vendredi 20 août 2010

HÃY ĐỢI ANH





Đợi anh em nhé, anh về,
Vững lòng chờ đợi, em nhé,
Hãy đợi, khi mưa thu vàng
Gợi lòng người buồn tái tê.
Hãy đợi, khi đông tuyết giá,
Hãy đợi, khi hạ nắng thiêu,
Hãy đợi, khi qua ngày tháng,
Không còn ai chờ đợi ai.
Hãy đợi, khi từ xa lắc
Thư tin chẳng mấy khi về
Hãy đợi, khi người cùng cảnh
Chán chê, chẳng thiết đợi chờ.


Đợi anh em nhé, anh về,
Những điều tốt đẹp đừng chúc
Cho ai vẫn tâm niệm rằng
Đến nay quên là phải lúc.
Cho dù cả con và mẹ
Đều tin là anh không còn.
Cho dù bằng hữu bỏ cuộc
Ngồi bên bếp lửa quây quần
Cùng nhau uống ly rượu đắng
Tưởng niệm linh hồn bạn thân
Thì em cũng hãy cứ chờ
Đừng vội cùng người nâng cốc !


Đợi anh em nhé, anh về,
Kiêu hãnh nhạo cười cái chết
Cứ để ai không chờ đợi
Buông lời : Chỉ may đấy thôi !
Không đợi, làm sao họ biết
Giữa làn đạn lửa bom mưa
Việc em trông ngóng đợi chờ
Đã cứu cho anh khỏi chết.
Em ạ, chỉ đôi ta thôi
Hiểu nhờ đâu anh sống sót :
Đơn giản vì em biết đợi
Không như bao nhiêu người khác.

KONSTANTIN SIMONOV, 1941


THÂN TRỌNG SƠN dịch

( Theo bản tiếng Anh : Wait for me. Tham khảo bản tiếng Pháp : Attends-moi )



Wait For Me –
Konstantin Simonov, 1941

Wait for me, and I will return.
Only truly wait.
Wait while bringing sorrow
The autumn rains come late.
Wait while snow is blowing,
Wait while heat burns haze,
Wait while others cease to wait,
Forgetting yesterdays.
Wait when letters cease to come
From places far away,
Wait, while others tire of waiting
Together day after day.


Wait for me, and I will return.
Wish no good to those you’ve met
Who tell you, without thinking,
That it is time to forget.
Let my son and mother believe
That I have met my doom,
Let my friends all quit their hopes,
In the fire-lit gloom
Let them drink their bitter wine,
In memoriam…
Wait. Oh, do not hasten
To sit and drink with them.


Wait for me, and I will return,
Despite all death can do.
Let those who didn’t wait for me
Say “Just lucky he came through.”
Those who didn’t wait can’t know
How, while battle blazed,
Just by waiting for your own
Me you truly saved.
We will know how I survived
Only just us two:
Simply, you knew how to wait
As no one else could do




Attends-moi
(Simonov, 1941)


Si tu m'attends, je reviendrai,
Mais attends-moi très fort.
Attends, quand la pluie jaune
Apporte la tristesse,
Attends quand la neige tournoie,
Attends quand triomphe l'été
Attends quand le passé s'oublie
Et qu'on attend plus les autres.
Attends quand des pays lointains
Il ne viendra plus de courrier,
Attends, lorsque seront lassés
Ceux qui avec toi attendaient.


Si tu m'attends, je reviendrai.
Ne leur pardonne pas, à ceux
Qui vont trouver les mots pour dire
Qu'est venu le temps de l'oubli.
Et s'ils croient, mon fils et ma mère,
S'ils croient, que je ne suis plus,
Si les amis las de m'attendre
Viennent s'asseoir auprès du feu,
Et s'ils portent un toast funèbre
A la mémoire de mon âme..
Attends. Attends et avec eux
refuse de lever ton verre.


Si tu m'attends, je reviendrai
En dépit de toutes les morts.
Et qui ne m'a pas attendu
Peut bien dire : "C'est de la veine".
Ceux qui ne m'ont pas attendu
D'où le comprendraient-ils, comment
En plein milieu du feu,
Ton attente
M'a sauvé.
Comment j'ai survécu, seuls toi et moi
Nous le saurons,
C'est bien simple, tu auras su m'attendre,
comme personne.



