí tò mò của độc giả bằng những cái tít giật gân. Có khi chỉ là một địa danh, nơi ông đến: Prague 1981; Copacabana, Rio de Janeiro ; Jordan, Biển Chết, 21 tháng 6,2003; Tại hải cảng Miami; có khi chỉ là một thời điểm: Một ngày tháng 1,2005; một nhân vật: Nhạc phụ của tôi, Christiano Oiticica; và hầu hết đều ngắn gọn: Đám tang của tôi; Một câu chuyện cổ tích; Sách và thư viện; Một mình trên đường v.v. Đọc Như dòng sông đang chảy (8) ta như bắt gặp bản tóm tắt những giai đoạn của cuộc đời sống động của tác giả, nhiều trắc trở lắm gian truân mà không thiếu những lắng đọng trầm tư.
Đằng sau hình ảnh một nhà văn ẩn giấu bóng dáng một con người ham đọc sách, ưa du lịch, say mê âm nhạc, thể thao. Mỗi ngày bình thường của Paulo Coelho bắt đầu từ việc thức dậy rất sớm, đi dạo hai tiếng đồng hồ, xong rồi lấy một trong ba chiếc cung sẵn có bắn ra hai mươi bốn mũi tên. Việc bắn cung này là thực hiện Cung đạo, một môn thể thao - võ thuật của người Nhật ( Kyudo ), không chỉ đơn thuần là tập bắn cung sao cho chính xác mà còn giúp cho người luyện tập rèn luyện phẩm chất, sức mạnh tinh thần, sự am hiểu, và lòng kính trọng giữa người với người. Mục tiêu phải đạt được chính là mục tiêu nội tại nằm trong trái tim của ý chí hơn là cái mục tiêu bên ngoài. Ông đã viết cuốn Phương thức của cây cung, trình bày và giải thích tỉ mỉ về cây cung ( là cuộc sống, cội nguồn của tất cả năng lực ), mũi tên ( là ý chí ), mục tiêu, tư thế, cầm mũi tên như thế nào, cách nắm giữ cây cung, cách giương cung, nhìn vào mục tiêu như thế nào... Cung đạo không chỉ là một môn thể thao mà là cả một triết lý.
" Một lời nguyện cầu không có hành động cũng như một mũi tên không có cây cung.
Một hành động không có nguyện cầu cũng như một cây cung không có mũi tên".
" Khi người bắn cung giương cung lên, anh ta có thể thấy cả thế giới trong cây cung của mình. Khi anh ta theo dõi đường bay của mũi tên, cái thế giới ấy đến gần anh ta hơn, vuốt ve anh ta và cho anh ta một cảm giác mãn nguyện của việc hoàn thành nhiệm vụ.
Là người chiến binh của ánh sáng, một khi đã thực hiện nhiệm vụ và chuyển hoá ý định của mình thành động tác, thì anh ta không còn sợ gì nữa: anh ta đã làm những gì nên làm. Anh ta không để mình bị tê liệt vì sợ hãi. Thậm chí nếu mũi tên không chạm vào mục tiêu, anh ta sẽ có một cơ hội khác, bởi vì anh ta không thoả hiệp với sự hèn nhát." (9)
Thời gian cầm bút của Paulo Coelho cho đến nay tuy chưa tới 30 năm nhưng cũng đủ để ông thu hút được hàng chục triệu người đọc thuộc nhiều tầng lớp, nhiều nền văn hóa hoàn toàn khác biệt. Sự thành công này chủ yếu dựa vào các tác phẩm đầy tính nhân văn, lấy nguồn cảm hứng từ những trải nghiệm cuộc sống phong phú của ông, được viết một văn phong nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu, dễ dịch. Đã rất nổi tiếng, đạt được nhiều giải thưởng giá trị, là thành viên Hàn lâm viện Văn học của Brazil từ 2002, vậy mà ngay trên quê hương của mình, ông thường bị công kích là thiếu sáng tạo, quảng cáo rầm rộ mỗi lần ra sách mới và thậm chí là có khi viết sai ngữ pháp! Quen nghe những lời này, ông chỉ đáp lại là đối với ông, ông chỉ cần quan tâm tới việc sách của ông đang được đông đảo bạn đọc đón nhận.
“ Tôi nghĩ là nhà văn cứ việc viết, nhà phê bình thì bình phẩm còn độc giả thì đọc sách. Còn chuyện sách của tôi giản dị, tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến các nhà phê bình. Viết giản dị là điều khó khăn nhất.”
Hiện nay, Paulo Coelho vẫn còn sáng tác, sách mới của ông đều được dịch và được các nhà xuất bản nổi tiếng phát hành, ở Mỹ, NXB HarperCollins, ở Pháp, NXB Flammarion, và được bán trên mạng internet qua kênh Kindle. Độc giả khắp nơi trên thế giới vẫn chờ đón tác phẩm mới của ông.
THÂN TRỌNG SƠN
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Trích lời tựa cuốn Như dòng sông đang chảy.
Hippie là một thuật ngữ dùng để chỉ một văn hóa lối sống của thanh niên, phát sinh từ một phong trào tại Hoa Kỳ từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX và sau đó lan rộng sang các nước khác trên thế giới. Với biểu hiện bên ngoài qua tóc tai, quần áo, thanh niên hippie bày tỏ sự chối bỏ những giá trị truyền thống, những gì đã được xã hội áp đặt, để tuân theo những tư tưởng về hòa bình và tự do. Phong trào có ảnh hưởng lớn về văn hóa, đặc biệt là lĩnh vực âm nhạc.
Theo : http://en.wikipedia.org/wiki/Paulo_Coelho
Phần trích dịch trong đoạn này dựa vào bản tiếng Pháp : l’Alchimiste, Jean Oreccchioni, NXB Flammarion, 1996.
Le Petit Prince, tác phẩm của nhà văn ( nhà thơ) Pháp - Saint- Exupéry 1900- 1944. Thường được dịch là Hoàng tử bé, vẻ bên ngoài như truyện trẻ em, thực ra mang tính triết lý, ẩn chứa nhiều quan niệm về cuộc sống.
6. The Prophet, tác phẩm của Khalil Gibran ( sách tiếng Anh viết Kahlil ) - 1883-1931, nhà thơ ( hoạ sĩ ), người gốc Liban. Thường được dịch là Nhà tiên tri ( tác giả Nguyễn Ước dịch là Ngôn sứ ), gồm 26 câu hỏi và lời giải đáp về những vấn đề lớn của cuộc sống như tình yêu, hôn nhân, tình bạn, tôn giáo, cái đẹp, tội ác và trừng phạt, tự do, luật pháp... Xuất bản lần đầu tiên năm 1923, tác phẩm này đã được tái bản hàng trăm lần và được dịch ra trên 40 ngôn ngữ.
7. Phần trích dịch trong đoạn này dựa vào bản tiếng Pháp: Onze minutes của Françoise Marchand- Sauvagnargues.
8. Like the Flowing River, English translation by Margaret Jull Costa, NXB Madison Park Press, New York, 2006.
9. The Way of the Bow. Trong cuốn " Như dòng sông đang chảy " có một bài cùng tên, trích một đoạn trong sách này.
http://chimvie3.free.fr/52/thantrongson_PauloCoelho.htm
http://khoahocnet.com/2013/07/30/than-trong-son-paulo-coelho-nha-van-co-tac-pham-duoc-doc-nhieu-nhat-the-gioi/
samedi 28 mai 2016
President Obama
The White House
Office of the Press Secretary
For Immediate ReleaseMay 24, 2016
Remarks by President Obama in Address to the People of Vietnam
National Convention Center
Hanoi, Vietnam
12:11 P.M. ICT
PRESIDENT OBAMA: Xin chào! (Applause.) Xin chào Vietnam! (Applause.) Thank you. Thank you so much. To the government and the people of Vietnam, thank you for this very warm welcome and the hospitality that you have shown to me on this visit. And thank all of you for being here today. (Applause.) We have Vietnamese from across this great country, including so many young people who represent the dynamism, and the talent and the hope of Vietnam.
On this visit, my heart has been touched by the kindness for which the Vietnamese people are known. In the many people who have been lining the streets, smiling and waving, I feel the friendship between our peoples. Last night, I visited the Old Quarter here in Hanoi and enjoyed some outstanding Vietnamese food. I tried some Bún Chả. (Applause.) Drank some bia Ha Noi. But I have to say, the busy streets of this city, I’ve never seen so many motorbikes in my life. (Laughter.) So I haven’t had to try to cross the street so far, but maybe when I come back and visit you can tell me how.
I am not the first American President to come to Vietnam in recent times. But I am the first, like so many of you, who came of age after the war between our countries. When the last U.S. forces left Vietnam, I was just 13 years old. So my first exposure to Vietnam and the Vietnamese people came when I was growing up in Hawaii, with its proud Vietnamese American community there.
At the same time, many people in this country are much younger than me. Like my two daughters, many of you have lived your whole lives knowing only one thing -- and that is peace and normalized relations between Vietnam and the United States. So I come here mindful of the past, mindful of our difficult history, but focused on the future -- the prosperity, security and human dignity that we can advance together.
I also come here with a deep respect for Vietnam’s ancient heritage. For millennia, farmers have tended these lands -- a history revealed in the Dong Son drums. At this bend in the river, Hanoi has endured for more than a thousand years. The world came to treasure Vietnamese silks and paintings, and a great Temple of Literature stands as a testament to your pursuit of knowledge. And yet, over the centuries, your fate was too often dictated by others. Your beloved land was not always your own. But like bamboo, the unbroken spirit of the Vietnamese people was captured by Ly Thuong Kiet -- “the Southern emperor rules the Southern land. Our destiny is writ in Heaven’s Book.”
Today, we also remember the longer history between Vietnamese and Americans that is too often overlooked. More than 200 years ago, when our Founding Father, Thomas Jefferson, sought rice for his farm, he looked to the rice of Vietnam, which he said had “the reputation of being whitest to the eye, best flavored to the taste, and most productive.” Soon after, American trade ships arrived in your ports seeking commerce.
During the Second World War, Americans came here to support your struggle against occupation. When American pilots were shot down, the Vietnamese people helped rescue them. And on the day that Vietnam declared its independence, crowds took to the streets of this city, and Ho Chi Minh evoked the American Declaration of Independence. He said, “All people are created equal. The Creator has endowed them with inviolable rights. Among these rights are the right to life, the right to liberty, and the right to the pursuit of happiness.”
In another time, the profession of these shared ideals and our common story of throwing off colonialism might have brought us closer together sooner. But instead, Cold War rivalries and fears of communism pulled us into conflict. Like other conflicts throughout human history, we learned once more a bitter truth -- that war, no matter what our intentions may be, brings suffering and tragedy.
At your war memorial not far from here, and with family altars across this country, you remember some 3 million Vietnamese, soldiers and civilians, on both sides, who lost their lives. At our memorial wall in Washington, we can touch the names of 58,315 Americans who gave their lives in the conflict. In both our countries, our veterans and families of the fallen still ache for the friends and loved ones that they lost. Just as we learned in America that, even if we disagree about a war, we must always honor those who serve and welcome them home with the respect they deserve, we can join together today, Vietnamese and Americans, and acknowledge the pain and the sacrifices on both sides.
