dimanche 24 août 2025

Một vụ đắm tàu tâm lý

 

MỘT VỤ ĐẮM TÀU TÂM LÝ

Ambrose Bierce

( 1842 - 1913 )

 



Ambrose Bierce sinh năm 1842 tại Ohio, là con thứ 10 trong một gia đình có tới 13 người con. Lúc ông còn nhỏ, gia đình chuyển đến Warsaw, rồi Elkhant, Indiana. Cha mẹ ông không giàu có gì nhưng rất ham mê văn chương, và ảnh hưởng giáo dục quan trọng nhất 

Ambrose Bierce thu nhận là từ tủ sách trong nông trại của gia đình.  

Năm 17 tuổi, ông vào học ở Học viện Quân sự Kentucky, sớm hoà nhập với lối sống và kỷ luật quân đội. Khi sắp xảy ra Nội chiến Hoa Kỳ, ông rời học viện và trở về Indiana (1860).

Ông gia nhập quân đội ngay sau khi Tổng thống Lincoln kêu gọi 75000 quân tình nguyện, và trực tiếp chiến đấu tại nhiều mặt trận. Với quân hàm trung uý, ông phục vụ trong bộ chỉ huy của tướng W.B. Hazen, với tư cách kỹ sư địa hình, nghiên cứu địa hình và chuẩn bị bản đồ hành quân. Tháng 6/1864 ông bị thương và năm sau thì giải ngũ.

 

Trở lại đời sống dân sự, ông bắt đầu theo đuổi niềm đam mê viết lách thời trẻ bằng việc viết báo, ban đầu là những tiểu luận và chuyện phiếm. Ít lâu sau, ông tham gia ban biên tập tạp chí News-Letters, có cơ hội gặp và làm quen với nhiều nhà báo, nhà văn nổi tiếng, trong đó có Mark Twain.


Cuối thập niên 1880, ông chuyển dần sang viết truyện ngắn và công bố tác phẩm đầu tiên The Haunted Valley ( Thung lũng bị ma ám ) trên tờ Overland Monthly. 

Năm 1872, ông thôi làm ở tờ News-Letters rồi cùng vợ sang Anh quốc sinh sống. Nơi đây, ông tiếp tục sáng tác và thử nghiệm thể loại văn châm biếm. Vào cuối những năm 1880, ông quay về San Francisco, bắt đầu viết cuốn The Devil’s Dictionary, kiểu như “ từ điển tra ngược “, cho những định nghĩa lạ và vui. Cũng thời gian này, ông tập trung viết về đề tài cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.


Năm 1888, hai vợ chồng ông ly dị. Năm sau con trai 18 tuổi của ông chết. Những chuyện buồn này, tuy thế, không ngăn cản mạch sáng tác của ông. Ông xuất bản tác phẩm quan trọng Tales of Soldiers and Civilians ( Truyện kể về người lính và thường dân ), là tuyển tập những truyện ngắn về đề tài chiến tranh, có tiếng vang lớn trên văn đàn.

Mùa thu năm 1913, ông đi thăm lại những chiến trường ngày trước đã tham gia. Ông đi qua biên giới nước Mexico, trong bức thư gửi từ Chihuahua đề ngày 26/12 năm đó, ông kết thúc với dòng chữ: “ Về phần tôi, ngày mai tôi sẽ rời nơi đây để đi tới một nơi chưa biết. “ Và sau đó ông biến mất. Có nhiều tin đồn, nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của ông, nhưng đến nay không có thông tin chính xác và rõ ràng về những ngày cuối cùng của con người bí ẩn này.


Vừa là nhà báo, vừa là nhà văn, Ambrose Bierce sáng tác nhiều thể loại, tiểu luận, châm biếm, thơ, và nổi tiếng hơn cả với truyện ngắn. Hai mảng đề tài lớn trong truyện ngắn Ambrose Bierce là chiến tranh và truyện kinh dị.


Ambrose Bierce, bậc thầy của truyện ngắn Mỹ thế kỷ XIX, nổi tiếng với bút pháp lạnh lùng, hoài nghi, và ám ảnh những hiện tượng siêu hình. Trong “A Psychological Shipwreck”, ông dựng nên một câu chuyện tưởng chừng đơn giản về một vụ đắm tàu, nhưng thực chất lại là một cuộc du hành kỳ lạ trong cõi tâm linh, nơi ranh giới giữa thực tại và ảo tưởng bị xóa nhòa. Truyện vừa mang dáng dấp của một tường thuật phiêu lưu, vừa gợi nên chiều sâu triết lý về số phận, về mối liên hệ bí ẩn giữa con người và định mệnh.