Nguyên tác bài thơ này là tiếng Nga, với nhan đề “Жди меня” , của nhà thơ ( nhà văn, nhà biên kịch ) Константин Михайлович Симонов ( Konstantin Mikhailovich Simonov , 1915 - 1979 ) sáng tác năm 1941, dành tặng cho người yêu là nghệ sĩ Valentina Serova. Bài thơ ra đời trong thời gian phát xít Đức dữ dội tấn công Liên Xô. Trong thời kỳ chiến tranh, bài thơ đã được phổ biến rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng, vì tâm trạng của nhà thơ cũng là tâm trạng của bao nhiêu thanh niên ra mặt trận, với lời nhắn gởi về người yêu, người vợ ở hậu phương.


Bản dịch tiếng Việt đầu tiên là của Tố Hữu, “ Đợi Anh về “ , dịch từ bản tiếng Pháp, ban đầu được phổ biến trên báo chí từ năm 1949, sau được đưa in vào trong tập thơ Việt Bắc.
Ở miền Nam ít người tiếp cận được bài thơ dịch này nhưng lại được nghe bài ca cùng tên do nhạc sĩ Văn Chung ( 1914-1984 ) phổ nhạc, qua tiếng hát Elvis Phương :


Em ơi ! Đợi anh về ! Đợi anh hoài em nhé,
mưa có rơi dầm dề, ngày có buồn lê thê
thì em ơi em cứ đợi ...

Em ơi ! em cứ đợi dù tuyết rơi gió nổi,
dù nắng cháy em ơi ...! (1)
Bạn cũ đã quên rồi, đợi anh hoài em nhé .
Tin anh dù vắng vẻ, lòng ai dù tái tê,
chẳng mong chi ngày về
thì em ơi em cứ đợi ...

Đợi anh, anh lại về trong tiếng cười ngạo nghễ
đợi anh, anh lại về trong tiếng cười ngạo nghễ

Ai ngày xưa rơi lệ hẳn cho sự tình cờ
ai ngày xưa rơi lệ, nào có biết bao giờ
nào có biết bao giờ bởi vì em ước mong,
nào có biết bao giờ bởi vì em trông ngóng

Trông cho tan giặc bước đường quê (2)
anh của em lại về ...
Anh của em lại về
Anh của em lại về .

( Đợi Anh về - Nhạc : Văn Chung , Lời : thơ Tố Hữu )

(1) Elvis Phương hát là : “ dù gió lên bão nổi / dù nắng cháy sương rơi “
(2) Elvis Phương : “ … tan giặc phía đường xa “
Cả hai “cải biên” này đều không đúng.






Sau này, khi có điều kiện đọc được toàn vẹn bài thơ dịch của Tố Hữu, ta có thể nhận thấy rằng, cũng như nhiều nhạc sĩ khác đã làm khi phổ thơ, Văn Chung không lấy nguyên văn toàn bài thơ. Có lẽ vì muốn nhấn mạnh ở cái tâm trạng lạc quan, tin tưởng của người chiến sĩ ở mặt trận - tin ở ngày chiến thắng sẽ đến, tin ở sự chờ đợi thủy chung của người yêu – nên nhạc sĩ đã chuyển đoạn nhạc cuối sang nhịp điệu hùng mạnh, dồn dập và kết thúc bằng cách lặp lại “ Anh của em lại về ”. Người nghe nhạc có thể thỏa mãn, nhưng người đã đọc thơ lại tiếc vì nhạc sĩ đã bỏ mất cái tứ rất đắt ở đoạn kết bài thơ.


Ceux qui ne m'ont pas attendu
D'où le comprendraient-ils, comment
En plein milieu du feu,
Ton attente
M'a sauvé.
Comment j'ai survécu, seuls toi et moi
Nous le saurons,
C'est bien simple, tu auras su m'attendre,
comme personne.


Không đợi, làm sao họ biết
Giữa làn đạn lửa bom mưa
Việc em trông ngóng đợi chờ
Đã cứu cho anh khỏi chết.
Em ạ, chỉ đôi ta thôi
Hiểu nhờ đâu anh sống sót :
Đơn giản vì em biết đợi
Không như bao nhiêu người khác.
( TTS )



Bài thơ dịch của Tố Hữu :

Đợi Anh về.
Em ơi, đợi anh về
Đợi anh hoài em nhé,
Mưa cứ rơi dầm dề
Ngày cứ dài lê thê
Thì em ơi cứ đợi.

Dù tuyết rơi gió nổi
Dù nắng cháy em ơi
Bạn cũ có quên rồi
Đợi anh hoài em nhé.

Tin anh dù vắng vẻ,
Lòng ai dù tái tê
Chẳng mong chi ngày về
Thì em ơi, cứ đợi.

Em ơi, em cứ đợi
Dù ai nhớ thương ai
Chẳng mong có ngày mai
Dù mẹ già con dại
Hết mong anh trở lại

Dù bạn viếng hồn anh
Yên nghỉ nấm mồ xanh
Nâng chén tình dốc cạn
Thì em ơi mặc bạn
Đợi anh hoài em nghe
Tin rằng anh sắp về!

Đợi anh, anh lại về
Trông chết cười ngạo nghễ
Ai ngày xưa rơi lệ
Hẳn cho sự tình cờ

Nào có biết bao giờ
Bởi vì em ước vọng,
Bởi vì em trông ngóng
Tan giặc, bước đường quê
Anh của em lại về.

Vì sao anh chẳng chết
Nào bao giờ ai biết
Có gì đâu em ơi
Chỉ vì không ai người
Biết như em chờ đợi.


Tố Hữu dịch bài thơ này từ bản tiếng Pháp. Tra cứu trên mạng ta có thể tìm thấy nhiều bản dịch tiếng Anh khác nhau nhưng chỉ có một bản tiếng Pháp duy nhất, không ghi tên người dịch. Các bản dịch đều khá trung thành với nguyên tác, kể cả phần bố cục. Nhan đề các bài thơ dịch đều sát với nguyên tác tiếng Nga “ Жди меня ” ( Attends-moi , Wait for me, Hãy đợi anh ). Жди меня được lặp lại ở câu đầu của cả ba khổ thơ : “ Жди меня, и я вернусь.” Hãy đợi anh, và anh sẽ trở về. Жди, thức mệnh lệnh của động từ җдaть, sau đó còn được lặp lại sáu lần trong khổ thơ thứ nhất. Hãy đợi anh, hãy đợi, hãy đợi, hãy đợi … Đó là lời nhắn gởi, gần như là lời cầu khẩn thiết tha, của người chiến sĩ ngoài mặt trận với người vợ / người yêu ở hậu phương, với lòng mong mỏi, niềm tin tưởng rằng sự chờ đợi kiên trì của người ở lại sẽ giúp anh vượt qua hiểm nguy, gian khổ để trở về. Điều đáng ngạc nhiên là bản dịch tiếng Pháp sau nhan đề Attends-moi dịch đúng nguyên tác Жди меня thì các câu đầu của mỗi khổ đều đổi là “ Si tu m’attends ” Cái ý nhắn gởi, hứa hẹn, động viên … của Жди меня, Hãy đợi anh, mà chuyển thành “ Si tu m’attends ” “ Nếu em đợi anh, … ” e có phần yếu đuối, bi quan quá chăng.


Tuy không tham khảo nguyên tác tiếng Nga mà chỉ căn cứ vào bản tiếng Pháp để dịch, Tố Hữu đã không lệ thuộc vào mệnh đề “ Si tu m’attends ”đó mà vẫn viết “ Đợi Anh về ”, “ Đợi anh hoài em nhé …” Đó không phải là chi tiết duy nhất chứng tỏ tính độc lập của nhà thơ khi làm công việc chuyển ngữ. Nếu bản tiếng Pháp theo sát nguyên tác ở hình thức một bài thơ ba khổ, mỗi khổ mười hai câu, thì “Đợi anh về” lại là một bài có tám khổ thơ với số câu mỗi khổ không đều nhau. Bài dịch, với thể thơ năm chữ, thoát ra hẳn văn bản gốc, nhất là với những lối diễn đạt, những hình ảnh quen thuộc, gần gũi
với thơ Việt.

- Em ơi em cứ đợi
Em ơi, đợi anh về

- Tan giặc, bước đường quê
Anh của em lại về.

Và đây nữa, chẳng ai nghĩ là thơ dịch :
Mưa cứ rơi dầm dề
Ngày cứ dài lê thê.

Hai câu này chuyển từ :
Attends, quand la pluie jaune
Apporte la tristesse.

La pluie jaune, cơn mưa vàng, hình ảnh này chưa thấy trong thơ Pháp, trong tiếng Pháp. Cũng phải thôi vì dịch giả Pháp đã dịch sát từ nguyên tác tiếng Nga :
Жди, когда наводят грусть
Желтые дожди,
Pluie jaune, mưa vàng, chính là желтые дожди đó.

Đọc tiếp những câu sau, ta có thể hiểu được, qua mạch văn, ý tứ của người chiến sĩ nhắn gởi người ở nhà hãy kiên trì chờ đợi bất chấp biến chuyển của thiên nhiên, qua dòng chảy của thời gian, qua tuyết đông, nắng hạ. Vậy thì mưa vàng chính là mưa mùa thu, khi cảnh vật âm u, vàng vọt, gợi nên nỗi sầu không dứt. Phải chăng với cách hiểu như thế mà một dịch giả tiếng Anh đã thêm vào tính từ « dreary » ( là thê lương, ảm đạm) không có trong nguyên tác ? :
( Wait for me, and I’ll come back !
Wait with all you’ve got )
Wait, when dreary yellow rains
Tell you, you should not.