More recently, over the past two decades, Vietnam has achieved enormous progress, and today the world can see the strides that you have made. With economic reforms and trade agreements, including with the United States, you have entered the global economy, selling your goods around the world. More foreign investment is coming in. And with one of the fastest-growing economies in Asia, Vietnam has moved up to become a middle-income nation.
We see Vietnam’s progress in the skyscrapers and high-rises of Hanoi and Ho Chi Minh City, and new shopping malls and urban centers. We see it in the satellites Vietnam puts into space and a new generation that is online, launching startups and running new ventures. We see it in the tens of millions of Vietnamese connected on Facebook and Instagram. And you’re not just posting selfies -- although I hear you do that a lot -- (laughter) -- and so far, there have been a number of people who have already asked me for selfies. You’re also raising your voices for causes that you care about, like saving the old trees of Hanoi.
So all this dynamism has delivered real progress in people’s lives. Here in Vietnam, you’ve dramatically reduced extreme poverty, you've boosted family incomes and lifted millions into a fast-growing middle class. Hunger, disease, child and maternal mortality are all down. The number of people with clean drinking water and electricity, the number of boys and girls in school, and your literacy rate -- these are all up. This is extraordinary progress. This is what you have been able to achieve in a very short time.
And as Vietnam has transformed, so has the relationship between our two nations. We learned a lesson taught by the venerable Thich Nhat Hanh, who said, “In true dialogue, both sides are willing to change.” In this way, the very war that had divided us became a source for healing. It allowed us to account for the missing and finally bring them home. It allowed us to help remove landmines and unexploded bombs, because no child should ever lose a leg just playing outside. Even as we continue to assist Vietnamese with disabilities, including children, we are also continuing to help remove Agent Orange -- dioxin -- so that Vietnam can reclaim more of your land. We're proud of our work together in Danang, and we look forward to supporting your efforts in Bien Hoa.
Let’s also not forget that the reconciliation between our countries was led by our veterans who once faced each other in battle. Think of Senator John McCain, who was held for years here as a prisoner of war, meeting General Giap, who said our countries should not be enemies but friends. Think of all the veterans, Vietnamese and American, who have helped us heal and build new ties. Few have done more in this regard over the years than former Navy lieutenant, and now Secretary of State of the United States, John Kerry, who is here today. And on behalf of all of us, John, we thank you for your extraordinary effort. (Applause.)
Because our veterans showed us the way, because warriors had the courage to pursue peace, our peoples are now closer than ever before. Our trade has surged. Our students and scholars learn together. We welcome more Vietnamese students to America than from any other country in Southeast Asia. And every year, you welcome more and more American tourists, including young Americans with their backpacks, to Hanoi’s 36 Streets and the shops of Hoi An, and the imperial city of Hue. As Vietnamese and Americans, we can all relate to those words written by Van Cao -- “From now, we know each other’s homeland; from now, we learn to feel for each other.”
As President, I’ve built on this progress. With our new Comprehensive Partnership, our governments are working more closely together than ever before. And with this visit, we’ve put our relationship on a firmer footing for decades to come. In a sense, the long story between our two nations that began with Thomas Jefferson more than two centuries ago has now come full circle. It has taken many years and required great effort. But now we can say something that was once unimaginable: Today, Vietnam and the United States are partners.
And I believe our experience holds lessons for the world. At a time when many conflicts seem intractable, seem as if they will never end, we have shown that hearts can change and that a different future is possible when we refuse to be prisoners of the past. We've shown how peace can be better than war. We've shown that progress and human dignity is best advanced by cooperation and not conflict. That’s what Vietnam and America can show the world.
Now, America’s new partnership with Vietnam is rooted in some basic truths. Vietnam is an independent, sovereign nation, and no other nation can impose its will on you or decide your destiny. (Applause.) Now, the United States has an interest here. We have an interest in Vietnam’s success. But our Comprehensive Partnership is still in its early stages. And with the time I have left, I want to share with you the vision that I believe can guide us in the decades ahead.
First, let’s work together to create real opportunity and prosperity for all of our people. We know the ingredients for economic success in the 21st century. In our global economy, investment and trade flows to wherever there is rule of law, because no one wants to pay a bribe to start a business. Nobody wants to sell their goods or go to school if they don’t know how they're going to be treated. In knowledge-based economies, jobs go to where people have the freedom to think for themselves and exchange ideas and to innovate. And real economic partnerships are not just about one country extracting resources from another. They’re about investing in our greatest resource, which is our people and their skills and their talents, whether you live in a big city or a rural village. And that’s the kind of partnership that America offers.
As I announced yesterday, the Peace Corps will come to Vietnam for the first time, with a focus on teaching English. A generation after young Americans came here to fight, a new generation of Americans are going to come here to teach and build and deepen the friendship between us. (Applause.) Some of America’s leading technology companies and academic institutions are joining Vietnamese universities to strengthen training in science, technology, engineering, mathematics, and medicine. Because even as we keep welcoming more Vietnamese students to America, we also believe that young people deserve a world-class education right here in Vietnam.
It's one of the reasons why we're very excited that this fall, the new Fulbright University Vietnam will open in Ho Chi Minh City -- this nation’s first independent, non-profit university -- where there will be full academic freedom and scholarships for those in need. (Applause.) Students, scholars, researchers will focus on public policy and management and business; on engineering and computer science; and liberal arts -- everything from the poetry of Nguyen Du, to the philosophy of Phan Chu Trinh, to the mathematics of Ngo Bao Chau.
And we're going to keep partnering with young people and entrepreneurs, because we believe that if you can just access the skills and technology and capital you need, then nothing can stand in your way -- and that includes, by the way, the talented women of Vietnam. (Applause.) We think gender equality is an important principle. From the Trung Sisters to today, strong, confident women have always helped move Vietnam forward. The evidence is clear -- I say this wherever I go around the world -- families, communities and countries are more prosperous when girls and women have an equal opportunity to succeed in school and at work and in government. That's true everywhere, and it's true here in Vietnam. (Applause.)
We’ll keep working to unleash the full potential of your economy with the Trans-Pacific Partnership. Here in Vietnam, TPP will let you sell more of your products to the world and it will attract new investment. TPP will require reforms to protect workers and rule of law and intellectual property. And the United States is ready to assist Vietnam as it works to fully implement its commitments. I want you to know that, as President of the United States, I strongly support TPP because you'll also be able to buy more of our goods, “Made in America.”
Moreover, I support TPP because of its important strategic benefits. Vietnam will be less dependent on any one trading partner and enjoy broader ties with more partners, including the United States. (Applause.) And TPP will reinforce regional cooperation. It will help address economic inequality and will advance human rights, with higher wages and safer working conditions. For the first time here in Vietnam, the right to form independent labor unions and prohibitions against forced labor and child labor. And it has the strongest environmental protections and the strongest anti-corruption standards of any trade agreement in history. That’s the future TPP offers for all of us, because all of us -- the United States, Vietnam, and the other signatories -- will have to abide by these rules that we have shaped together. That's the future that is available to all of us. So we now have to get it done -- for the sake of our economic prosperity and our national security.
This brings me to the second area where we can work together, and that is ensuring our mutual security. With this visit, we have agreed to elevate our security cooperation and build more trust between our men and women in uniform. We’ll continue to offer training and equipment to your Coast Guard to enhance Vietnam’s maritime capabilities. We will partner to deliver humanitarian aid in times of disaster. With the announcement I made yesterday to fully lift the ban on defense sales, Vietnam will have greater access to the military equipment you need to ensure your security. And the United States is demonstrating our commitment to fully normalize our relationship with Vietnam. (Applause.)
More broadly, the 20th century has taught all of us -- including the United States and Vietnam -- that the international order upon which our mutual security depends is rooted in certain rules and norms. Nations are sovereign, and no matter how large or small a nation may be, its sovereignty should be respected, and it territory should not be violated. Big nations should not bully smaller ones. Disputes should be resolved peacefully. (Applause.) And regional institutions, like ASEAN and the East Asia Summit, should continue to be strengthened. That’s what I believe. That's what the United States believes. That’s the kind of partnership America offers this region. I look forward to advancing this spirit of respect and reconciliation later this year when I become the first U.S. President to visit Laos.
In the South China Sea, the United States is not a claimant in current disputes. But we will stand with partners in upholding core principles, like freedom of navigation and overflight, and lawful commerce that is not impeded, and the peaceful resolution of disputes, through legal means, in accordance with international law. As we go forward, the United States will continue to fly, sail and operate wherever international law allows, and we will support the right of all countries to do the same. (Applause.)
Even as we cooperate more closely in the areas I’ve described, our partnership includes a third element -- addressing areas where our governments disagree, including on human rights. I say this not to single out Vietnam. No nation is perfect. Two centuries on, the United States is still striving to live up to our founding ideals. We still deal with our shortcomings -- too much money in our politics, and rising economic inequality, racial bias in our criminal justice system, women still not being paid as much as men doing the same job. We still have problems. And we're not immune from criticism, I promise you. I hear it every day. But that scrutiny, that open debate, confronting our imperfections, and allowing everybody to have their say has helped us grow stronger and more prosperous and more just.
I’ve said this before -- the United States does not seek to impose our form of government on Vietnam. The rights I speak of I believe are not American values; I think they're universal values written into the Universal Declaration of Human Rights. They're written into the Vietnamese constitution, which states that “citizens have the right to freedom of speech and freedom of the press, and have the right of access to information, the right to assembly, the right to association, and the right to demonstrate.” That’s in the Vietnamese constitution. (Applause.) So really, this is an issue about all of us, each country, trying to consistently apply these principles, making sure that we -- those of us in government -- are being true to these ideals.
In recent years, Vietnam has made some progress. Vietnam has committed to bringing its laws in line with its new constitution and with international norms. Under recently passed laws, the government will disclose more of its budget and the public will have the right to access more information. And, as I said, Vietnam has committed to economic and labor reforms under the TPP. So these are all positive steps. And ultimately, the future of Vietnam will be decided by the people of Vietnam. Every country will chart its own path, and our two nations have different traditions and different political systems and different cultures. But as a friend of Vietnam, allow me to share my view -- why I believe nations are more successful when universal rights are upheld.
When there is freedom of expression and freedom of speech, and when people can share ideas and access the Internet and social media without restriction, that fuels the innovation economies need to thrive. That's where new ideas happen. That's how a Facebook starts. That's how some of our greatest companies began -- because somebody had a new idea. It was different. And they were able to share it. When there’s freedom of the press -- when journalists and bloggers are able to shine a light on injustice or abuse -- that holds officials accountable and builds public confidence that the system works. When candidates can run for office and campaign freely, and voters can choose their own leaders in free and fair elections, it makes the countries more stable, because citizens know that their voices count and that peaceful change is possible. And it brings new people into the system.