Người kể chuyện, William Jarrett, quyết định đi tàu buồm Morrow thay vì tàu hơi nước City of Prague. Trên Morrow, anh quen biết Janette Harford, cô gái trẻ gắn với một người hầu da đen và một quá khứ lạ lùng. Giữa Jarrett và Janette nảy sinh một sự hấp dẫn mơ hồ, không hẳn là tình yêu mà như một sức hút định mệnh. Trong một khoảnh khắc kỳ dị khi nàng nhìn vào mắt anh, Jarrett rơi vào một trạng thái “xuất hồn”, nơi anh cảm thấy vô số linh hồn đang nhìn mình qua đôi mắt nàng. Sau đó, Morrow gặp bão, chìm xuống biển; Janette bị cuốn trôi, Jarrett ngất đi.

Khi tỉnh dậy, Jarrett bất ngờ thấy mình đang ở trên City of Prague, con tàu anh vốn đã từ chối, bên cạnh bạn mình, Gordon Doyle. Doyle khẳng định Jarrett đã đi trên tàu này suốt ba tuần, hoàn toàn khỏe mạnh. Càng kinh ngạc hơn, Doyle tiết lộ rằng chính anh mới là vị hôn phu của Janette, và cô đang đi trên Morrow để tránh bị phát hiện. Sau cùng, khi họ cập cảng New York, người ta không bao giờ còn nghe tin tức gì từ con tàu Morrow.

Câu chuyện mở ra một nghịch lý: Jarrett vừa là nhân chứng của vụ chìm tàu Morrow, vừa là hành khách an toàn trên City of Prague. Sự song trùng này được giải thích phần nào qua đoạn trích trong cuốn Denneker’s Meditations mà cả Janette và Doyle đều sở hữu: có những linh hồn cùng huyết thống, khi đường đời giao nhau, sẽ bị cuốn hút, đồng hành một thời gian, trong khi thể xác vẫn đi trên những lộ trình riêng biệt mà không hay biết.

Jarrett, trùng tên với một người đàn ông Nam Carolina gắn bó với gia đình Janette, dường như là “họ hàng xa” — một mối dây huyết thống mờ nhạt nhưng đủ để tạo ra sự liên kết tâm linh. Vì thế, trong khoảnh khắc đặc biệt trên Morrow, linh hồn anh tách rời khỏi thể xác và “du hành” cùng Janette, chứng kiến cả sự hủy diệt của con tàu. Nhưng trên bình diện thực tại, thân xác anh vẫn đi trên City of Prague.

Như vậy, “con tàu đắm” ở đây vừa là sự kiện có thực (Morrow biến mất), vừa là “vụ đắm tàu tâm lý” — cú sốc của tâm thức, khi con người trải nghiệm một thực tại song song, nơi linh hồn bị lôi kéo vượt ra ngoài logic của thân xác.

Mối quan hệ giữa Jarrett và Janette mang màu sắc mơ hồ, phi tình dục và phi lãng mạn theo nghĩa thông thường. Đó là một sự gần gũi định mệnh, một “tương giao linh hồn” hơn là tình yêu. Cái chết của Janette (hay chính xác hơn, sự mất tích vĩnh viễn cùng Morrow) biến mối liên hệ ấy thành một ám ảnh không thể giải thích.


Bierce cố tình để lại khoảng trống: Jarrett đã thật sự trải qua vụ đắm tàu, hay chỉ là một giấc mộng kỳ bí trong lúc đi tàu? Janette thực sự biến mất cùng Morrow, hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng bị ám ảnh bởi những trang sách siêu hình? Tính chất mơ hồ ấy tạo nên bi kịch: một tình cảm kỳ lạ vừa mới chớm đã bị nuốt chửng bởi hư vô, để lại trong Jarrett một nỗi trống rỗng không thể lấp đầy.


 Ý nghĩa biểu tượng

Con tàu Morrow: tượng trưng cho cõi vô thức, nơi Jarrett trải nghiệm sự tan rã, mất mát và cái chết.

City of Prague: biểu tượng cho cõi ý thức, an toàn và hợp lý, nhưng lại nghèo nàn về cảm xúc.

Janette Harford: hiện thân của “linh hồn đồng điệu”, một nửa bóng mờ mà Jarrett chỉ có thể gặp trong miền giao thoa tinh thần, không bao giờ trong đời thực.

