dimanche 27 septembre 2015

QUỐC HỌC - KÝ ỨC RỜI













Ký ức rời, ký ức không liền mạch, nhớ bao nhiêu kể được bấy nhiêu. Chuyện ngày xưa, gom góp dăm ba điều, kể từ lúc tuổi mười lăm vô trường Quốc Học. Sau ba năm, thì cũng như tất cả bạn bè khác, với mảnh bằng kết thúc tuổi học trò, tôi rời trường vi chút ít âu lo. Học gì đây? Tương lai nhiều lối mở. Trường dược, trường y? Con nhà nghèo đừng có với cao. Đường binh nghiệp? Uống thuốc liều cũng không dám bước vào! Thôi thì cứ theo nếp nhà mà chọn ngành sư phạm. Học bốn năm, rồi thêm bốn năm thaphương cầu thực. Hạnh phúc biết bao, lại trở về trường xưa. Lại trở về với những căn phòng quen thuộc cũ, nhưng không phải với vị trí ngước mắt nhìn lên, mà với tư thế người đứng ở bục giảng bên trên.


HỌP MẶT CỰU HỌC SINH QH tại SAIGON


Rất nhiều năm tôi đi dự họp mặt, cùng bạn bè đồng lứa đồng môn. Nhớ nhớ quên quên, ai mất ai còn, giữa Saigon sôi nổi nhớ về Huế trầm mặc. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Nhớ về trường thì ai cũng giống nhau: cùng chia sẻ chung một niềm tự hào, trường của TÔI đó, trường của TA đó! Một hai ba năm, tôi còn nhớ rõ, ban đầu số cựu giáo sư đến dự không bao nhiêu, nhưng dần dần các thầy cô được mời ngày càng nhiều. Từ hàng ghế cựu học sinh, tôi nhìn lên phía trước.  Có những giáo sư thời tôi đi học. Và cũng có những đồng nghiệp cùng thời ( có vị còn ít tuổi hơn tôi ). Rồi có dịp, tôi tâm sự với một bạn trong ban liên lạc, tôi là diễn viên sắm hai vai: là cựu học sinh, và i cũng đã từng dạy ở trường, thời gian khá dài, bảy tám năm, giai đoạn bắc cầu giữa hai chế độ. Nói thế thôi, nhưng bất ngờ ngay năm sau đó, các bạn lại mời tôi về như một cựu giáo sư, trong buổi lễ, tôi được xướng danh và được tặng hoa: Thầy dạy tại trường từ 71 cho đến 78.


NGƯỜI TỪ TRANG SÁCH BƯỚC RA.


Cơ chi tôi được về với Huế. Đó là nhan đề bài viết của tôi, đã đăng trên đặc san Quốc Học mấy năm rồi ( chính xác là hai ngàn lẻ tám ). Bài nhắc đến những kỷ niệm ba năm đi học . Tam Nhị Nhất ban C ( sinh ngữ văn chương ), nhắc đến các thầy cô đáng kính, và các bạn cùng lớp thân thương. Tên các bạn, tôi đều viết tên thật, với mong ước biết đâu có bạn sẽ đọc, và lên tiếng phản hồi cho tôi được biết tin, vì mấy mươi năm qua tôi vẫn không quên, tuổi thanh xuân, một thời hoa mộng.
Rất bất ngờ tại nhà riêng, một buổi sáng, có cuộc gọi ( không biết của ai ): S đó phải không, bạn cũ đây, đoán được mới tài, mà có nhận ra ging ai không đó? Thôi được rồi, chịu khó chờ, một lát nữa thôi, sẽ có Nhất C 1 Quốc Học ghé chơi, không còn là tóc thề mười tám mà bà lão bảy mươi! Tin được không, Cao Thu Cúc đây rồi! ( thật ra thì bạn xưng tên mới nhận biết ).
Thấy nhắc đến mình trong bài tôi viết, bạn đã bỏ công dò hỏi, số điện thoại và cả địa chỉ nhà, để từ Saigon lên tìm cho ra. Từ bữa đó, bạn học cũ trở thành bạn văn. Không còn chuyện học hành, nay bàn chuyện văn chương. Bạn giới thiệu cho tôi những nhà văn nhà thơ khắp bốn phương. Và khuyến khích tôi đọc rồi dịch dần để đó. Từng bài từng chương gom góp cho đủ bộ. Chờ cơ duyên in ấn phát hành chơi. Bạn nói chân thành nên tôi đã nghe lời, và đã ( liều mạng ) in một cuốn.
Còn chuyện của Thu Hương cũng không kém phần lý thú. Có cô cháu tình cờ đọc được đặc san. Ôi, dì ơi, có ông nào viết nhắc tên dì đây này. Sách bên Việt Nam, không phải sách ở đây. Đúng là dì rồi, với họ tên đầy đủ. Dẫu đã mấy chục năm, nhưng chắc dì còn nhớ. Chắc chắn rồi, bạn vẫn còn nhớ. Bạn đang ở một nơi cách đây mười bảy tiếng múi giờ. Một nơi với tên gọi đẹp như thơ, Aloha, Hạ Uy Di, thiên đường du lịch. Và bạn cũng đã về, đã thăm, đã gặp.
Cũng từ trang sách bước ra còn một nhân vật, ( mà tôi viết là rất thân, rồi không thân nhau nữa ), mà i chỉ dám viết tên tắt T.L., hay là tên giả Tố Liên. Đó là cô gái hay nàng tiên? Mà mấy chục năm tôi tìm hoài không gặp, bỗng thấy bạn trên trang báo Sông Hương, với những bài thơ, những hồi ký dễ thương. Và, tất nhiên rồi, nối lại liên lạc. Tuy chưa phải là mặt đối mặt, mà chỉ là những cuộc đàm thoại viễn liên. Giờ ni bạn ở nơi mô, hả bạn hiền?


BUỔI GIAO THỜI, CHUYỆN ÍT NGƯỜI  KỂ.


Đầu tháng 3/1975, trường tạm ngừng hoạt động. Không hẹn nhau nhưng mọi người đều xuôi Nam. Điểm dừng chân là thành phố bên sông Hàn, và một lần họp ở toà nhà bưu điện. Thân ai nấy lo, khi thời cuộc chuyển biến. Trường chỉ kịp lo được một chuyện: giao hồ sơ cá nhân đến tận tay mỗi người. Đến cuối tháng, mọi việc đã ngã ngũ rồi, ít nhất là cho mảnh đất miền Trung. Kẻ trước người sau quay trở lại trường, dẹp chuyện riêng tư, lo vic chung trước đã. Ngày 16 tháng tư, thật là chuyện lạ, trường lại mở cửa đón học trò. Dọn dẹp ngổn ngang của chiến sự, sắp xếp kết thúc năm học dở dang. Ban Điều hành mới đã sẵn sàng, với một trưởng hai phó, và hai trưởng ban. Ba tháng hè khác hẳn mọi năm, nghĩa là không một ngày ngưng nghỉ. Tất bật rộn ràng, người chuyển đến, kẻ bỏ đi. Thầy cũng thế, mà học trò cũng thế. Cố tập cho quen dần với tình hình lịch sử đã sang trang. Qua năm học mới, những thầy giáo mấy chục năm trong nghề nay lại thấy ngỡ ngàng, với bao nhiêu chuyện lạ lẫm chưa từng nghe thấy. Bỏ bài soạn, để lo viết giáo án, nhắc nhở nhau phải đủ năm bước mới ngừng. Đừng có dạy ngẫu hứng lung tung, phải bám kỹ mục đích yêu cầu định trước. Thôi hướng dẫn, làm chủ nhiệm cũng được. Thôi đi dạy, hãy tập tành đứng lớp. Dăm bữa, nửa tháng, vác sổ đi dự giờ. Và cuối năm bình bầu đừng có tơ lơ mơ, chỉ nói ưu điểm mà không hề có khuyết nhược điểm! Cũng đừng quên nói là thường xuyên nghe đài đọc báo. Và luôn tuân thủ mọi ý kiến chỉ đạo. Những chuyện như thế là dấu vết của một thời. Ai cũng tặc lưỡi,  bình thường thôi! Có chăng là đôi chút ngậm ngùi, khi nghe gọi là giáo viên lưu dụng. Thậm chí còn có kẻ cố tình bỏ đi dấu nặng. Dùng từ lưu dung, vô nghĩa, mà ngạo mạn khinh khi!
Chuyện này kể không phải để nhớ, mà để quên đi.


NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ


Năm học 75-76 rồi cũng qua mau. Với nhiều chuyện buồn vui của " thuở ban đầu ", với nhiều xáo trộn, đổi thay trong đội ngũ. Tạm chia tay với nhiều đồng nghiệp cũ, và đón chào nhiều người mới chuyển sang. Có nhiều vị lâu nay hoạt động trên rừng, cũng có vị nghe nói là " A chi vin " ( Nguyễn Mười, Hồ Đăng Vu, Trần Quốc Toản... ) , nhiều nhất là từ trường Kiểu Mẫu chuyển lên, vì trường giải thể sau thời gian ngắn đổi tên. Thời gian này với  vai trò " phó ban ", tôi chịu trách nhiệm về công tác giáo vụ. Cả lực lượng gần một trăm người đó, cứ theo ngành đào tạo mà phân công. Ngặt một điều ( các vị còn nhớ không?), thời trước là giáo sư Lý Hoá, nay phải tách ra đôi ngã đôi đường, Lý một bên và Hoá một bên. Thôi thì cứ coi mặt đặt tên, tôi mạn phép âm thầm tách bạch. Trần Như Kiên, Lê Cảnh Em, Trần Ngọc Kỳ, Lê Quang Khanh, Lê Bá Lại, anh dạy Lý,  anh dạy Hoá cũng chẳng sao. May mà các anh không phản đối tiếng nào. Tương tự như thế là các thầy cô Sử Địa, cũng từ nay mỗi vị chỉ dạy một môn. Cô Lê Liên, anh Nguyễn Ngọc Anh, cô Hồng Vân... , à, nhóm Địa còn có hai anh Trần Gia Th, Nguyễn Hữu Huyên, trước nghe đâu là dân Toán Lý, và còn ai nữa, xin lỗi, tôi không nhớ hết.
Còn mt vic na, thit tình là rt mt: chia thi khoá biu cho c trường! May mà còn mi thêm được Phan Văn Phương. Hai chúng tôi giam mình c ngày trong phòng giám hc cũ, trước tm bng to đùng vi nhng quân c trng xanh vàng đỏ ( mi mt màu tượng trưng mt b môn ),  rút ra, cm vào,  tính toán thit hơn, min sao hc sinh đủ gi đủ tiết, còn giáo viên thì khi cn biết, t th hai đến th by ngày nào cũng có gi cũng chng sao, lúc này có còn ai dy bán công, tư thc na đâu!
Ôi! Những người anh, người bạn năm nào, có người tôi còn gặp lại, nhưng cũng có người nay xa lắc xa lơ!



VĂN NGHỆ MÙA BỘI THU


Có một kỷ niệm đẹp như mơ, là chuyện văn nghệ học trò quý tư năm 76, nhằm lúc       phong trào thi đua vừa phát động, hội diễn mấy chục trường trong cả tỉnh ( lúc này là từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân ).
Quốc Học mang dự thi ba tiết mục, cả ba đều đạt giải hạng A ( có kịch, có đàn, tất nhiên có cả hát ca ). Vở kịch ngắn mang tên "Cô lớp trưởng ", đạo diễn  là thầy Nguyễn Văn Dũng tài hoa. Mục thứ hai là hoà tấu đàn dây, khó có trường nào theo kịp tiết mục này, ( kiếm đâu ra hơn hai chục tay đàn mandoline và guitare thành thục ?, nhất là chơi sao nổi " polonaise "của nhạc sĩ Chopin! ). Tất cả nhờ tài của thầy giáo đàn anh: Trương Huệ Mẫn dày công tập luyện. Tiết mục thứ ba là một màn hợp xướng, gồm đến một trăm hai mươi em tuyển từ nhiều lớp, giọng nữ giọng nam giọng bổng giọng trầm, hát đủ bốn bè bài hát dài bốn chương: " Tiếng hát người chiến sĩ biên thuỳ " của nhạc sĩ Tô Hải.

Chn đây biên thu có ta ngày đêm,
Súng cm chc tay cho núi rng ng yên...

Chiu chiu dng chân đỉnh cao sườn núi,
Ai đi xa xôi nhưng lòng vn vui.
Ngó trông xa xa tn phía chân tri
Quê hương yêu du bao người ch trông...

Rng biên cương bao mến yêu đã ngăn chn quân thù
Núi biếc nương đèo ta đứng trông thêm thiết tha tình yêu
Vì quê hương bao mến yêu ta đã đi nơi xa vi
Chiến sĩ biên thu ta ca hát vang muôn li ca yêu đời...



Mỗi chương bài đổi thay qua nhiều tiết tấu, trầm mặc dịu dàng hào hùng sôi động. Chúng tôi phụ trách mỗi người một giọng, Trương Công Quy, Lê Cảnh Em, Phan Minh Trị và tôi. Đến lúc bài hát tập gần xong rồi, ba bạn giao cho tôi việc chỉ huy khi ra trình diễn. Góp phần vào thành công là phần lĩnh xướng điêu luyện, của em Tôn Thất Quỳnh Án với giọng tenor vút cao.

Nhắc lại chuyện thời nào để nhớ!

NỘI QUY TIẾP KHÁCH NƯỚC NGOÀI.


Có một dạo nói chuyện với người nước ngoài là điều cấm kỵ. Lỡ gặp tình cờ cứ đường ai nấy đi. Họ có hỏi thì giả lơ, không nói gì ( làm bộ như mình không hề nghe hiểu ). Còn nếu muốn chứng tỏ xứ này người tài giỏi không hề thiếu, tiếng Tây tiếng Mỹ khối người nói làu làu, dừng chân lại trao đổi vài câu, thì chắc chắn sau đó không lâu, sẽ được mời và cố mà giải thích. Anh có biết đó là ta hay địch, mà khoa môi múa mép ba hoa? Ôi trời ơi, đến giờ này thì địch ở đâu ra! Làm khó nhau thế này là hết nước nói rồi. Ngậm miệng ăn tiền từ nay xin hứa, tôi chỉ lỡ một lần này thôi.
Đó là i chuyện bàn dân thiên hạ. Vô trong trường học có gì khác hơn? Nhất là đối với trường Quốc Học, nơi khách nước ngoài tới thăm luôn? Khỏi phải nói, cứ giữ đúng trật tự kỷ cương. Chỉ có hiệu trưởng mới là người tiếp xúc, còn ai khác muốn nói gì phải đúng nơi đúng lúc, và phải qua phiên dịch thông ngôn. Dù có nói giỏi tiếng Anh như tổng thống Clinton. Hay thạo tiếng Pháp như tổng thống Chirac. Nói rõ như thế, cứ thi hành, đừng có thắc mắc. Vậy mà có người vi phạm, thế mới đau. Chuyện đơn giản, chẳng có gì đâu. Một buổi sáng đẹp trời đầu năm 78. Có mấy ông khách Hung Gia Lợi ghé thăm. Làm việc với trường xong, buồn tình mấy ổng dạo bước ngoài sân, ngang chỗ thầy giáo trẻ Bùi Truyền và đám học trò đang đứng. Mấy ông ni có biết tiếng Anh không thầy? Mà có biết cũng không giỏi bằng thầy, thầy hí? Dân Đông Âu biết chi Anh với Mỹ. Để thầy hỏi thử cho chúng bây coi. Và thầy lên tiếng hello, how are you? rạch ròi.  Rứa mà họ cũng trả lời được. Rồi hai bên vui vẻ chuyện trò, lời tuôn như nước. Lời sếp dặn, thầy giáo tiếng Anh đã vội quên. Chỉ khi nào cái ghế hiệu trưởng các đồng chí đã ngồi lên, thì khách khứa phương xa tha hồ tiếp. Còn bây giờ, nói gần nói xa chng qua nói thiệt: nội quy tiếp khách là... không được tiếp ai! Mời viết cho tôi bản kiểm điểm đủ dài, nói cho hết động cơ nào thúc đẩy. Có chi mô, tại mấy đứa học trò xúi bẫy, nói khích tôi khiến tôi phạm lỗi lầm! Thôi tôi xin chịu án phạt: cuối năm, mất danh hiệu lao động tiên tiến.


DẠY NGOẠI NGỮ KIỂU LỒNG GHÉP



Còn một chuyện " có yếu tố nước ngoài " nữa. Xin kể tiếp ra đây cho vui cửa vui nhà. Lần này thì là khách Pháp lang sa. Chắc cũng là người trong ngành giáo dục,
vì tới trường họ đòi thăm lớp dự giờ. Hiệu trưởng Đặng Xuân Trừng ưu ái chọn tôi. " Có anh thì tôi yên chí lắm rồi, cố gắng dạy sao cho thật tốt, đừng để trường phải ốt dột, danh tiếng lẫy lng, truyền thống trường ta!"
Đi với khách, tôi đã nhận ra, có anh Bửu Ý đóng vai phiên dịch. Tôi xác định được ngay mục đích: 12 C5 là lớp khá của trường, học sinh đều ngoan ngoãn, dễ thương, và nhất là lâu nay vẫn hăng say phát biểu. Có một điều không nói ra ngay là thiếu: sách giáo khoa thời này phải bảo đảm được yêu cầu, lồng chính trị vô nội dung bài giảng. Không có ngoại lệ cho sách dạy ngoại văn. Dân tộc ta yêu nước nồng nàn, chống ngoại xâm, nhớ ơn những anh hùng liệt sĩ, kháng chiến thần kỳ, đánh thắng đế quốc to... Bài giảng hôm nay, thật tình cờ, rơi đúng vào chủ đề như thế. Chuyện về anh hùng Nguyn Trung Trực với câu nói thuộc lòng của bao thế hệ: Bao giờ cỏ còn mọc trên nước Nam... Tên bài tôi còn nhớ, dù đã mấy chục năm: " Tant que l'herbe poussera sur cette terre". Tôi cố vận dụng theo giáo học pháp, qua văn phạm, giảng từ vựng để giúp hc sinh hiểu được bản văn. Cũng gợi mở, phát triển tư duy, phát vấn. Giờ học sinh động như tôi mong muốn, mà không dùng tiếng mẹ đẻ xen vào. Hết nội dung bài, tôi kết luận một câu: Học lịch sử, các em nên nhớ, kẻ thù của ta là chủ nghĩa thực dân, còn người Pháp, nhân dân Pháp, muôn đời là bạn quý.
Hiệu trưởng mời về phòng họp góp ý. Các giáo sư người Pháp nhấn mạnh một điều: cũng từng dạy ngoại ngữ đã nhiều, hôm nay chúng tôi mới ngộ ra cái mới: dạy ngôn ngữ vẫn có thể lồng ghép giáo dục tư tưởng vào, hèn gì mà học sinh Vit Nam nổi tiếng khắp bốn biển năm châu! Hiệu trưởng nghe, có vẻ rất khoái. Tôi nhìn anh Bửu Ý và thầm nói: Anh dạy đại học có kiểu ni không?!


Thôi chỉ kể chừng đó, không dám dài dòng. Sợ mất thì giờ người đọc với những chuyện tào lao. Làm sao cũng chẳng làm sao, dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi. Bạn xưa gặp gỡ mấy khi, trường xưa hồi tưởng, vội ghi mấy dòng. Lời tâm sự tận đáy lòng, chuyện đời có có không không, cũng đành!


THÂN TRỌNG SƠN
CHS ( 60-63 )
CGV ( 71-78 )