When there is freedom of religion, it not only allows people to fully express the love and compassion that are at the heart of all great religions, but it allows faith groups to serve their communities through schools and hospitals, and care for the poor and the vulnerable. And when there is freedom of assembly -- when citizens are free to organize in civil society -- then countries can better address challenges that government sometimes cannot solve by itself. So it is my view that upholding these rights is not a threat to stability, but actually reinforces stability and is the foundation of progress.
After all, it was a yearning for these rights that inspired people around the world, including Vietnam, to throw off colonialism. And I believe that upholding these rights is the fullest expression of the independence that so many cherish, including here, in a nation that proclaims itself to be “of the People, by the People and for the People.”
Vietnam will do it differently than the United States does. And each of us will do it differently from many other countries around the world. But there are these basic principles that I think we all have to try to work on and improve. And I said this as somebody who's about to leave office, so I have the benefit of almost eight years now of reflecting on how our system has worked and interacting with countries around the world who are constantly trying to improve their systems, as well.
Finally, our partnership I think can meet global challenges that no nation can solve by itself. If we’re going to ensure the health of our people and the beauty of our planet, then development has to be sustainable. Natural wonders like Ha Long Bay and Son Doong Cave have to be preserved for our children and our grandchildren. Rising seas threaten the coasts and waterways on which so many Vietnamese depend. And so as partners in the fight against climate change, we need to fulfill the commitments we made in Paris, we need to help farmers and villages and people who depend on fishing to adapt and to bring more clean energy to places like the Mekong Delta -- a rice bowl of the world that we need to feed future generations.
And we can save lives beyond our borders. By helping other countries strengthen, for example, their health systems, we can prevent outbreaks of disease from becoming epidemics that threaten all of us. And as Vietnam deepens its commitment to U.N. peacekeeping, the United States is proud to help train your peacekeepers. And what a truly remarkable thing that is -- our two nations that once fought each other now standing together and helping others achieve peace, as well. So in addition to our bilateral relationship, our partnership also allows us to help shape the international environment in ways that are positive.
Now, fully realizing the vision that I’ve described today is not going to happen overnight, and it is not inevitable. There may be stumbles and setbacks along the way. There are going to be times where there are misunderstandings. It will take sustained effort and true dialogue where both sides continue to change. But considering all the history and hurdles that we've already overcome, I stand before you today very optimistic about our future together. (Applause.) And my confidence is rooted, as always, in the friendship and shared aspirations of our peoples.
I think of all the Americans and Vietnamese who have crossed a wide ocean -- some reuniting with families for the first time in decades -- and who, like Trinh Cong Son said in his song, have joined hands, and opening their hearts and seeing our common humanity in each other. (Applause.)
I think of all the Vietnamese Americans who have succeeded in every walk of life -- doctors, journalists, judges, public servants. One of them, who was born here, wrote me a letter and said, by “God’s grace, I have been able to live the American Dream…I'm very proud to be an American but also very proud to be Vietnamese.” (Applause.) And today he’s here, back in the country of his birth, because, he said, his “personal passion” is “improving the life of every Vietnamese person.”
I think of a new generation of Vietnamese -- so many of you, so many of the young people who are here -- who are ready to make your mark on the world. And I want to say to all the young people listening: Your talent, your drive, your dreams -- in those things, Vietnam has everything it needs to thrive. Your destiny is in your hands. This is your moment. And as you pursue the future that you want, I want you to know that the United States of America will be right there with you as your partner and as your friend. (Applause.)
And many years from now, when even more Vietnamese and Americans are studying with each other; innovating and doing business with each other; standing up for our security, and promoting human rights and protecting our planet with each other -- I hope you think back to this moment and draw hope from the vision that I’ve offered today. Or, if I can say it another way -- in words that you know well from the Tale of Kieu -- “Please take from me this token of trust, so we can embark upon our 100-year journey together.” (Applause.)
Cam on cac ban. Thank you very much. Thank you, Vietnam. Thank you. (Applause.)
END
12:43 P.M. ICT
Bản dịch của Ban Tin Tức/SBTN, đã được Phạm Nguyên Trường nhuận sắc
Xin chào! Xin chào Việt Nam!
Cám ơn các bạn. Cám ơn các bạn rất nhiều. Cám ơn chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón và tiếp đãi nồng nhiệt trong chuyến thăm này. Và cám ơn các bạn có mặt ở đây ngày hôm nay. Chúng ta có những người Việt Nam đến từ khắp đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
Trong chuyến thăm này, tôi thật sự xúc động vì lòng tử tế của người Việt Nam, người Việt Nam vốn nổi tiếng là vì như thế. Tôi cảm nhận được tình bạn giữa hai dân tộc chúng ta trong những người đứng hai bên đường phố, mỉm cười và vẫy tay chào tôi. Đêm hôm qua, tôi đến thăm Phố Cổ Hà Nội và đã dùng vài món ăn nổi tiếng của Việt Nam. Tôi đã ăn thử bún chả. Uống vài chai bia Hà Nội. Nhưng tôi phải nói, những con đường đông đúc của thành phố này, tôi chưa bao giờ trông thấy nhiều xe máy như thế. Tôi chưa thử đi qua đường, nhưng có lẽ khi tôi trở lại, các bạn có thể chỉ cho tôi cách đi qua đường.
Tôi không phải là tổng thống Mỹ đầu tiên đến Việt Nam trong thời gian gần đây. Nhưng tôi là tổng thống đầu tiên, như rất nhiều người trong các bạn, đã trưởng thành sau cuộc chiến giữa hai nước của chúng ta. Khi những người lính Hoa Kỳ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, tôi mới 13 tuổi. Vì vậy, lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với Việt Nam và người Việt, là khi tôi đang ở tuổi trưởng thành ở Hawaii, cùng với cộng đồng người Mỹ gốc Việt đầy tự hào ở đó.
Cũng trong thời gian đó, nhiều người ở đất nước này trẻ hơn tôi rất nhiều. Giống như hai cô con gái tôi, nhiều người trong các bạn đã sống cả đời mình chỉ biết có một điều – đó là hòa bình và các quan hệ đã được bình thường hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Do đó, tôi đến đây với ý thức về quá khứ, với ý thức về lịch sử khó khăn của chúng ta, nhưng hướng tới tương lai – sự thịnh vượng, an ninh và nhân phẩm mà chúng ta có thể cùng nhau thúc đẩy.
Tôi cũng đến đây với lòng tôn trọng sâu sắc đối với những di sản cổ xưa của Việt Nam. Trong suốt hàng ngàn năm, những người nông dân đã trồng cấy trên những mảnh đất này –những chiếc trống Đông Sơn đã cho chúng ta biết lịch sử như thế. Tại khúc quanh này của dòng sông, Hà Nội đã đứng vững trong hơn một ngàn năm. Thế giới yêu chuộng lụa và tranh Việt Nam, và Văn Miếu đồ sộ là nhân chứng cho tinh thần hiếu học của các bạn. Mặc dù vậy, trong suốt hàng trăm năm, vận mệnh của các bạn thường bị những nước khác quyết định. Đất nước yêu quý của các bạn không phải lúc nào cũng thuộc về các bạn. Nhưng như cây tre, tinh thần quật cường của dân tộc Việt đã được Lý Thường Kiệt thể hiện: “Sông núi nước Nam vua Nam ở. Rành rành đã định tại Sách Trời.”
Hôm nay, chúng ta cũng ôn lại giai đoạn lịch sử kéo dài hơn giữa người Việt và người Mỹ, nhưng lại thường xuyên bị bỏ qua. Hơn 200 năm trước, khi Tổ Phụ Lập Quốc của chúng tôi, Thomas Jefferson, tìm giống lúa cho trang trại của mình, ông đã tìm gạo Việt Nam, mà ông nói là “nổi tiếng vì nhìn thì trắng nhất, ăn thì thơm ngon nhất, và có năng suất cao nhất.” Chẳng bao lâu sau, những thương thuyền Mỹ đã đến các hải cảng của các bạn để mua và bán.
Trong Thế chiến II, người Mỹ đã đến đây để hỗ trợ cuộc kháng chiến của các bạn nhằm chống lại ách chiếm đóng. Khi những phi công Mỹ bị bắn rơi, người dân Việt Nam đã giúp giải cứu họ. Và trong ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, nhiều người ở thành phố này đã đổ ra đường, và Hồ Chí Minh đã nhắc tới Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ. Ông nói, “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền bất khả tương nhượng; trong đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Trong một thời đại khác, việc tuyên xưng những lý tưởng mà chúng ta cùng nhau chia sẻ đó và câu chuyện chung về việc lật đổ chủ nghĩa thực dân có lẽ đã đưa chúng ta xích lại gần nhau sớm hơn nữa. Nhưng không những thế, những cuộc đối đầu trong Chiến tranh Lạnh và sự sợ hãi chủ nghĩa cộng sản đã lôi chúng ta vào cuộc xung đột. Tương tự như những cuộc xung đột khác trong suốt lịch sử loài người, một lần nữa, chúng ta biết rõ hơn một sự thật cay đắng – rằng chiến tranh, không phụ thuộc vào ý định của chúng ta, chỉ mang đến đau khổ và bi kịch.
Tại đài tưởng niệm chiến tranh cách đây không xa, và với mỗi bàn thờ trong từng gia đình trên khắp đất nước này, các bạn đang tưởng nhớ khoảng 3 triệu người Việt, binh sỹ và thường dân, ở cả hai bên, đã thiệt mạng. Tại bức tường tưởng niệm của chúng tôi ở Washington, chúng tôi có thể chạm vào tên của 58.315 người Mỹ đã bỏ mình trong cuộc xung đột đó. Ở cả hai đất nước của chúng ta, các cựu chiến binh và gia đình những người đã ngã xuống vẫn còn đau đớn vì bạn bè và người thân đã mất. Cũng như chúng tôi ở nước Mỹ đã nhận thức được rằng, ngay cả khi chúng tôi bất đồng về cuộc chiến, chúng tôi vẫn luôn phải vinh danh những người đã chiến đấu và chào đón họ trở về với sự trân trọng mà họ xứng đáng được hưởng, ngày hôm nay, chúng ta, người Việt và người Mỹ, có thể đến với nhau và thừa nhận nỗi đau và những hy sinh của cả hai bên.
Gần đây hơn, trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đạt được tiến bộ lớn lao, và hôm nay thế giới có thể thấy những bước tiến dài mà các bạn đã làm được. Với những cải cách kinh tế và thỏa thuận về mậu dịch, trong đó có những thỏa thuận với Hoa Kỳ, các bạn đã bước vào nền kinh tế toàn cầu, các bạn đang bán sản phẩm của mình ra khắp thế giới. Nhiều khoản đầu tư nước ngoài nữa đang đổ vào. Và với một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Châu Á, Việt Nam đã tiến lên để trở thành quốc gia có thu nhập trung bình.
Chúng ta thấy tiến bộ của Việt Nam trong những tòa tháp và cao ốc của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trong những thương xá mới và những trung tâm đô thị. Chúng ta thấy điều đó trong những vệ tinh mà Việt Nam đưa vào không gian và một thế hệ mới lên mạng, mở ra những doanh nghiệp mới và điều hành những thương vụ mới. Chúng ta thấy điều đó trong hàng chục triệu người Việt kết nối với nhau trên Facebook và Instagram. Và các bạn không chỉ đăng ảnh tự chụp – mặc dù tôi nghe nói các bạn chụp rất nhiều – và đến nay, đã có một số người xin tự chụp ảnh cùng với tôi. Các bạn cũng đang lên tiếng vì những mục đích mà các bạn quan tâm, như cứu cây cổ thụ ở Hà Nội.
Như thế, toàn bộ sự năng động này tạo ra tiến bộ thật sự trong cuộc sống của người dân. Ở nước Việt Nam này, các bạn đã giảm đáng kể tình trạng nghèo khổ cùng cực, các bạn đã gia tăng thu nhập trong từng hộ gia đình và đưa nhiều triệu người vào tầng lớp trung lưu đang phát triển rất nhanh về. Đói nghèo, bệnh tật, tỉ lệ tử vong ở trẻ em và phụ nữ, tất cả đều giảm. Số người có nước uống sạch và điện, số trẻ em trai và gái đến trường, và tỉ lệ biết đọc biết viết của các bạn – đều tăng. Đây là tiến bộ phi thường. Đây là điều mà các bạn đã đạt được trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Và khi Việt Nam chuyển hóa, mối quan hệ giữa hai quốc gia chúng ta cũng chuyển hóa. Chúng ta đã học một bài học của thiền sư Thích Nhất Hạnh, khi ông nói: “Trong cuộc đối thoại chân thành, cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi”. Bằng cách này, chính cuộc chiến đã ngăn cách chúng ta lại trở thành suối nguồn chữa lành vết thương. Nó tạo điều kiện cho chúng tôi tìm kiếm những người mất tích và cuối cùng là đưa họ về nhà. Nó tạo điều kiện cho chúng tôi giúp tháo gỡ mìn và bom chưa nổ, bởi vì không thể để cho bất cứ đứa trẻ nào bị mất chân chỉ vì chơi ở bên ngoài. Ngay trong khi chúng tôi tiếp tục hỗ trợ những người Việt khuyết tật, trong đó có trẻ em, chúng tôi cũng tiếp tục giúp dọn sạch Chất Da Cam – dioxin – để cho Việt Nam có thể lấy lại thêm đất. Chúng tôi tự hào về công việc chúng ta cùng làm ở Đà Nẵng, và chúng tôi hy vọng sẽ giúp các nỗ lực của các bạn ở Biên Hòa.
Chúng ta hãy đừng quên rằng sự hòa giải giữa hai đất nước chúng ta đã được dẫn dắt bởi các cựu chiến binh của chúng ta, những người đã từng chạm trán với nhau trên chiến trường. Hãy nghĩ đến Nghị Sĩ John McCain, người từng bị giam nhiều năm tại đây như là một tù binh chiến tranh, ông đã gặp Tướng Giáp, người nói rằng hai nước chúng ta không nên là kẻ thù mà là bạn bè. Hãy nghĩ đến tất cả các cựu chiến binh, Việt và Mỹ, đã từng giúp chúng ta chữa lành vết thương và xây dựng những mối quan hệ mới. Ít người đã làm được nhiều về mặt này trong những năm qua hơn cựu trung úy Hải quân, và giờ đây là Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, John Kerry, người cũng đang có mặt ở đây. Và thay mặt cho tất cả chúng ta, John, chúng tôi cám ơn ông vì những nỗ lực phi thường của ông.
Vì các cựu chiến binh của chúng ta đã chỉ đường cho chúng ta, vì các chiến sĩ đã có can đảm theo đuổi hòa bình, hai dân tộc chúng ta giờ đây gần nhau hơn bao giờ hết. Thương mại của chúng ta đã tăng vọt. Các sinh viên và học giả của chúng ta cùng nhau học hỏi. Chúng tôi nhận nhiều sinh viên Việt Nam hơn bất cứ nước nào khác ở Đông Nam Á. Và mỗi năm, các bạn chào đón thêm ngày càng nhiều du khách Mỹ, trong đó có những người Mỹ trẻ đeo ba lô, đến 36 phố phường của Hà Nội và những cửa hàng của Hội An, và kinh thành Huế. Là người Việt và người Mỹ, tất cả chúng ta đều có thể cảm nhận được những lời này của Văn Cao – “Từ nay người biết quê người. Từ nay người biết thương người.”
Trên cương vị Tổng Thống, tôi đã trông cậy vào sự tiến bộ này. Với Quan Hệ Đối Tác Toàn Diện mới của chúng ta, hai chính phủ của chúng ta đang làm việc chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết. Và cùng với chuyến thăm này, chúng ta đã đặt mối quan hệ của chúng ta lên nền tảng vững vàng hơn cho nhiều thập niên tới. Theo nghĩa này, câu chuyện dài giữa hai quốc gia chúng ta, bắt đầu với Thomas Jefferson cách đây hơn hai thế kỷ, giờ đây đã đi trọn một vòng tròn. Mất nhiều năm và đòi hỏi nỗ lực cực kì to lớn. Nhưng giờ đây chúng ta có thể nói một điều mà trước đây không thể nào tưởng tượng được: Hôm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ là đối tác của nhau.
Và tôi tin rằng kinh nghiệm của chúng ta chứa đựng những bài học cho thế giới. Vào lúc, khi nhiều cuộc tranh chấp tưởng chừng không thể giải quyết được, tưởng chừng như sẽ không bao giờ kết thúc, chúng ta đã chỉ ra rằng con tim có thể làm thay đổi và có thể có một tương lai khác, khi chúng ta không chấp nhận làm tù nhân của quá khứ nữa. Chúng ta đã chỉ ra rằng hòa bình có thể tốt hơn chiến tranh đến mức nào. Chúng ta đã chỉ ra rằng tiến bộ và nhân phẩm được thúc đẩy mạnh mẽ nhất bằng hợp tác chứ không phải bằng xung đột. Đó là điều mà Việt Nam và Mỹ có thể trình bày trước thế giới.
Hiện nay, quan hệ đối tác mới của Mỹ với Việt Nam ăn sâu bén rễ trong một số sự thật căn bản. Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ, và không một quốc gia nào có thể áp đặt ý chí của mình lên các bạn hay quyết định vận mệnh của các bạn. Hiện nay, Hoa Kỳ quan tâm đến đất nước này. Chúng tôi quan tâm tới thành công của Việt Nam. Nhưng Quan Hệ Đối Tác Toàn Diện của chúng ta vẫn còn ở giai đoạn đầu. Và với thời gian còn lại của tôi, tôi muốn chia sẻ với các bạn viễn cảnh mà tôi tin sẽ dẫn dắt chúng ta trong những thập kỷ tới.
Thứ nhất, chúng ta hãy hợp tác để tạo cơ hội và thịnh vượng thực sự cho người dân hai nước. Chúng ta biết những yếu tố mang tới thành công về kinh tế trong thế kỷ thứ XXI. Trong nền kinh tế toàn cầu của chúng ta, đầu tư và thương mại đổ đến bất cứ nơi nào có chế độ pháp quyền, bởi vì không ai muốn bắt đầu công việc kinh doanh mà phải đưa hối lộ. Không ai muốn bán hàng hoặc tới trường nếu họ không biết mình sẽ được đối xử như thế nào. Trong những nền kinh tế dựa trên tri thức, việc làm sẽ tới những nơi mà người dân có quyền tự do suy nghĩ, tự do trao đổi ý kiến và sáng tạo. Và những quan hệ đối tác kinh tế thực sự không chỉ là quốc gia này khai thác tài nguyên của một quốc gia khác, mà là đầu tư vào nguồn lực lớn nhất của chúng ta, đó là người dân của chúng ta, các kỹ năng và tài năng của họ, dù các bạn sống ở một thành phố lớn hay nông thôn thì cũng thế. Và đấy là quan hệ đối tác mà Hoa Kỳ đề nghị.
Như tôi đã công bố hôm qua, Tổ Chức Hòa Bình lần đầu tiên sẽ tới Việt Nam, tập trung vào việc dạy tiếng Anh. Một thế hệ sau khi thanh niên Hoa Kỳ đến đây để chiến đấu, một thế hệ người Mỹ mới sẽ đến đây để dạy học và xây dụng và làm cho tình bạn giữa chúng ta ngày càng sâu sắc hơn. Một số công ty công nghệ và học viện hàng đầu của Hoa Kỳ sẽ hợp tác với các trường đại học của Việt Nam để tăng cường đào tạo trong các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán và y học. Bởi vì ngay cả khi chúng tôi tiếp tục đón nhận thêm nhiều sinh viên Việt Nam tới Hoa Kỳ, chúng tôi cũng tin rằng thanh niên xứng đáng được hưởng một nền giáo dục đẳng cấp thế giới ngay tại Việt Nam.
Đó là một trong những lý do chúng tôi rất vui mừng báo tin vào mùa thu này, trường Đại Học Fulbright Việt Nam sẽ mở cửa tại thành phố Hồ Chí Minh – trường đại học độc lập, phi lợi nhuận đầu tiên của quốc gia này – đấy là nơi tự do học thuật được thể hiện một cách trọn vẹn và học bổng cho những người có nhu cầu. Sinh viên, học giả, các nhà nghiên cứu sẽ tập trung vào chính sách công, quản trị và kinh doanh; vào kỹ thuật và khoa học điện toán; và văn học nghệ thuật – tất cả mọi thứ, từ thơ Nguyễn Du, cho đến triết lý của Phan Chu Trinh, cho đến toán học của Ngô Bảo Châu.
Và chúng tôi sẽ tiếp tục đồng hành với thanh niên và doanh nhân, vì chúng tôi tin rằng chỉ cần các bạn tích lũy được kỹ năng và công nghệ và số vốn cần thiết, thì không gì có thể cản trở được các bạn – và điều đó tất nhiên bao gồm cả những người phụ nữ Việt Nam tài năng nữa. Chúng tôi cho rằng bình đẳng giới là một nguyên tắc quan trọng. Từ thời Hai Bà Trưng đến nay, những người phụ nữ mạnh mẽ, tự tin đã luôn giúp đưa đất nước Việt Nam tiến lên. Bằng chứng thật rõ ràng – tôi nói điều này ở bất cứ nơi nào tôi đến trên khắp thế giới – gia đình, cộng đồng và đất nước thịnh vương hơn khi các bé gái và phụ nữ có cơ hội bình đẳng để thành công ở trường học và tại nơi làm việc và trong chính quyền. Điều đó đúng ở mọi nơi, và điều đó đúng ngay tại Việt Nam.
Với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương, chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc nhằm mở rộng tất cả tiềm năng của nền kinh của các bạn. Ở Việt Nam, TPP sẽ tạo điều kiên cho các bạn bán thêm nhiều sản phẩm của mình ra thế giới và sẽ thu hút thêm nhiều khoản đầu tư mới. TPP sẽ đòi hỏi những cải cách nhằm bảo vệ công nhân và chế độ pháp quyền và sở hữu trí tuệ. Và Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ khi Việt Nam thực thi đầy đủ các cam kết của mình. Tôi muốn các bạn biết rằng, trên cương vị Tổng Thống Hoa Kỳ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TPP bởi vì các bạn cũng sẽ có thể mua thêm hàng hóa của chúng tôi, “Made in America.”
Hơn nữa, tôi ủng hộ TPP vì những lợi ích chiến lược quan trọng của nó. Việt Nam sẽ bớt lệ thuộc vào bất cứ một đối tác thương mại nào và được hưởng những mối quan hệ rộng rãi hơn với nhiều đối tác hơn, trong đó có Hoa Kỳ. Và TPP sẽ củng cố sự hợp tác trong khu vực. Nó sẽ giúp giải quyết bất bình đẳng về kinh tế và sẽ thúc đẩy nhân quyền, với mức lương cao hơn và điều kiện làm việc an toàn hơn. Lần đầu tiên ngay tại Việt Nam, quyền thành lập nghiệp đoàn lao động độc lập và những điều khoản cấm lao động cưỡng bức và lao động trẻ em. Và nó có những điều khoản bảo vệ môi trường mạnh mẽ nhất và những tiêu chuẩn chống tham nhũng mạnh mẽ nhất trong tất cả các thỏa thuận thương mại trong lịch sử.
Đó là tương lai mà TPP hứa hẹn cho tất cả chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta – Hoa Kỳ, Việt Nam, và những nước ký kết khác – sẽ phải tuân thủ những luật lệ mà chúng ta đã cùng nhau lập ra. Đó là tương lai cho tất cả chúng ta. Do đó, giờ đây chúng ta phải hoàn tất nó – vì sự thịnh vượng kinh tế của chúng ta và vì an ninh quốc gia của chúng ta.
Điều này đưa tôi đến lĩnh vực thứ hai mà chúng ta có thể hợp tác, và đó là bảo đảm an ninh chung của chúng ta. Với chuyến thăm này, chúng ta đã đồng ý nâng hợp tác về an ninh lên tầng cao mới và xây dựng thêm niềm tin giữa hai quân đội. Chúng tôi sẽ tiếp tục huấn luyện và cung cấp thiết bị cho lực lượng Tuần Duyên của các bạn để củng cố khả năng hàng hải của Việt Nam. Chúng tôi sẽ cộng tác để gửi viện trợ nhân đạo khi xảy ra thảm họa. Với tuyên bố mà tôi đưa ra ngày hôm qua về việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí quốc phòng, Việt Nam sẽ tiếp cận rộng rãi hơn với thiết bị quân sự mà các bạn cần để bảo đảm an ninh của mình. Và Hoa Kỳ đang thể hiện lời cam kết về việc bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Việt Nam.
Nói rộng ra, thế kỷ thứ XX đã dạy cho tất cả chúng ta – trong đó có Hoa Kỳ và Việt Nam – rằng trật tự quốc tế, nền tảng an ninh chung của chúng ta, có những luật lệ và tiêu chuẩn nhất định. Mọi quốc gia đều có chủ quyền, không phân biệt nước lớn hay nước nhỏ, chủ quyền của mỗi quốc gia phải được tôn trọng, và không ai được xâm phạm lãnh thổ của bất cứ quốc gia nào. Nước lớn không được bắt nạt nước nhỏ. Và mọi tranh chấp phải được giải quyết một cách hoà bình. Và các thiết chế khu vực, như ASEAN và Thượng Đỉnh Đông Á (East Asia Summit), phải tiếp tục được củng cố. Đấy là niềm tin của tôi. Đấy là niềm tin của Hoa Kỳ. Đó là quan hệ đối tác mà nước Mỹ đề nghị với khu vực này. Tôi mong sẽ thúc đẩy tinh thần tôn trọng và hoà giải này trong thời gian tới, trong năm nay, khi tôi trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm Lào.
Ở Biển Đông, Hoa Kỳ không phải là người tham gia trong các cuộc tranh chấp hiện nay. Nhưng chúng tôi sẽ sát cánh cùng các đối tác trong việc đề cao những nguyên tắc cốt lõi, như tự do hàng hải và hàng không, và thương mại hợp pháp không bị ngăn trở, và giải quyết tranh chấp một cách hoà bình, thông qua các phương tiện pháp lý, phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong khi tiến về phía trước, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bay, đi lại bằng tầu thủy và hoạt động ở tất cả những nơi mà luật pháp quốc tế cho phép, và chúng tôi sẽ ủng hộ quyền của tất cả các nước trong khi họ làm như thế.
Ngay cả khi chúng ta hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong những lĩnh vực mà tôi vừa nói, quan hệ đối tác của chúng ta bao gồm yếu tố thứ ba – giải quyết các lĩnh vực mà chính phủ của chúng ta không đồng ý, trong đó có nhân quyền. Tôi nói điều này không phải để nhắm vào một mình Việt Nam. Không quốc gia nào hoàn hảo. Sau hai thế kỷ, Hoa Kỳ vẫn phải nỗ lực để sống theo những lý tưởng có từ thời lập quốc. Chúng tôi vẫn phải giải quyết những khiếm khuyết của mình – quá nhiều tiền trong nền chính trị, và bất bình đẳng kinh tế gia tăng, thiên vị chủng tộc trong hệ thống tư pháp hình sự, cùng làm một việc, phụ nữ vẫn không được trả lương như nam giới. Chúng tôi vẫn có những vấn đề. Và tôi cam đoan với các bạn là chúng tôi cũng bị chỉ trích. Tôi nghe chỉ trích mỗi ngày. Nhưng sự xét nét đó, cuộc tranh luận công khai đó, đối mặt với sự không hoàn hảo của chính mình, và cho phép mọi người có quyền nêu ý kiến đã giúp chúng tôi phát triển mạnh mẽ hơn và thịnh vượng hơn và công bằng hơn.
Trước đây tôi đã từng nói – Hoa Kỳ không tìm cách áp đặt hình thức chính quyền của mình cho Việt Nam. Tôi tin rằng những quyền mà tôi nói đến không phải là những giá trị của Mỹ; tôi nghĩ đấy là giá trị phổ quát, được ghi trong Tuyên Ngôn Phổ Quát Về Nhân Quyền. Chúng cũng được ghi trong hiến pháp Việt Nam, trong đó rằng “mọi công dân có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, và có quyền tiếp cận thông tin, quyền hội họp, quyền lập hội và quyền biểu tình.” Đó là trong hiếp pháp Việt Nam. Do đó, thật vậy, đây là vấn đề về tất cả chúng ta, mỗi quốc gia, cố gắng áp dụng nhất quán những nguyên tắc này, để bảo đảm rằng chúng ta – những người trong chính phủ – đang trung thành với những lý tưởng này.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ. Việt Nam đã cam kết làm cho luật lệ phù hợp với hiến pháp mới và với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo một số đạo luật được thông qua gần đây, chính phủ sẽ tiết lộ về nhiều hơn về ngân sách và công chúng sẽ có quyền tiếp cận với nhiều thông tin hơn. Và, như tôi đã nói, Việt Nam đã cam kết cải cách kinh tế và lao động theo TPP. Vì vậy, tất cả đều là những bước đi tích cực. Và rốt cuộc, tương lai của Việt Nam sẽ do người dân Việt Nam quyết định. Mỗi nước sẽ vạch ra con đường của riêng mình, và hai nước chúng ta có truyền thống khác nhau, có hệ thống chính trị khác nhau và nền văn hóa khác nhau. Nhưng trong tư cách một người bạn của Việt Nam, cho phép tôi chia sẻ quan điểm của tôi – tại sao tôi tin rằng các quốc gia sẽ thành công hơn khi các quyền phổ quát được tôn trọng.
Khi có tự do diễn đạt và tự do ngôn luận, và khi mọi người có thể chia sẻ ý tưởng và truy cập Internet và truyền thông xã hội không hạn chế, điều đó cung cấp nhiên liệu cho quá trình đổi mới mà các nền kinh tế cần để phát triển. Đó là nơi những ý tưởng mới phát sinh. Đó là cách một Facebook bắt đầu. Đó là cách mà một số công ty tuyệt vời nhất của chúng tôi bắt đầu – vì một người nào đó đã có một ý tưởng mới. Ý tưởng khác hẳn. Và họ có thể chia sẻ. Khi có tự do báo chí – khi các nhà báo và blogger có thể soi rọi ánh sáng vào bất công hay lạm quyền – điều đó khiến các viên chức có trách nhiệm giải trình và xây dựng niềm tin nơi công chúng rằng hệ thống đang hoạt động. Khi các ứng cử viên có thể tranh cử và tự do vận động, và các cử tri có thể chọn người lãnh đạo của mình trong những cuộc bầu cử tự do và công bằng, điều đó làm cho đất nước ổn định hơn, bởi vì người dân biết rằng tiếng nói của họ được tính đến và sự thay đổi ôn hòa là khả dĩ. Và nó đưa những người mới vào hệ thống.
Khi có tự do tôn giáo, điều này không chỉ cho phép mọi người thể hiện đầy đủ tình yêu thương và lòng từ bi vốn là trọng tâm của tất cả các tôn giáo lớn, mà còn cho phép các nhóm tôn giáo phục vụ cộng đồng của mình thông qua các trường học và bệnh viện, và chăm sóc người nghèo và người dễ bị tổn thương. Và khi có tự do hội họp – khi người dân được tự do thành lập tổ chức trong xã hội dân sự – thì đất nước có thể giải quyết tốt hơn những thách thức mà chính quyền đôi khi không thể tự giải quyết được. Vì vậy, quan điểm của tôi là việc duy trì các quyền này không phải là một mối đe dọa đối với ổn định, mà trên thực tế, là củng cố ổn định và là nền tảng của tiến bộ.
Nói cho cùng, chính vì khát vọng có được những quyền này mà mọi người trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, có được nguồn cảm hứng để lật đổ chủ nghĩa thực dân. Và tôi tin rằng việc duy trì những quyền này là biểu hiện đầy đủ nhất của nền độc lập mà rất nhiều quốc gia trân trọng, kể cả tại đây, một quốc gia tự tuyên bố là “của Dân, do Dân và vì Dân.”
Việt Nam sẽ làm khác Hoa Kỳ. Và mỗi nước chúng ta sẽ làm khác với nhiều nước khác trên thế giới này. Nhưng, có những nguyên tắc căn bản mà tôi nghĩ tất cả chúng ta đều cố gắng hoàn thiện và cải tiến. Và tôi nói điều này như một người sắp rời nhiệm sở, cho nên giờ đây tôi có gần tám năm để suy ngẫm về cách thức hoạt động và tương tác của hệ thống của chúng tôi với các nước khác trên khắp thế giới, trong khi họ cũng liên tục cố gắng để cải tiến hệ thống của mình.
Cuối cùng, tôi nghĩ rằng quan hệ đối tác của chúng ta có thể đáp ứng được những thách thức toàn cầu mà không một nước nào có thể tự giải quyết được. Nếu chúng ta muốn bảo đảm được sức khỏe của người dân chúng ta và vẻ đẹp của hành tinh này, thì phát triển phải là bền vững. Những kỳ quan thiên nhiên như Vịnh Hạ Long hay Hang Sơn Đoòng phải được bảo tồn cho con cháu chúng ta. Nước biển dâng lên đe dọa bờ biển và sông ngòi mà rất nhiều người Việt Nam dựa vào. Và vì vậy, như là đối tác trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, chúng ta cần thực hiện những cam kết mà chúng ta đã đưa ra ở Paris, chúng ta cần giúp nông dân và làng xóm và những người sống bằng ngư nghiệp, để họ có thể thích nghi và đưa thêm năng lượng sạch đến những nơi như đồng bằng sông Mekong – một vựa lúa của thế giới mà chúng cần để nuôi dưỡng những thế hệ tương lai.
Và chúng ta có thể cứu được biết bao sinh mạng bên ngoài biên giới của mình. Bằng cách giúp những nước khác củng cố hệ thống y tế của họ, ví dụ như thế, chúng ta có thể ngăn chặn những vụ bùng phát bệnh tật, để chúng không trở thành nạn dịch đe dọa tất cả chúng ta. Và trong khi Việt Nam cam kết thêm nữa với Liên Hiệp Quốc về việc gìn giữ hòa bình, Hoa Kỳ tự hào vì giúp huấn luyện lực lượng gìn giữ hòa bình của các bạn. Và đó thật là một điều đáng ghi nhận – hai nước chúng ta từng đánh nhau nhưng giờ đây sát cánh bên nhau để giúp đỡ những nước khác cùng đạt được hòa bình. Như thế, ngoài quan hệ song phương, mối quan hệ đối tác của chúng ta cũng tạo điều kiện cho chúng ta giúp định hình môi trường quốc tế bằng những biện pháp tích cực.
Tuy vậy, việc hiện thực hóa hoàn toàn viễn cảnh tôi vừa mô tả hôm nay sẽ không xảy ra ngay lập tức, và nó cũng không phải là tất yếu. Sẽ có những vấp váp và những bước lùi trên đường đi. Sẽ có những lúc hiểu lầm. Cần phải có những nỗ lực bền bỉ và đối thoại chân thành để hai bên đều tiếp tục thay đổi. Nhưng khi xét lại toàn bộ lịch sử và những trở ngại mà chúng ta đã vượt qua, hôm nay, đứng trước các bạn tôi rất lạc quan về tương lai chung của chúng ta. Và, bao giờ cũng thế, niềm tin của tôi ăn sâu bén rễ vào tình bạn và những khát vọng chung của hai dân tộc chúng ta.
Tôi nghĩ đến tất cả những người Mỹ và Việt đã từng vượt qua một đại dương mênh mông – một số người đang đoàn tụ với gia đình lần đầu tiên sau nhiều thập niên – và những người, như Trịnh Công Sơn đã nói trong ca khúc của mình, nối vòng tay lớn, và đang mở rộng lòng mình và nhìn thấy tình người của chúng ta trong nhau.
Tôi nghĩ đến tất cả những người Mỹ gốc Việt đã thành công trong mọi lãnh vực – bác sĩ, nhà báo, quan tòa, quan chức. Một người trong số họ, được sinh ra ở đây, đã viết cho tôi một lá thư nói rằng, nhờ “Ơn Thượng Đế, tôi đã sống được Giấc Mơ Mỹ… Tôi rất tự hào là một người Mỹ nhưng cũng rất tự hào là một người Việt.” Và hôm nay, ông ấy đang ở đây, trở về quê hương nơi sinh của ông, bởi vì, theo ông nói, hoài bão của ông là “cải thiện đời sống của mỗi người Việt Nam”.
Tôi nghĩ đến một thế hệ người Việt mới – rất nhiều người trong các bạn, rất nhiều người trong những người trẻ đang ở đây – những người sẵn sàng tạo dấu ấn của mình trên thế gian này. Và tôi muốn nói với tất cả những thanh niên đang lắng nghe: Tài năng của các bạn, nghị lực của các bạn, những giấc mơ của các bạn – chính là trong những thứ đó, Việt Nam có tất cả những điều mà đất nước này cần để trở thành phồn vinh. Các bạn nắm trong tay vận mệnh của mình. Đây là thời khắc của các bạn. Và trong khi các bạn theo đuổi tương lai mà các bạn mong muốn, tôi muốn các bạn biết rằng Hoa Kỳ sẽ ở ngay bên cạnh các bạn như một đối tác và một người bạn.
Và sau đây nhiều năm, khi có thêm nhiều người Việt và Mỹ hơn nữa cùng nhau học hỏi; cùng nhau sáng tạo và kinh doanh; cùng nhau bảo vệ an ninh của chúng ta; và cùng nhau thúc đẩy nhân quyền và bảo vệ hành tinh của chúng ta – tôi hy vọng các bạn sẽ nhớ lại thời điểm này và tìm thấy hy vọng từ viễn cảnh mà tôi gửi gắm hôm nay. Hay là, liệu tôi có thể nói một cách khác – bằng những lời mà các bạn đã biết rõ từ Truyện Kiều – “Rằng trăm năm cũng từ đây. Của tin gọi một chút này làm ghi.”
Cám ơn các bạn. Cám ơn các bạn rất nhiều. Cám ơn, Việt Nam. Cám ơn.
Nguồn: https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2016/05/24/remarks-president-obama-address-people-vietnam
lundi 4 avril 2016
PHÍA BÊN KIA CỦA THÁP BABEL
Tôi đã mất cả buổi sáng để giải thích là tôi quan tâm đến cư dân trong vùng quê hơn là bảo tàng và giáo đường, và, do vậy, tốt hơn là chúng ta nên đi chợ. Họ bảo tôi rằng hôm nay cả nước nghỉ lễ và chợ đóng cửa.
“ Vậy thì ta đi đâu?”
“ Đi nhà thờ.”
Tôi biết ngay.
“ Hôm nay chúng tôi làm lễ tưởng niệm một vị thánh rất đặc biệt với chúng tôi, và chắc chắn là với ông nữa.Chúng ta sẽ đến viếng mộ vị thánh này. Nhưng xin đừng hỏi gì nữa và hãy chấp nhận là đôi khi chúng tôi muốn dành ngạc nhiên thú vị cho các nhà văn.”
“Mất bao lâu để tới đó?”
“Hai mươi phút.”
Hai mươi phút là câu trả lời tiêu chuẩn. Tôi biết thế, dĩ nhiên, nhưng thế nào cũng phải lâu hơn. Tuy nhiên, cho đến lúc này, họ đều tôn trọng ý thích của tôi, cho nên tốt hơn hết là tôi nên nhượng bộ lần này.
Sáng chủ nhật này, tôi đang ở Yerevan, xứ Armenia. Tôi miễn cưỡng bước lên xe. Tôi có thể nhìn thấy ngọn Ararat phủ tuyết ở phía xa. Tôi ngắm nhìn cảnh đồng quê chung quanh. Ước gì tôi có thể tản bộ ngoài đó, thay vì bị kẹt lại trong chiếc hộp kim loại này. Những người đón tiếp tôi cố tỏ ra tử tế với tôi nhưng tôi không thoải mái, buộc lòng phải chấp nhận " chương trình du lịch đặc biệt” này. Cuối cùng họ cũng từ bỏ toan tính muốn tạo cuộc trò chuyện, và chúng tôi tiếp tục ngồi trên xe trong im lặng.
Năm mươi phút sau ( tôi biết vậy mà!), chúng tôi đến một thị trấn nhỏ và tiến đến một nhà thờ đông nghẹt người.Tôi để ý là mọi người đều mặc còm lê đeo cà vạt, hẳn là một sự kiện trang trọng, tôi cảm thấy thật lố bịch với áo thun và quần jean. Tôi bước xuống xe, nhiều vị trong Hội Nhà Văn đang chờ tôi ở đó. Họ trao hoa cho tôi và hướng dẫn tôi đi qua đám đông đang dự lễ. Chúng tôi bước xuống mấy bậc cấp sau bàn thờ. Tôi thấy mình đang đứng trước một ngôi mộ. Tôi hiểu rằng đây là nơi vị thánh được chôn cất, nhưng trước khi đặt hoa lên mộ, tôi muốn biết người mà tôi tỏ lòng tôn kính là ai đây.
“ Vị Thánh Dịch thuật!”, là câu trả lời.
Thánh Dịch thuật! Mắt tôi đẫm lệ.
Hôm nay là ngày 9 tháng mười năm 2004, tên thành phố là Oshakan, và Armenia, theo như tôi biết, là nơi duy nhất trên thế giới đã công bố ngày lễ Thánh Dịch thuật, Thánh Mesrob, là ngày quốc lễ và đây là nơi họ cử hành lễ theo đúng nghi thức. Cùng với việc tạo ra bảng chữ cái tiếng Armenia ( ngôn ngữ này đã tồn tại từ trước nhưng chỉ ở dạng nói ), Thánh Mesrob đã cống hiến cả đời mình vào việc phiên dịch sang tiếng mẹ đẻ những văn bản quan trọng của thời đại, viết bằng tiếng Hy Lạp, Ba Tư và Cyrillic. Ông và các môn sinh đã cống hiến cả đời cho công việc vĩ đại là dịch Kinh Thánh và những tác phẩm văn học kinh điển quan trọng của thời đại. Từ đấy về sau, nền văn hóa của đất nước ông đã tạo được bản sắc riêng, và được duy trì cho đến ngày nay.
Vị Thánh Dịch Thuật. Tôi cầm đóa hoa trong tay và nghĩ đến tất cả những người tôi đã từng gặp hoặc có thể không bao giờ có cơ hội được gặp, nhưng những người này, giờ đây, đang cầm một trong những tác phẩm của tôi trong tay và đang cố hết sức để giữ cho trung thành với những gì tôi muốn chia sẻ với độc giả của mình.Hơn hết thảy, tôi nghĩ đến nhạc phụ của tôi, Christiano Monteiro Oiticica, nghề nghiệp: dịch thuật, người mà hôm nay đang cùng với các thiên thần và với Thánh Mesrob chứng kiến cảnh tượng này. Tôi nhớ lại hình ảnh ông đang khom mình trên chiếc máy đánh chữ cũ kỹ, và thỉnh thoảng than phiền về số tiền nhuận bút tệ hại trả cho việc dịch thuật ( và, than ôi, bây giờ cũng thế ). Tuy nhiên, ngay sau đó ông vẫn tiếp tục giải thích rằng lý do thực sự ông làm công việc này là vì muốn chia sẻ những kiến thức mà, nếu không có các nhà dịch thuật, sẽ không bao giờ đến với đồng bào của ông.
Tôi lặng lẽ cầu nguyện cho ông, cho tất cả những người đã giúp phiên dịch những cuốn sách của tôi, và cho những người đã cho phép tôi đọc được những cuốn sách mà nếu không có bản dịch của họ, tôi sẽ không bao giờ tiếp cận được, và như thế, đã giúp tôi – môt cách ẩn danh – hình thành cuộc sống và tính cách của mình. Khi rời nhà thờ, tôi thấy vài đứa trẻ đang viết bảng chữ cái với những viên kẹo có hình các chữ cái và với những bông hoa, rất nhiều hoa.
Khi loài người ngày càng có nhiều tham vọng, Thượng Đế đã hủy Tháp Babel, và mọi người bắt đầu sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau.Tuy nhiên, với lòng khoan dung vô biên, Ngài cũng đã tạo nên những con người để tái dựng những chiếc cầu ngôn ngữ, nhằm mở ra đối thoại và truyền bá tư tưởng nhân loại. Con người này, mà ta ít khi chịu khó lưu ý đến tên mỗi khi giở ra đọc một cuốn sách nước ngoài, chính là nhà dịch thuật.
PAOLO COELHO
TTS dịch
vendredi 1 avril 2016
NHÀ DỊCH THUẬT
NHÀ DỊCH THUẬT
Mấy tháng cuối của năm 2014, trên Blog Phạm Cao Hoàng thường đăng những tác phẩm dịch thuật kèm bài giới thiệu của Thân Trọng Sơn. Thường thấy, bên dưới đầu đề và tên tác giả nước ngoài, chạy chữ cỡ lớn, là mấy chữ nhỏ “Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu.”
Công việc dịch và giới thiệu, xưa nay, nhiều người đã làm và làm thật xuất sắc. Nhờ tài năng, sự thông tuệ và lao động sáng tạo của các bậc tiền bối dịch giả mà các thế hệ độc giả Việt Nam đã tiếp cận được với nhiều tác phẩm kim-cổ từ nhiều nền văn học trên thế giới. Khó có thể đánh giá đúng mức ảnh hưởng của những tác phẩm dịch thuật này lên tâm hồn Việt Nam. Nhưng, có thể nói, các bậc tiền bối dịch giả đã có đóng góp rất lớn vào việc nâng cao tầm nhận thức cũng như trình độ thưởng ngoạn văn học nghệ thuật của người Việt. Không có những quyển sách dịch, trình độ thẩm mỹ của độc giả (và cả tác giả) Việt Nam chắc khó đạt được như ngày hôm nay.
Công việc dịch và giới thiệu, các bậc tiền bối đã làm thật xuất sắc và Thân Trọng Sơn đã kế thừa sự xuất sắc đó. Kế thừa và có nét duyên riêng thật đáng yêu. Chữ nghĩa trong các bản dịch của Thân Trọng Sơn mới mẻ, tươi nguyên và như là của riêng ông. Đọc tác phẩm của các tác giả cổ điển, qua bản dịch của Thân Trọng Sơn, ta có cảm giác như ông đang giới thiệu một tài năng mới, kiệt xuất, nhưng còn ẩn danh của Việt Nam.
Để kết luận, xin trích đoạn cuối trong “Phía bên kia của Tháp Babel”, một trong hai mươi truyện ngắn của nhà văn Brazil - Paulo Coelho - mà Thân Trọng Sơn đã dịch và giới thiệu: “Khi loài người ngày càng có nhiều tham vọng, Thượng Đế đã hủy Tháp Babel, và mọi người bắt đầu sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, với lòng khoan dung vô biên, Ngài cũng đã tạo dựng nên những con người để tái dựng những chiếc cầu ngôn ngữ, nhằm mở ra đối thoại và truyền bá tư tưởng nhân loại. Con người này, mà ta ít khi chịu khó lưu ý đến tên mỗi khi giở ra đọc một cuốn sách nước ngoài, chính là nhà dịch thuật."
Trong ý nghĩa này, Thân Trọng Sơn xứng đáng được gọi là Nhà Dịch Thuật.
Nguyễn Âu Hồng
Oregon, January 2015
http://phamcaohoang.blogspot.nl/2016/03/2204-nguyen-au-hong-nha-dich-thuat.html?m=0
jeudi 3 mars 2016
HOÀI NIỆM VỀ MỘT NGÔI TRƯỜNG
Trong quãng đời 40 năm dạy học, tôi đã dừng chân tại 10 ngôi trường tại ba địa phương khác nhau, công lập và tư thục, trung học và cao đẳng; nơi lâu nhất là tám đến mười năm, nhưng cũng có nơi chỉ một vài niên khoá. Tình cảm gắn kết, kỷ niệm lưu lại không phụ thuộc vào thời gian dài hay ngắn, mà từ những ấn tượng đặc biệt do hoàn cảnh, môi trường làm việc và tập thể những đồng sự. Trường Trung học Chi Lăng Đà Lạt ( nay đang nhìn lại 40 năm hình thành và phát triển của mình ) là ngôi trường tạo cho tôi những ấn tượng đặc biệt đó.
PHÚT ĐẦU TIÊN ẤY NAY ĐÂU?
Tháng 9 năm 1978 tôi thuyên chuyển từ Huế vào Đà Lạt. Theo quyết định của Bộ Giáo Dục ghi " đến nhận công tác tại Ty Giáo Dục Lâm Đồng", tôi đến trình diện tại Ty, ở đường Đào Duy Từ. Trưởng phòng Tổ chức lạnh lùng tuyên bố: Các trường ở Đà Lạt không có nhu cầu giáo viên tiếng Pháp, Ty phân anh về Cấp 3 Di Linh. Bất ngờ trước quyết định này, tôi thưa lại: " Tôi chưa sẵn sàng đi xa ( như các đồng nghiệp trẻ mới ra trường cùng đến trình diện một lượt với tôi ) và có nguyện vọng dạy ở Đà Lạt để tiện chăm sóc con đầu lòng chưa đầy một tuổi. Xin Anh xem lại hồ sơ cá nhân và xem xét hoàn cảnh của tôi." Một tuần sau, tôi trở lại và nhận quyết định về Trường Cấp 3 Chi Lăng.
Tôi về trường trình diện Hiệu trưởng Phùng Tất Thắng và được biết trường hiện có hai giáo viên tiếng Pháp là Cô Tuyết Sơn và thầy Nguyễn Thành Cao, trường chỉ nhận tôi để dạy tiếng Anh. Tất nhiên tôi không từ chối vì đã từng dạy ngoại ngữ này từ mười năm trước. Thời gian này, trường không nhiều lớp, cơ sở khiêm tốn, đội ngũ không đông. Tôi được phân dạy 2 lớp 10 A ( ban ngoại ngữ ) và 10 D ( ban Hoá Sinh ). Với sự dìu dắt của Tổ trưởng Tạ Tất Thắng, công tác chuyên môn của tôi khởi đầu khá suôn sẻ. Tuy nhiên tôi thực sự lúng túng khi làm công tác chủ nhiệm vì không có chút kinh nghiệm nào. Tôi từ xa mới chuyển đến sống tại thành phố cao nguyên này, chưa biết gì về địa lý, phong tục tập quán, dân tình nơi đây, lại càng không hiểu về hoàn cảnh gia đình học sinh, hình như phần lớn là nông dân, nhiều em ở rất xa trường, nghỉ học và đi trễ thường xuyên. Tôi đã mất ba buổi trưa liên tiếp đạp xe trong nắng gió mới tìm ra nhà em Phạm Ngọc Bích ở đường Khe Sanh lạ lẫm, vắng vẻ, heo hút ( chứ không đông đúc sầm uất như hiện nay ) để tìm hiểu lý do vắng mặt của em. Đó chỉ là chuyện nhỏ so với khó khăn tôi gặp phải khi hướng dẫn học sinh lao động. Nhìn lịch công tác trên bảng ghi: chiều thứ năm " lao động tại hiện trường" tôi hoang mang quá đỗi ( thiệt tình là nay nhớ lại tôi vẫn không hiểu " hiện trường " nghĩa là gì ). Mỗi lớp được chia một diện tích bằng nhau trong khoảng đất bên ngoài trường để trồng các loại đặc sản như khoai tây, cà rốt, bắp sú v.v., những thứ ở quê cũ tôi ít khi được ăn, nói gì đến chuyện trồng! Tôi ngơ ngác khi nghe các đồng nghiệp dặn học sinh mang theo cái vá ( sao trồng khoai lại mang dụng cụ nấu ăn đi? ), bình xoa để tưới ( nghe chữ tưới tôi đoán " xoa " phiên từ chữ Pháp arrosoir ), rồi nhớ lên "rò" cho cao ( sau tôi mới được giảng là đắp vồng ). Khỏi phải nói là tôi chẳng hướng dẫn được gì việc chọn giống, tỉa tưới cây, bắt sâu bệnh... mà để học sinh tự biên tự diễn. Kết quả là sơ kết học kỳ 1, tổ chuyên môn bình bầu tôi đạt lao động tiên tiến thì hiệu phó Lê Văn Mỹ cương quyết bác với lý do thành quả lao động của lớp chủ nhiệm quá tệ!
Dẫu sao thì sau thời gian làm quen với nề nếp của ngôi trường đầu tiên trên thành phố lạ, tôi nghĩ là mình sẽ tự tin hơn và công tác hiệu quả hơn. Dòng đời đâu có êm ả như tôi nghĩ: đầu học kỳ 2, hiệu trưởng Phùng Tất Thắng rời trường để đi xây dựng một đơn vị mới thành lập là Trường Vừa Học Vừa Làm 26/3, kéo theo một số giáo viên của trường cùng đi.
THÔI CHIA LY TỪ ĐÂY
Vừa Học Vừa Làm là một loại hình trường học đặc biệt, học sinh học văn hoá một buổi và lao động một buổi, được nhà nước cấp học bổng và lương thực. Do đặc điểm này nên đội ngũ được chọn là giáo viên thanh niên khoẻ mạnh, son rỗi để cùng học sinh lao động, sao cho sau 3 năm thầy trò phải tự túc được kinh phí đào tạo. Tôi không thuộc đối tượng đó nhưng vẫn được điều chuyển vì tổ chức nhắm tôi sang đấy sẽ dạy vừa tiếng Anh vừa tiếng Pháp, đỡ một biên chế cho ngành. Tôi chưa kịp có ý kiến gì thì hiệu trưởng Nguyễn Văn Huyên mới về thay đã chỉ đạo không xếp giờ cho tôi nữa. Vậy là duyên vừa bén thì tình đã đứt đoạn, tạm biệt nhé, Chi Lăng! ( không dám hẹn ngày tái ngộ ).
Có vẻ như trường VHVL không thành công lắm với cơ ngơi chật hẹp ở gần thác Cam Ly nên đến năm 1983, trường chuyển về xã Gia Hiệp, huyện Di Linh. Các giáo viên độc thân hoặc người nào có gia đình mà tình nguyện thì đi theo trường, số còn lại được chuyển về các trường khác trong thành phố Đà Lạt. Thế là một lần nữa, số phận của tôi do tổ chức định đoạt. Lạ lùng thay, tôi được phân về Trường Sư Phạm Mẫu Giáo, đóng tại trường Trần Hưng Đạo cũ, xa tít tắp. Hiệu trưởng Lê Minh Tuân vui vẻ nói: Ty đưa anh về đây thì tôi nhận mặc dù trường không dạy bộ môn của anh. Anh cứ đưa quyết định để tôi nói kế toán làm lương cho anh, rồi anh về nghỉ, cứ đầu tuần anh trở lại để xem có việc gì không. Có thể tôi sẽ cho giáo sinh học thêm ngoại ngữ để anh có giờ dạy! Đến lần đầu tuần thứ ba thứ tư gì đó thì hiệu trưởng nói: Tôi chưa kiếm được việc gì cho anh làm, may quá Ty điều anh đi nơi khác rồi, quyết định của anh đây!
NGƯỜI NGỠ ĐÃ RA ĐI , NHƯNG NGƯỜI BỖNG LẠI VỀ.
Tôi cầm quyết định với một bất ngờ thú vị: về lại trường Chi Lăng! Tôi hân hoan trở về trường cũ trình diện hiệu trưởng mới là thầy Nguyễn Thành Lý. Ngay trong phiên họp hội đồng đầu tiên, hiệu trưởng ưu ái dành cho tôi lời phê bình nghiêm khắc là nhận công tác trễ mấy ngày so với Quyết định của Ty. Tôi bị oan ( vì QĐ của tôi trường SPMG giữ, đầu tuần tôi mới gặp hiệu trưởng để nhận ) nhưng tôi không trần tình gì vì trong lòng tôi đang rộn ràng niềm vui gặp lại các đồng nghiệp cũ đã quen từ 5 năm trước, càng vui hơn trước không khí thân tình, phấn khởi của tập thể sư phạm có tăng cường thêm nhiều khuôn mặt trẻ trung, dễ mến. Tôi nhanh chóng hoà đồng với môi trường mới với hy vọng sẽ gắn bó lâu dài. Tôi đặc biệt thích thú với hoạt động đầy sáng tạo của nhà trường: đến giờ chơi giữa buổi học tổ chức cho học sinh ca hát phát qua loa phóng thanh. Chính phong trào " Hát cho sân trường rộn tiếng hoan ca" này đã tạo điều kiện cho học sinh phát triển năng khiếu và dành nhiều giải trong các hội diễn của ngành ( giải đơn ca với bài Hát về anh của nhạc sĩ Thế Hiển ). Nhiều tiếng hát học trò đã trưởng thành từ đây: Nguyệt Hằng, Quỳnh Liên, Kiều Sương...
Ít lâu sau tôi được bầu làm thư ký công đoàn trường. Ban Chấp hành ( có thêm cô Phan Thị Huệ và thầy Nguyễn Ngọc Danh ) thống nhất quan điểm là không sa đà vào những việc bình thường và tầm thường là cơm áo gạo tiền và thăm viếng hiếu hỉ ( chỉ cần những người tốt bụng và rảnh việc ) mà tập trung vào việc xây dựng khối đoàn kết, quan tâm giúp đỡ nhau. Hiệu trưởng đồng ý dành 15 phút trong mỗi buổi họp hội đồng cho công đoàn sinh hoạt. Các tổ công đoàn luân phiên phụ trách nội dung này với các tiết mục kể chuyện, ngâm thơ, ca hát, tạo không khí vui vẻ, tin cậy, hoà đồng. Tổ nào không có ai thạo những việc này có thể nhờ người tổ khác và người được nhờ nhiều nhất là hiệu trưởng với tư cách là đoàn viên công đoàn tổ Toán. Các bài ca Bình Trị Thiên khói lửa, Cuộc đời vẫn đẹp sao... đã giúp xây dựng hình ảnh người anh cả dễ tính, dễ gần và dễ mến.
Mọi người còn muốn đẩy mạnh những sinh hoạt giao lưu kiểu này ra khỏi khuôn khổ phòng họp bằng các cuộc gặp gỡ bên ngoài, có chút thực phẩm và nước uống. Không ai mời ai, không ai đãi ai, ai thích thì tham gia và đóng góp vào chi phí. Lúc này nhà nước vận động mọi người mua công trái mệnh giá 100 đồng, anh em đề xuất mỗi người đóng góp một nửa số đó và gọi là đóng công phải. Từ đó có tên gọi không chính thức mà ai cũng hiểu là Hội Công phải. Lần đầu tiên họp tại nhà hàng Sương Mai cạnh trường, sau đó tại tư gia các thành viên có điều kiện tổ chức.
Những sinh hoạt này ban đầu chỉ là những dịp gặp gỡ giao lưu, giải trí, dần dà biến thành những hội nghị ngoài lề bàn về công việc nhà trường với những hiến kế, đề xuất cho hiệu trưởng và công đoàn.
Nhà trường chú trọng đẩy mạnh công tác chuyên môn với những hoạt động thiết thực nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Trong không khí đoàn kết thân ái, cùng giúp nhau tiến bộ, thầy giáo bộ môn Hoá Nguyễn Văn Tiên đã phấn đấu đạt danh hiệu Giáo Viên Giỏi cấp Tỉnh ngay từ khi tuổi đời và tuổi nghề chưa cao, tạo đà để vững vàng tiến lên đảm nhận những cương vị công tác quan trọng ở trường và ở ngành.
Phong trào đúc kết và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm cũng được đẩy mạnh, thoát ra khỏi tình trạng hình thức, chiếu lệ. Thầy giáo Lê Đức Dũng báo cáo đề tài " Công tác chủ nhiệm lớp " sau những thành công cá nhân được ghi nhận trong lãnh vực này. Thầy giáo môn sinh vật Lê Gia Lập nghiên cứu và phổ biến đề tài " Kinh nghiệm chăn nuôi và trồng trọt của người nông dân qua lý giải từ kiến thức khoa học " được hội đồng giáo dục và khách mời ( đại diện Phòng Phổ thông của Ty Giáo Dục và trường bạn Phan Chu Trinh ) đánh giá tốt.
Các hoạt động văn thể ngày càng khởi sắc, đội văn nghệ của trường nhiều lần được mời đi biểu diễn bên ngoài. Điều đáng ghi nhận là những khó khăn lúng túng của hoạt động giáo dục lao động ( vốn không phải là thế mạnh của các trường thành phố ) đã được tháo gỡ bằng sáng kiến thành lập Xưởng Mộc mà công đầu thuộc về thầy giáo Nguyễn Ngọc Danh, với sự cộng tác hiệu quả của thầy giáo Nguyễn Viết Cường, cựu giáo viên Trường Lâm Viên và Vừa Học Vừa Làm.
Trong thời gian này, giáo viên của trường còn đảm nhận nhiệm vụ giảng dạy tại phân hiệu Xuân Trường, cho đến khi trường THPT Xuân Trường chính thức được thành lập.
Sang năm 1985, tôi nhận nhiệm vụ Phó Hiệu trưởng nhà trường trong điều kiện thuận lợi là cả một tập thể giáo viên đoàn kết, nhiệt tình và vững tay nghề đã được hình thành. Hầu hết các tổ bộ môn đều có con chim đầu đàn được đồng nghiệp và học sinh tin cậy: Thầy Hoàng Văn Bình môn văn, Cô Đinh Thị Năng Cứu môn địa, Cô Nguyễn Thị Hạnh môn toán, Thầy Hà Thúc Cát môn lý, Thầy Lê Đức Dũng môn Hoá, Cô Tôn Nữ Ngọc Diệp môn sinh vật, Cô Bùi Thị Trâm môn thể dục. Lòng yêu nghề đã thúc đẩy mọi người khắc phục tình trạng cơ sở vật chất của nhà trường thiếu thốn và lạc hậu để làm tốt nhiệm vụ của mình. Phòng học không đủ, có lúc phải mượn tạm căn nhà gỗ trước mặt trường. Học sinh học thể dục phải kéo nhau ra sân bãi bên ngoài, cách trường vài trăm mét. Ban Giám hiệu không có phòng làm việc, có khi phải họp dưới gốc cây mít ở sân trường. Các buổi ngoại khoá của tổ Văn phải mượn hội trường của cơ quan Liên hiệp Công đoàn.
Tiếc một điều là tôi không thể cộng tác với tập thể đáng yêu nầy lâu dài: tháng 2/1986 tôi phải bàn giao công tác để nhận nhiệm vụ ở cấp cao hơn.
CHÂN BƯỚC ĐI, ĐẦU CÒN NGOẢNH LẠI
Ở cương vị công tác mới, tôi không hy vọng có cơ hội trở về lại trường lần thứ ba. Nhưng với nhiệm vụ mới, tôi vẫn có điều kiện theo dõi những bước tiến của trường, để rồi vài năm sau tham gia đoàn kiểm tra của ngành về xem xét, công nhận trường trong quá trình phấn đấu đạt danh hiệu Trường tiên tiến cấp Tỉnh.
Thời gian tôi làm công tác giảng dạy và quản lý tại trường Chi Lăng chỉ có mấy năm tháng ngắn ngủi so với lịch sử 40 năm của một ngôi trường.
Ngoảnh đầu nhìn lại, vui mừng biết mấy, từ cơ ngơi sơ sài của thuở ban đầu sau khi tiếp thu Trường Tư thục Văn Khoa của chế độ cũ, đến nay nhà trường cũng đã có toà ngang dãy dọc, không còn là hình ảnh " trường của em be bé "!
Ngoảnh đầu nhìn lại, cũng chút ngậm ngùi, trong số bạn bè đồng nghiệp ngày xưa ấy nay nhiều người đã đi xa, rất xa, có khi nhớ mặt không nhớ tên, có khi nhớ tên không nhớ mặt, và tất nhiên không tránh khỏi cảnh người còn kẻ mất.
Ngoảnh đầu nhìn lại, dẫu cố gắng cũng phải thú thực là tôi không theo dõi biết hết được những chuyển biến của nhà trường. Trường đã nhiều lần thay đổi danh xưng, thay đổi cấp đào tạo, thay đổi loại hình trường, và đã qua nhiều đời hiệu trưởng. Đội ngũ hiện nay đa số là người mới, đồng nghiệp cũ từ thời tôi còn đó nay chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay và cũng sắp nghỉ hưu cả rồi. Vậy mà, quý hoá chưa, bao nhiêu người cũ người mới đó, dẫu hoàn cảnh khác biệt, vẫn tiếp tục quan tâm đến nhau để đến khi có chuyện buồn vui, chỉ qua tin nhắn thông báo là cùng tìm đến nhau ân cần chia sẻ. Phải chăng là xuất phát từ tình cảm thân thương gắn bó và niềm tự hào về một mái nhà chung?
Tháng 5 năm nay, nhà trường kỷ niệm 40 năm ngày thành lập. Bao nhiêu thế hệ học sinh từ cánh cửa trường đã tung bay xa, hẳn không ít người đã thành công, thành danh, thành nhân. Nhớ về trường cũ, chỉ một điều nhỏ đủ khiến cho tôi ấm lòng, đó là có cựu giáo viên của trường đã trở thành lãnh đạo ngành, có cựu học sinh của trường đã trở thành lãnh đạo tỉnh. Bởi, xét cho cùng, trong thành phố này, và rộng hơn, trên đất nước này, có ngôi trường nhỏ bé ở vùng ven nào làm được kỳ tích đó không?
THÂN TRỌNG SƠN
( tháng 2 / 2016 )
Inscription à :
Articles (Atom)