Denneker’s Meditations: chiếc chìa khóa triết học mở ra giả thuyết về sự song hành của linh hồn và thân xác, giải thích nhưng cũng đồng thời che mờ mọi ranh giới giữa thực và ảo. Ambrose Bierce thường viết về chiến tranh, cái chết, sự phi lý và hư vô. Trong “A Psychological Shipwreck”, ông không miêu tả những cảnh chém giết, mà khai thác chính sự mong manh của ý thức con người trước định mệnh. Jarrett trở thành kẻ sống sót — nhưng là một kẻ sống sót bị ám ảnh, kẹt giữa hai thực tại không dung hòa được. Bi kịch của anh không phải là cái chết, mà là sống sót với ký ức của một cái chết đã chứng kiến.


Tác phẩm, vì thế, không chỉ là một câu chuyện siêu nhiên, mà còn là một ẩn dụ sâu sắc: con người, trong khoảnh khắc, có thể thoát khỏi thân xác và trải nghiệm những chiều kích khác của tồn tại, nhưng khi quay lại thực tại, họ chỉ còn lại nỗi ám ảnh — một “vụ đắm tàu tâm lý” trong chính cõi lòng mình.



* * *


Vào mùa hè năm 1874, tôi có mặt ở Liverpool, nơi tôi đến vì công việc của hãng buôn Bronson & Jarrett, New York. Tôi là William Jarrett; đối tác của tôi là Zenas Bronson. Công ty đã phá sản vào năm ngoái, và không chịu nổi cú ngã từ giàu sang xuống nghèo túng, ông ấy đã qua đời.


Khi hoàn tất công việc và cảm thấy sự mệt mỏi, kiệt sức vốn luôn đi kèm sau những chuyến đi bận rộn, tôi nghĩ rằng một chuyến hải trình dài sẽ vừa thú vị vừa có lợi cho sức khỏe. Thế nên, thay vì trở về trên một trong những con tàu hơi nước chở khách sang trọng, tôi đã đặt vé đi New York bằng chiếc thuyền buồm Morrow, trên đó tôi cũng đã gửi theo một lô hàng lớn và giá trị những món hàng mình vừa mua. Morrow là một con tàu Anh, tất nhiên, chỉ có rất ít chỗ cho hành khách. Ngoài tôi ra, chỉ có một cô gái trẻ và người hầu của cô, một phụ nữ da đen trung niên. Tôi thấy lạ khi một thiếu nữ người Anh đi xa lại được chăm sóc bởi một người hầu như vậy; sau đó, cô giải thích rằng người phụ nữ này từng được một cặp vợ chồng từ Nam Carolina gửi lại cho gia đình cô, và cả hai vợ chồng đó đã qua đời cùng ngày tại nhà cha cô ở Devonshire — một sự kiện vốn dĩ đã đủ kỳ lạ để in sâu vào trí nhớ tôi, ngay cả khi sau này, qua trò chuyện với cô gái, tôi mới biết người đàn ông ấy cũng mang tên William Jarrett, giống hệt tên tôi. Tôi vốn biết có một nhánh gia đình mình đã định cư ở Nam Carolina, nhưng về họ và lịch sử của họ thì tôi hoàn toàn không rõ.


Morrow rời cửa sông Mersey ngày 15 tháng Sáu, và trong nhiều tuần liền, chúng tôi được hưởng gió thuận và trời trong. Thuyền trưởng, một hoa tiêu tuyệt hảo nhưng chẳng có gì hơn, rất hiếm khi trò chuyện với chúng tôi ngoài bữa ăn chung trên bàn ông. Vì thế, cô gái trẻ, tên là Janette Harford, và tôi trở nên rất thân thiết. Chúng tôi gần như lúc nào cũng ở bên nhau, và do vốn là người hay suy tưởng, tôi thường cố gắng phân tích, tìm hiểu cảm giác lạ lùng mà cô gợi lên nơi tôi — một sức hút bí mật, tinh tế nhưng mạnh mẽ, không ngừng thôi thúc tôi tìm đến gần nàng. Nhưng mọi nỗ lực định nghĩa nó đều vô ích. Tôi chỉ chắc chắn một điều: đó không phải là tình yêu. Khi đã tự khẳng định điều ấy, và tin chắc rằng nàng cũng hoàn toàn vô tư như tôi, một buổi tối (tôi còn nhớ rõ là ngày 3 tháng Bảy), khi chúng tôi ngồi trên boong tàu, tôi nửa đùa nửa thật hỏi nàng liệu có thể giúp tôi tháo gỡ nỗi băn khoăn tâm lý ấy chăng.