Tố Hữu đã thoát khỏi những hình ảnh xa lạ đó bằng hai câu “ Mưa cứ rơi dầm dề / Ngày cứ dài lê thê ”, đọc lên nghe như thơ sáng tác chứ không phải thơ dịch.
Ở những ví dụ nêu trên, lối dịch thoát như thế có thể tạo được sự đồng cảm nơi người đọc vì dù sao ý tưởng, tâm trạng của tác giả vẫn được tôn trọng, chỉ có cách diễn đạt là khác thôi. Tuy nhiên, khi đọc tiếp những khổ thơ sau thì người đọc khó chia sẻ được với chủ ý của dịch giả .

Dù bạn viếng hồn Anh
Yên nghỉ nấm mồ xanh
Nâng chén tình dốc cạn
Thì Em ơi mặc bạn
Đợi anh hoài nghe em
Tin rằng anh sắp về.

Đối chiếu với văn bản gốc dưới đây thì sáu câu thơ dịch trên, do “ thoát ” quá xa nên có phần mất đi sự tinh tế, ý nhị, nhất là ở hai câu : “Yên nghỉ nấm mồ xanh / Nâng chén tình dốc cạn “

Si les amis las de m'attendre
Viennent s'asseoir auprès du feu,
Et s'ils portent un toast funèbre
A la mémoire de mon âme..
Attends. Attends et avec eux,
refuse de lever ton verre.

Cho dù bằng hữu bỏ cuộc
Ngồi bên bếp lửa quây quần
Cùng nhau uống ly rượu đắng
Tưởng niệm linh hồn bạn thân
Thì em cũng hãy cứ chờ
Đừng vội cùng người nâng cốc !
( TTS )

Hãy đọc thêm khổ thơ tiếp theo :

Đợi anh, anh lại về
Trông chết cười ngạo nghễ
Ai ngày xưa rơi lệ
Hẳn cho sự tình cờ.

Dù ủng hộ mọi sáng tạo của nhà thơ khi chuyển ngữ, người đọc vẫn thấy có gì đó không ổn trong câu « trông chết cười ngạo nghễ » : trong tiếng Việt động từ « chết » nếu dùng như danh từ phải nói là « cái chết, sự chết », trông ( nhìn ) cái chết, chứ nói « trông chết » nghe sao kỳ kỳ !. Chỗ này bản tiếng Pháp là « en dépit de toutes les morts » , và bản tiếng Anh « despite all death can do », gần sát với nguyên tác tiếng Nga « Всем смертям назло ” , trêu ngươi mọi cái chết . Có lẽ cũng vì thấy điều này nên nhạc sĩ Văn Chung khi phổ nhạc bài thơ này đã sửa thành « trong tiếng cười ngạo nghễ » để giữ được tiếng Việt trong sáng, nhưng tiếc thay lại làm mất đi cái ý trêu ngươi / xem thường / bất chấp mọi cái chết.

Mạch cảm xúc đã đẩy người dịch đi quá xa ở hai câu tiếp theo « Ai ngày xưa rơi lệ / Hẳn cho sự tình cờ » , cả tình lẫn ý không gắn với nội dung toàn bài, không hề có trong nguyên tác, cũng không thấy trong bất kỳ một bản dịch nào.

Một vài từ, một vài câu, một vài ý đọc được trong bản dịch mà khi đối chiếu với nguyên bản thấy hoàn toàn xa lạ, điều này vẫn thường xảy ra bởi, suy cho cùng, trong dịch thuật văn học, việc trung thành tuyệt đối với văn bản gốc là điều khó có thể thực hiện được. Người dịch quan tâm nhiều nhất đến việc chuyển tải nội dung, ý nghĩa của văn bản gốc bằng sự diễn đạt qua một ngôn ngữ khác với tất cả những đặc trưng về ngữ nghĩa, cú pháp, phong cách… của nó. Mỗi ngôn ngữ lại có cách thể hiện riêng cho nên thử thách lớn nhất – nếu không nói là rủi ro lớn nhất – của người dịch là việc không trung thành với nguyên tác về nội dung hay hình thức, về văn phong hay ý nghĩa, về tư duy hay tình cảm. Có vẻ như phần lớn dịch giả chuộng một bản dịch « đẹp » hơn một bản dịch « sát » bởi ai cũng muốn bản dịch của mình cũng là một tác phẩm nghệ thuật đích thực.


THÂN TRỌNG SƠN
8/2010