Trong chốc lát, nàng im lặng, ngoảnh mặt đi. Tôi bắt đầu lo rằng mình đã quá thô lỗ và khiếm nhã. Rồi bất ngờ, nàng quay lại, đôi mắt nhìn thẳng vào mắt tôi, nghiêm trang. Ngay lập tức, tâm trí tôi bị chiếm lĩnh bởi một ảo giác kỳ dị, có lẽ là kỳ dị nhất từng xảy ra trong ý thức con người. Tôi có cảm giác như nàng không phải đang nhìn bằng đôi mắt ấy, mà là từ sau chúng, từ một khoảng cách vô tận phía sau. Và quanh nàng, có nhiều hình bóng khác: đàn ông, phụ nữ, trẻ con, những khuôn mặt thoáng qua với những nét quen thuộc khó nắm bắt, chen chúc quanh nàng, cùng háo hức dịu dàng nhìn tôi qua chính đôi mắt ấy. Con tàu, đại dương, bầu trời, tất cả đều biến mất. Tôi không còn ý thức gì ngoài những hình ảnh lạ thường ấy.


Rồi đột ngột, bóng tối phủ xuống tôi. Và rồi, cũng như một người dần quen với ánh sáng mờ nhạt, khung cảnh cũ của boong tàu, cột buồm và dây chão từ từ hiện ra trở lại. Cô Harford đã nhắm mắt, ngả người ra ghế, dường như đang ngủ, cuốn sách nàng đọc còn mở trên đùi. Bị thôi thúc bởi một động cơ mà chính tôi không thể nào giải thích, tôi liếc nhìn lên đầu trang sách: đó là bản in của tác phẩm hiếm và kỳ lạ Những suy tưởng của Denneker, và ngón tay trỏ của nàng đang đặt trên đoạn văn này:


“Có những kẻ được ban cho đặc ân tách rời khỏi thân xác trong một thời gian; cũng như những dòng suối giao nhau, dòng yếu sẽ bị cuốn theo dòng mạnh, thì cũng có những kẻ cùng huyết thống, đường đời giao cắt, linh hồn họ có thể đồng hành, trong khi thể xác vẫn đi theo số mệnh riêng mà chẳng hề hay biết.”


Cô Harford bỗng đứng dậy, rùng mình; mặt trời đã lặn xuống dưới đường chân trời, nhưng không hề có gió lạnh. Trời lặng gió, không một gợn mây, nhưng cũng chẳng có ngôi sao nào hiện ra. Tiếng bước chân dồn dập vang trên boong; thuyền trưởng, vừa được gọi từ dưới khoang, bước nhanh đến chỗ viên sĩ quan thứ nhất, người đang chăm chú nhìn vào khí áp kế. Tôi nghe ông ta kêu lên:


 “Lạy Chúa!”


Một giờ sau, hình dáng Janette Harford, chìm khuất trong bóng tối và màn sóng tung toé, bị xé khỏi vòng tay tôi bởi cơn lốc tàn nhẫn của con tàu đang chìm. Tôi ngất lịm đi, còn thân mình thì được buộc chặt vào những sợi dây cột của cột buồm đang trôi nổi.


Tôi tỉnh dậy trong ánh đèn dầu. Tôi nằm trên một chiếc giường trong căn phòng quen thuộc của khoang hạng nhất trên một con tàu hơi nước. Trên chiếc ghế dài đối diện ngồi một người đàn ông, nửa chừng thay đồ ngủ, tay cầm một cuốn sách. Tôi nhận ra gương mặt của bạn mình — Gordon Doyle, người tôi đã gặp ở Liverpool hôm tôi xuống tàu. Khi ấy, anh ta chuẩn bị khởi hành trên con tàu hơi nước City of Prague và đã từng khuyên tôi nên đi cùng.


Sau vài phút, tôi cất tiếng gọi tên anh ta. Anh chỉ đáp gọn:

- Ừ.

Rồi lật sang trang khác, mắt không rời khỏi cuốn sách.

- Doyle, tôi lặp lại, họ có cứu được cô ấy không? Lúc này anh mới đoái hoài nhìn tôi, mỉm cười như thể bị chọc cười. Rõ ràng anh tưởng tôi vẫn còn ngái ngủ.


- Cô ấy à? Ý anh là ai?
- Janette Harford.

Nụ cười thích thú biến thành sững sờ; anh nhìn tôi chằm chằm, không thốt lời nào.

- Rồi anh sẽ kể cho tôi sau, tôi nói tiếp, tôi chắc chắn rồi anh sẽ kể cho tôi sau.

Một lát sau tôi hỏi:

- Đây là con tàu nào?

Doyle lại nhìn tôi chằm chằm lần nữa.

- Tàu hơi nước City of Prague, khởi hành từ Liverpool đi New York, đã ra khơi ba tuần thì gãy trục. Hành khách chính: ngài Gordon Doyle. Đi kèm: gã điên William Jarrett. Hai hành khách đáng kính này cùng lên tàu, nhưng sắp sửa chia tay, vì vị khách thứ nhất kiên quyết định tống vị khách thứ hai xuống biển.

Tôi bật ngồi dậy:

- Anh muốn nói rằng tôi đã đi trên con tàu này suốt ba tuần qua?

- Ừ, gần như thế; hôm nay là mồng 3 tháng Bảy.

- Tôi có bị ốm không?

- Khỏe như vâm, bữa nào cũng ăn uống đúng giờ.

- Lạy Chúa, Doyle, ở đây có điều gì bí ẩn! Làm ơn hãy nghiêm túc. Tôi chẳng phải đã được cứu khỏi vụ đắm tàu Morrow sao?

Sắc mặt Doyle đổi khác. Anh bước lại gần, đặt mấy ngón tay lên cổ tay tôi. Một lát sau, anh hỏi rất bình tĩnh:

- Anh biết gì về Janette Harford?

- Trước hết, hãy cho tôi biết anh biết gì về cô ấy?

Doyle nhìn tôi một hồi lâu, như cân nhắc xem nên làm gì. Rồi anh lại ngồi xuống ghế dài, nói:

- Vì sao lại không kể nhỉ? Tôi đã đính hôn với Janette Harford, người tôi gặp ở London cách đây một năm. Gia đình cô ấy, một trong những gia đình giàu có nhất ở Devonshire, đã phản đối kịch liệt, và chúng tôi đã bỏ trốn. Nói đúng hơn là đang bỏ trốn, bởi hôm anh và tôi cùng đi ra bến tàu để lên con tàu này, thì cô ấy cùng người hầu trung thành, một phụ nữ da đen, đã đi ngang qua chúng ta, trên xe ngựa hướng tới tàu Morrow. Nàng không chịu đi cùng chuyến tàu với tôi, và chúng tôi thấy tốt hơn nếu nàng đi tàu buồm, để tránh bị dòm ngó và giảm thiểu nguy cơ bị phát hiện. Giờ tôi chỉ lo việc hỏng máy chết tiệt này sẽ giữ chân chúng ta quá lâu, khiến Morrow đến New York trước, và tội nghiệp thay, nàng sẽ chẳng biết đi đâu tìm tôi.

Tôi nằm im trên giường, im lặng đến mức gần như không thở. Nhưng câu chuyện ấy dường như chẳng làm Doyle bận lòng, và sau một thoáng ngừng, anh tiếp lời:


- À, nhân tiện, cô ấy chỉ là con nuôi nhà Harford thôi. Mẹ cô ấy chết ngay tại điền trang vì bị ngã ngựa trong một cuộc săn, còn người cha, phát điên vì đau khổ, đã tự vẫn ngay trong ngày hôm đó. Không ai đến nhận đứa trẻ cả, và sau một thời gian hợp lý, gia đình Harford đã nhận nuôi cô. Cô lớn lên trong niềm tin rằng mình là con ruột của họ.

- Doyle, anh đang đọc sách gì vậy?
- Ồ, tên là Những suy tưởng của Denneker. Khá kỳ lạ đấy, Janette tặng tôi cuốn này; tình cờ cô ấy có hai bản. Anh có muốn xem không?

Anh ném cho tôi cuốn sách; nó mở ra khi rơi xuống. Trên một trong những trang lộ ra có đánh dấu đoạn sau:

“Có những kẻ được ban cho đặc ân tách rời khỏi thân xác trong một thời gian; cũng như những dòng suối giao nhau, dòng yếu sẽ bị cuốn theo dòng mạnh, thì cũng có những kẻ cùng huyết thống, đường đời giao cắt, linh hồn họ có thể đồng hành, trong khi thể xác vẫn đi theo số mệnh riêng mà chẳng hề hay biết.”

- Nàng đã… nàng có… một sở thích kỳ lạ trong việc đọc sách, tôi gượng nói, cố chế ngự sự bối rối.

- Đúng vậy. Và giờ thì có lẽ anh vui lòng giải thích làm sao anh biết tên nàng cũng như tên con tàu nàng đi chứ?

 Anh đã nói về nàng trong giấc ngủ của mình,  tôi đáp.

Một tuần sau, chúng tôi được tàu kéo vào cảng New York.

Nhưng từ đó về sau, Morrow không bao giờ còn được nghe tin tức gì nữa.



THÂN TRỌNG SƠN 

Dịch và giới thiệu 

Tháng 8 / 2025

Nguồn :


https://americanliterature.com/author/ambrose-bierce/short-story/a-psychological-shipwreck/


Aucun commentaire: