dimanche 26 avril 2009

HƯƠNG ĐỒNG GIÓ NỘI





Đã gần hết thập niên thứ nhất của thế kỷ XXI, nền văn minh cơ khí vẫn liên tục phát triển với nhà cao tầng, đường cao tốc, phương tiện làm việc và sinh hoạt đều sử dụng máy móc, ảnh hưởng đến cuộc sống thường ngày của mọi người, tạo nên một nếp sống, nếp nghĩ phù hợp. Giữa bộn bề khói bụi, có ai lắng hồn nhớ lại một thuở thanh bình ngày xưa, nghĩ về cảnh “ hôm qua tát nước đầu đình…” , “ trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa…” , “ trời mưa trời gió, đem đó ra đơm, chạy về ăn cơm, chạy ra mất đó …” ? Có ai nghe những điệu hò cấy lúa, hò đạp nước, hò giã gạo … trên làn sóng điện hay tại những buổi trình diễn công cộng mà nhớ lại hay tưởng tượng được khung cảnh và hoàn cảnh thực sự của những câu hò điệu hát này ? Tìm đâu những hình ảnh sinh hoạt đó, và những công cụ gắn liền với đời sống một xã hội nông nghiệp ? Hãy thử đến với Nhà Trưng Bày Nông Cụ của Xã Thủy Thanh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế, tại khu vực Cầu Ngói Thanh Toàn.


Chiếm một diện tích khiêm tốn ở phía trái nhìn từ cửa vào, góc ngư cụ trưng bày những đồ dùng đánh bắt tôm cá ở sông, hồ, ao, hói…, mọi người có thể nhìn thấy chiếc ghe đánh cá, và hàng chục thứ khác như lưới, sáo, nơm, chẹp sưa, chẹp dày, đơm tôm, đơm cá, nò, sẩy, chuôm, lờ, đó…, mỗi thứ có công dụng riêng, dùng trong những tình huống khác nhau, không phải là nông dân khó mà phân biệt được.




Về nông cụ thì phong phú hơn, dạo quanh đây một vòng là có thể hình dung ra quy trình lao động của người nông dân để làm ra hạt gạo. Trước tiên là cày, bừa, trục, khi bắt đầu làm đất. Lại có cả hình ảnh con trâu với người nông dân tay cầm roi, người khoác chiếc áo tơi (áo khoác đan bằng cói hay lá kè, có thể vừa che mưa vừa chống lạnh ).







Sau khi cấy lúa còn phải đưa nước vào ruộng, với xe đạp nước, các loại gàu dai, gàu sòng, gàu vảy, lúc lúa chín thì có liềm, hái ..để thu hoạch. Hạt lúa đem về được đựng trong thúng, mủng, khối lượng lớn thì phải có ví , bồ mới chứa đủ. Hạt lúa phải được tách cái vỏ cứng bên ngoài ( vỏ trấu ) ruột của nó mới là hạt gạo, công việc này cần đến cái cối xay lúa. Trước khi xay, lúa phải được phơi khô và quạt sạch và phải xay làm sao để cho sạch lúa và gạo không bị nát. Tài tình cách nào thì gạo xay ra vẫn còn lẫn lộn vỏ trấu và lúa còn sót lại, bấy giờ là việc của xe quạt lúa và của các thứ lỉnh kỉnh khác là nia, sàng, giần. Cái nia bằng tre, hình tròn, mặt phẳng, đường kính khoảng 1m. Bỏ từng nhúm gạo mới xay vào nia, hất tung mớ gạo lên rồi hứng lại. Động tác này gọi là sảy, gạo được hứng lại trên nia, còn vỏ trấu nhẹ bay ra và rơi xuống đất. Loại được vỏ trấu, nhưng lúa vẫn còn lẫn trong gạo, tiếp theo là công đoạn sàng gạo. Cái sàng tương tự như cái nia nhưng nhỏ hơn và có lỗ thưa để lọt hạt gạo. Xoay tròn cái sàng thật nhịp nhàng, kết hợp với sảy và lắc thì lúa sẽ túm lại ở giữa còn gạo lọt xuống nia. ( Thành ngữ lọt sàng xuống nia, thường dùng theo nghĩa bóng, xuất phát từ đây). Đã có gạo rồi nhưng vẫn chưa xong, muốn gạo sạch, trắng, còn phải giã, đó là nhiệm vụ của cái cối cái chày. Gạo đã giã xong vẫn còn lẫn với cám, ít vỏ trấu còn sót và ít gạo vỡ hay là tấm. Vậy thì hãy kiên nhẫn làm thêm một động tác nữa để loại trừ các thứ này. Đó là công đoạn sử dụng cái giần, dụng cụ giống như cái sàng nói ở trên với các lỗ nhỏ hơn, tấm cám mới lọt xuống được còn hạt gạo thì giữ lại.






Ngoài những nông cụ trên ở đây còn có nồi các cỡ ( nồi bảy, nồi năm, nồi ba ), chén, tô, bát, mâm, thau, lu, vại, om ….

Như vậy, từ khi cày bừa đất để gieo hạt lúa, rồi gặt, xay, giã, bao nhiêu công đoạn là bấy nhiêu công cụ, hầu như tất cả đều được sưu tầm và trưng bày ở đây, giới thiệu với khách đến xem những hình ảnh tưởng chỉ còn trong ký ức.



Tất cả những nông cụ, ngư cụ trưng bày ở đây trông thật lạ lẫm với nhiều người. Họ nhìn thấy từng vật dụng, đọc bảng chỉ dẫn để biết tên nhưng làm sao hiểu được công dụng của từng thứ, nói chi đến cách thao tác. May thay, có một người túc trực sẵn nơi đây và sẵn sàng giới thiệu cho khách từng nông cụ, tên gọi, cách sử dụng, nếu cần thì biểu diễn làm mẫu. Đó là Mệ Ngảnh, năm nay đã 76 tuổi, tình nguyện làm việc này không lương, đổi lại Mệ được dành cho một góc nhỏ để cái tủ bày bán hàng lưu niệm, là những vật phẩm bằng tre, mẫu vật thu nhỏ các nông cụ trong phòng. Đây là những sản phẩm do chính chồng Mệ làm ra bằng đôi tay khéo léo của mình, rất được du khách ưa thích, làm không kịp bán.





Đi một vòng quanh phòng, Mệ Ngảnh dừng lại trước các dụng cụ tát nước, gàu dai gàu sòng các cỡ, và cái xe đạp nuớc. Mệ trèo lên xe vừa làm động tác mô tả việc đạp nuớc vừa nói. Trai gái ra đồng làm việc, nắng nôi cực nhọc cũng biết hò đối đáp nhau cho đỡ mệt, rứa rồi cũng nên tình nên nghĩa cả đó. Rồi Mệ cất tiếng hò :


- Hỡi anh đạp nước một mình

Cho em đạp với chung tình với anh.

Anh còn đạp nước nữa thôi

Cho em đạp với kết đôi nghĩa tình.

- Ơi em ơi, anh ngồi đạp nước ngó qua

Thấy em tát nước một mình anh cũng xót xa trong lòng.

- Ơi anh ơi hai đứa mình vô can vô cớ

Khi không mà gặp nhau trữa ( giữa)đồng.

Vương lấy chữ tình đêm nhớ ngày thương.

- Ơi em ơi hai đứa mình không phải bà con thân thích

Không phải máu huyết mẹ sinh

Khi không mà gặp nhau trữa đồng

Mà thương đoạn nhớ đành

Đó là ông trời côi ( trên) đã định

Nên hai đứa mình mới thương nhau.


Ở góc bên phải của Nhà Trưng Bày chẳng có nông ngư cụ nào hết mà là các vật dụng sinh hoạt, một cái quạt mo đặt trên một cái chõng ( giường nhỏ), hai chiếc gối, bên cạnh có treo một cái nôi, tất cả đều bằng tre. Tưởng chừng như không có gì để nói ở đây, nhưng thật bất ngờ, Mệ vẫn dừng lại và kể : Mới đầu vợ chồng thương yêu nhau lắm. Thằng chồng nói, kê đầu trên gối tre không êm, em kê trên tay anh nì. Rứa mà tới khi con đầu lòng mới mấy tháng hắn đã nghe ai đó dỗ ngon dỗ ngọt mà bỏ lơ con vợ. Làm thân đàn bà khổ lắm, con vợ biết làm chi mô, cứ than thân trách phận như ri nì :


Ơi anh ơi, hai đứa mình đoạn tình bối rối

Anh không nhớ khi dang tay thế gối cho em kê.

Rượu nồng ai phục anh đã say mê

Anh quên tình chồng nghĩa vợ để mấy lời thề cho em mang.


Ơi anh ơi con chim xa rừng còn thương cây nhớ cội

Anh xa em rồi tội lắm anh ơi..

Chả thà anh không thương em thì thôi

Đã thương em rồi có một đứa con trẻ anh lại bỏ em khúc nôi nửa chừng.

Ơi anh ơi em xa anh chưa đầy tháng

Mà nước mắt lai láng hết hai mươi tám đêm ngày.

Răng chừ nước ráo lòng may

Nước sông Hương hết chảy duyên nợ này em mới hết thương anh !


Cũng may là thằng chồng còn biết nghĩ, nghe con vợ nói rứa hắn cũng động lòng mà quay trở lại :


Thôi thì thôi em ơi

Răng chừ đá dựng bể tư,

Núi kia thành bình địa

Khi nớ anh mới dứt từ nghĩa em !


Hỏi Mệ Ngảnh mệ sáng tác những bài này thế nào, mệ nói thiệt tình mệ có biết chi mô, mệ chỉ học bình dân học vụ, cả đời làm nông làm ruộng, nhưng bày đặt hát hò đối đáp như ri thì quen lắm rồi. Tất cả là hò giã gạo cả đó, bắt đầu môt người xướng “ khoan ơi khoan mời bạn hò là hò ờ ơ ớ khoan … “, hò một câu thì mấy người khác đệm vô “ hờ ơ hớ ơ …” ( gọi là “xô” ) rồi cứ thế cho đến hết bài. Cái nhà trưng bày ni, kêu là nhà truyền thống cũng được, xã làm năm 2006, đến năm 2008 thì tu bổ thêm thắt vô nhân kỳ lễ hội chi đó trên Huế. Khách về chơi đông lắm, Tây Ta đều có, thấy vui mệ mới đặt bài hò như ri :


Cầu Ngói Thanh Toàn có hàng cây xanh

Cây cao gió mát nở nhiều cành

Lại thêm điện đài xung quanh

Hỡi bà con ơi nhìn xem nhà truyền thống xã Tân Thanh

Hai nghìn lẻ tám rạng danh tuyệt vời.


Rứa mà họ vỗ tay ầm ầm. Họ thích thì mệ cũng vui.

Rời Nhà Trưng Bày qua cầu bước ra sân trước, khách đến chỗ khu chợ buổi chiều vắng khách, hàng quán đã dẹp gần hết. Gần bờ sông có quán giải khát khuất sau mấy hàng chậu cây cảnh, chỗ ngồi hướng ra sông Như Ý, chiều gió lộng mát rượi. O chủ quán từ trong bước ra vồn vã. Phải là khách phương xa đến thì tui tặng cho mấy câu hò :


Quê tôi có chiếc cầu xinh

Chiếc cầu rất đẹp uốn mình bắc ngang.

Tên gọi Cầu Ngói Thanh Toàn

Về cầu gió mát ngắm bảo tàng cây xanh.

Em về Cầu Ngói quê anh

Nếu em không biết để anh đưa về.


Lạ chưa, sao cái xã ở vùng quê lại có nhiều “nghệ sĩ nhân dân” thế này ? Chuyện vãn làm quen, lại càng ngạc nhiên khi nghe O Kình ( tên O chủ quán ) nói: Tui còn đặt bài hò kể hết chuyện Lưu Bình Dương Lễ nữa đó. Chừ không hò nhưng tui đọc cho mà nghe.


Dương Lễ : Châu Long em ơi tới đây anh hỏi

Có bạn hiền tên gọi Lưu Bình

Công danh vì ngộ chịu cảnh lênh đênh

Nay chừ em cầm đàn ra đi nuôi bạn

Thay thế mặt mình có đặng không ?

Châu Long : Vâng lệnh phu lang trướng hạ

Thiếp thay chồng nuôi bạn thiếp sợ bỏ quá phòng không

Nuôi Lưu Bình hết khúc giang đông

Em sợ lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy lỗi đạo với chồng chàng ơi.

Dương Lễ : Hỡi em ơi

Ơn hiền thê ngàn năm ghi tạc

Nghĩa hữu bằng bát ngát năm canh.

Thiếp cứ nuôi Lưu Bình kiếm đặng công danh

Dẫu lửa gần rơm lâu ngày có cháy cũng đành nàng ơi.

Châu Long : Nghe lời chàng phân qua mấy lời thật là đáo để

Dặm quan hà đâu kể bao nài

Sợ lòng quân tử tài cao

Em dời chưn qua khỏi cửa má hồng đào lạt phai.

Dương Lễ : Em đừng đem lòng nghi ngại

Chữ chung tình kết ngãi phu thê

Em cứ nuôi Lưu Bình cho bảng yết danh đề

Ai có tấm lòng điêu chạ có nhật nguyệt đôi vành chứng minh.

Châu Long : Nghe lời chàng thề cùng nhật nguyệt

Chữ chung tình da diết keo sơn

Chàng đừng nghe tiếng quyển giọng đờn

Cứ y lời ấy thiếp nguyện xách nón mang vàng ra đi.

Dương Lễ : Nhớ tới Châu Long lệ tuôn đôi mắt

Nhớ tới bạn Lưu Bình ruột thắt tày da

Thiếp mà giữ trọn đào ba

Chàng nay đâu dám đắm nguyệt say hoa lỗi nguyền…


Đọc đến ngang đây nhìn ra trước sân thấy mấy cô gái Tây đạp xe đi tới, O Kình vội vàng : Thôi để bữa khác, rồi chạy ra chào mời khách.


Thật đáng trân trọng sáng kiến của ai đó đã sưu tầm những nông cụ phản ảnh nền văn minh nông nghiệp một thời. Mong sao việc làm này được tiếp tục, biến Nhà Trưng Bày thành một nhà bảo tàng, phong phú hơn, đầy đủ hơn, kèm theo vật trưng bày là những bảng chỉ dẫn chi tiết, giải thích hướng dẫn công dụng. Và ngoài nghề nông còn những ngành nghề cổ truyền khác nữa, cũng nên lưu giữ lại. Nếu không thì tất cả sẽ chìm vào quên lãng, một mất mát to lớn cho thế hệ trẻ muốn tìm về cội nguồn.

Và cũng thật đáng quý những người như Mệ Ngảnh, O Kình, rất thoải mái tự nhiên gìn giữ phát huy những câu hò điệu hát đặc trưng của quê hương.

Việc làm đầy ý nghĩa này, những con người bình dị này đã góp phần làm cho hương đồng gió nội không bị bay đi ít nhiều !


THÂN TRỌNG SƠN



samedi 4 avril 2009

VỀ HIỆN TƯỢNG THƠ BÚT TRE



Có người gọi là trường phái thơ Bút Tre, có người lại nói dòng thơ Bút Tre, tuy không hề có lý thuyết, tuyên ngôn, không hề có chủ soái, thủ xướng phong trào, đơn giản chỉ vì cứ nghe những câu như thế này thì ai cũng biết : thơ Bút Tre đó :


Thi đua ta quyết tiến lên

Tiến lên, ta quyết tiến lên hàng đầu

Hàng đầu không biết đi đâu

Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi


Con đò dịch đít sang ngang

Bên kia có một cái làng thò ra.


Anh đi chiến dịch bản Mường

Tè xong rồi lại tìm đường về xuôi.


Phụ nữ thường rất hay lươi

Ri êng em anh thấy là người cần cu.



Thơ Bút Tre tất nhiên là thơ của tác giả Bút Tre nhưng đồng thời cũng là thơ của … ai đó không biết làm theo kiểu Bút Tre ( những câu trên thuộc cả hai trường hợp này).


Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đang ( 1911-1987 ), người xã Đồng Lương, Sông Thao, Vĩnh Phú. Từng đỗ Tú tài Pháp, từng viết báo, in sách, dạy học, từng công tác trong ngành văn hóa, có khi lên đến chức trưởng ty. Và công việc này hẳn là nhiều lúc yêu cầu Ông phát biểu ý kiến, mà Ông lại thích phát biểu bằng … thơ. Đại loại như thế này, nói về nhiệm vụ của ngành văn hóa hoặc ca ngợi lao động sản xuất, hô hào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp :


Bây giờ đang đứng trưởng ty

Bút Tre thơ phú tôi thì có sau

Cuối cùng xin nhắc một câu

Văn hóa cơ sở là đầu chúng ta.


Ông Khiêm kể cũng đã tài

Trong chuồng sáu lợn có vài con to

Ông Lai theo Đảng dặn dò

Chuồng ông bảy lợn chăm cho béo tròn.


Những câu “thơ” như thế chắc là không sống được lâu, nhưng Ông vẫn tiếp tục làm và nhiều lúc là ứng tác, kịp thời phản ánh một sự kiện, ca ngợi một nhân vật nào đó :


Anh đi đồng ruộng lắng nghe

Lúa mừng phân bắc, khoai che mảnh vườn.

( Anh đây là Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương Nguyễn Chí Thanh ).


Chú sang công tác bảo tàng

Đó cũng là việc cách màng giao cho.


Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên

Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về.



Nhiều người thấy là lạ, ngồ ngộ cái kiểu thơ đó : hình ảnh, chữ nghĩa bất ngờ, ngắt câu hạ chữ độc đáo, và nhất là cái lối đổi thanh, đổi dấu cho hợp luật trắc bằng. Mà thú vị nhất là những câu như thế chỉ được “xuất bản miệng” cho nên thiên hạ mặc sức “tái bản” và tự dành quyền chỉnh sứa, thêm thắt . Nếu “anh đi đồng ruộng lắng nghe” có người không biết anh nào đây thì cứ nói rõ ra :


Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh

Anh về phân bắc phân xanh đầy đồng.


Và từ đó hoan hô tiếp :


Hoan hô đồng chí Phạm Tuân

Bay vào vũ trụ một tuần về ngay.


Hoan hô đồng chí Trần Hoàn

Lên làm bộ trưởng chiếu toàn phim hay !


Hoan hô bác Võ Chí Công

Cho làm khoán hộ ruộng đồng tốt tươi.


Chẳng thấy ai đòi bản quyền, mà thật ra làm sao biết được ai là tác giả đầu tiên, cứ thấy thích thì mô phỏng và sáng tác thêm, và cứ thế dần dà lúc này lúc khác, chỗ nọ chỗ kia lan truyền những bài thơ, câu thơ kiểu như vậy để hình thành một hiện tượng gọi là thơ Bút Tre dân gian. Qua bao nhiêu bài được phổ biến ta có thể rút ra mấy đặc điểm sau đây :



1. Đầu tiên là việc sử dụng những hình ảnh sáng tạo, bắt nguồn từ những liên tưởng bất ngờ, có khi tưởng như ngây ngô nhưng ngầm dụng ý gây cười :


Tiễn anh lên bến ô tô

Đêm về em khóc ... tồ tồ cả đêm


Nhớ quê ra đứng đỉnh đèo

Bỗng đâu thấy một chú mèo gâu gâu

Dừng chân đứng lại trên cầu

Bỗng đâu thấy một con trâu vàng vàng


Hôm nay trên quốc lộ hai

Thể nào cũng có một vài ô tô.


Ta đi bầu cử tự do

Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm


Anh đi giường chiếu lặng câm

Anh về giường chiếu reo ầm cả lên

Anh đi em bấm đốt tay

Anh về em bấm chỗ này chỗ kia.



2. Thứ hai là những câu thơ viết sai vần. Nên biết rằng luật thơ lục bát thường yêu cầu phải có vần : chữ thứ sáu của câu “lục” phải cùng vần với chữ thứ sáu của câu “bát”, rồi chữ cuối của câu “bát” lại vần với chữ cuối của câu “lục” tiếp theo.


Cô em má đỏ hồng hồng

Buôn xuôi bán ngược có chồng hay chưa ?

Xe đò ai đón ai đưa ?

Mà em đi sớm về trưa một mình. ( Bàng Bá Lân ).


“Hồng” và “chồng”, “chưa”, “đưa” và “trưa” : tất cả đều cùng một âm, như thế là vần chính.


Đèo nhau ta dạo phố vui
Thong dong xe đạp ngược xuôi dòng đời
Chở theo khúc khích tiếng cười
Chuyện trò như thể không người chung quanh. ( Diệp Minh Tuyền )


“Vui” và “xuôi”, không cùng âm mà chỉ tương tự,“đời” và “cười” cũng vậy, như thế gọi là vần thông.


Còn không cùng âm mà cũng không có âm tương tự thì đích thị là thơ lạc vận, thơ sai vần.


Phải đâu muốn được ai yêu

Là tôi cứ nói dông dài trước sau . ( LMQ)

( Muốn cho có vần thì viết : Là tôi cứ việc nói nhiều nói dai, chẳng hạn.)


Lạc vận có thể vì bí, có thể vì trọng ý tứ nên hy sinh vần điệu. Nhưng thơ Bút Tre thì lạc vận một cách cố ý, để cho người đọc tự sửa lại cho có vần :


- Khen thay giám đốc sở mình

Làm việc thì ít xuất… ngoại thì nhiều.


- Đồ Sơn sóng biển dập dồn

Mấy cô thiếu nữ ngứa chân chạy quanh. ( hoặc : … ngửa lưng ra phơi ).


( Thì cũng giống như Vân Tiên ngồi cạnh bụi môn / Chờ cho trăng khuất bóp …chân Nguyệt Nga , chọn chữ nào cho hợp vần ở đây thật là gay, chả thế mà người ta dặn nhau : “Làm thơ nên tránh vần ‘ôn” / Uống rượu nên tránh làm ồn nói to ! )


- Trên cành con khỉ đánh đu,

Có anh cán bộ vạch cây bên đường.


( Hai câu này khiến ta liên tưởng đến khổ thơ đầu của bài “Con cá nhỏ và người đánh cá ”, Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ ngụ ngôn La Fontaine :


Miễn là cá sống dưới hồ

Cỏn con cũng có ngày to kếch xù

Nhưng mà cá đã cắn cu

Thả ra tôi nghĩ còn ngu nào tày.

“cắn cu” nghĩa là “cắn câu ” ! )


3. Đổi dấu các chữ cho hợp luật thơ ( Tam Đao hiểu là Tam Đảo, cần cu thay cho cần cù …) bởi lẽ thơ lục bát yêu cầu viết đúng luật bằng (B) trắc (T) .


Câu lục : Các chữ thứ 2, 4, và 6 : - B – T – B

Câu bát : Các chữ thứ 2, 4, 6, và 8 : - B - T – B – B


Mặt khác, hai chữ thứ 6 và 8 của câu bát tuy cùng là Bằng nhưng phải khác thanh, nếu chữ thứ 6 không dấu ( phù bình thanh ) thì chữ thứ 8 phải dấu huyền ( trầm bình thanh ), và ngược lại.

Bốn câu thơ sau đáp ứng tất cả yêu cầu về bằng trắc và về thanh nói trên :


Nắng chia (B) nửa bãi (T) chiều rồi (B)

Vườn hoang (B) trinh nữ (T) khép đôi (B) lá rầu (B)

Sợi buồn (B)con nhện (T)giăng mau (B)

Em ơi (B)hãy ngủ (T) , anh hầu (B) quạt đây (B). ( Huy Cận )


Cái việc sửa dấu thế này trong thơ Bút Tre có lúc làm cho chữ mang một nghĩa khác :


Một lần đến nghỉ Tam Đao,

Loanh quanh không biết chỗ nào để ngu.

Một giường bố trí hai cù

Mỗi cù kiếm một cái mu gối đầu. ( hoặc : Sướng khô đành chịu đến chu nhật về ).


Ngày nay khắc phục gian kho

Ngày mai mới có ấm no tương lài.


Liên Xô rất đỗi tự hào

Anh Ga-ga-rỉn bay vào vũ tru.


Đoàn vừa ghé xuống Mũi Ne

Ngó ra thấy những chiếc ghe thật bừ.


4. Ngắt câu, xuống dòng bất ngờ. Dòng trên chưa hết ý, phải đọc tiếp dòng sau mới hiểu, kiểu như ” Lúa ở đồng tôi và lúa ở / Đồng nàng và lúa ở đồng quanh” - Nguyễn Bính ).


Nhớ nhung về thị xã Phan

Thiết tha tơ tưởng cô hàng nước măm.


Anh đi công tác Cam Pu

Chia chiến lợi phẩm ở tù ba năm.


Mời anh vào quán kara

OK em đã mở ra sẵn sàng.


Mấy em mặc váy đánh cầu

Lông bay phất phới trên đầu các anh.


Hôm qua anh đến chơi nhà

Thấy mẹ chăn vịt thấy cha chăn ngồng

Thấy em hát nhạc Trịnh Công

Sơn xanh sơn đỏ anh không dám vào.


Lần đầu đến nước Xin-Ga

Po vào rồi lại po ra hại đồ

Tuần sau lại đến nước Bồ

Đào Nha rồi lại đào nhô mệt quà

Thế rồi lại đến nước Hoa

Kỳ đi kỳ lại Cu Ba đây rồi.


Cũng có khi dòng trên đã có nghĩa, nhưng nối với dòng sau lại là nghĩa khác :


Chị em nô nức đặt vòng

Hoa mộ liệt sĩ tỏ lòng biết ơn.


Tại vì em chẳng có kinh

Nghiệm nên không thể một mình giúp anh.


5. Từ một bài, một câu thơ Bút Tre không rõ tác giả, mọi người có thể thêm bớt, mô phỏng và đưa ra câu khác, không ngại ai nói đạo văn, đạo thơ gì.


Hai câu sau đây, phổ biến từ lâu, hầu như ai cũng biết :

Anh đi công tác Pơ Lây

Ku dài dằng dặc biết ngày nào ra.


được ai đó thêm vào :

Còn em em ở lại nhà

Cửa mình em mở người ra người vào.

( chắc là lấy cảm hứng từ câu : Chị em du kích tài thay / Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa mình !)

hoặc sửa một chữ rồi viết tiếp :


… Ku dài dằng dặc biết ngày nào vê

Anh đi công tác Buôn Mê

Thuột xong một cái anh về với em.


Cũng mấy câu quen thuộc khác :

Chưa đi chưa biết Đồ Sơn


Đi rồi mới biết chẳng hơn đồ nhà

Đồ nhà tuy có hơi già ( hoặc : tuy rất tương cà )

Nhưng là đồ thật chẳng là đồ sơn.


Và nhiều người tiếp tục cải biên :


Chưa đi chưa biết Vũng Tàu

Đi rồi mới biết ta giàu hơn tây

Đúng là họ thiếu vải may

Hai mảnh bé xíu làm vày làm ao.


Chưa đi chưa biết Cà Mau

Đi rồi mới biết không đâu bằng nhà

Cà nhà tuy có hơi già

Nhưng là cà chậm không là cà mau.


Từ hai câu “ Nhớ nhung về thị xã Phan / Thiết tha tơ tưởng cô hàng nước măm ”, có người đã nối theo :


Vội vàng về thị xã Phan

Rang ngay đậu phụng đón bàn tới thăm.


Và :

Gặp nhau ở thị trấn Phan

Rí ra rí rủm chuyện vàn suốt đêm.


Có thể nói đặc điểm thứ năm này đã làm nên sức sống cho thơ Bút Tre, làm cho nó tồn tại, phát triển, lan truyền rộng khắp. Ai cũng đã từng nghe, từng thuộc, từng làm, từng phổ biến loại thơ này, trong Nam ngoài Bắc, người già người trẻ, trí thức bình dân, có cơ hội là viết cho nhau đọc, đọc cho nhau nghe để cùng cười với nhau. Có khi chỉ là tiếng cười dễ dãi, vô thưởng vô phạt.( Chồng người du kích sông Lô / Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần ). Mà đâu chỉ có vậy, đọc đi rồi đọc lại, nghe qua và nghe nữa thì mới thấy tiếng cười của thơ Bút Tre là tiếng cười của truyện tiếu lâm dân gian, của hò vè, ca dao. Nó phản ánh muôn mặt đời sống xã hội một cách trào lộng, châm biếm và nhiều khi ngụ ý phê phán nữa. Người ta thích câu “Mừng ngày bầu cử tự do / Những người xứng đáng thì cho vào hòm ” đâu phải chỉ vì tác giả chơi chữ ( hòm = hòm phiếu, thùng phiếu, và hòm = quan tài ) ! Nhiều câu nghe có vẻ ngây ngô, ngớ ngẩn ( Từ trong hang đá đi ra / Vươn vai một cái rồi ta đi vào ) nhưng phải chăng chỉ là sự ngớ ngẩn giả vờ để diễu cợt. ( “… Hàng đầu không biết đi đâu / Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi.” “ Mấy ông lãnh đạo của mình / Trước rất ghét Mỹ nay hình như thương !” ).



Trên hết thảy vẫn là cái thông minh, dí dỏm thường thấy trong văn học dân gian, không hề thô sơ, thô thiển mà đầy tính nghệ thuật , với nhiều biện pháp tu từ, chơi chữ , nào điệp âm điệp ngữ, ngoa ngữ, nói lái, nào từ đống âm, từ nhiều nghĩa, chuyển đổi từ loại …


Bốn ông chung một dĩa lòng

Lợn ngồi chễm chệ bên thùng bia hơi.


Con ruồi là giống hiểm nguy

Bốn chân của nó rất vi trùng nhiều.


I-meo anh viết thật bay

Bướm em mong đợi cả ngày lẫn đêm.


Nhà máy sản xuất nhiều mu

Để đem đi bán các chu đội đầu

An toàn ta nhắc nhở nhau

Hễ đi xe máy hàng đầu là mu .



Tất nhiên bên cạnh những người thích thơ Bút Tre vẫn có người không thích, thậm chí chê, nhưng ai cũng phải thừa nhận : hiện tượng thơ Bút Tre, với những đặc điểm về hình thức và nội dung như trên, là có thật, một hiện tượng khá độc đáo chưa từng thấy trong văn học nước nhà. Thơ Bút Tre đã và vẫn đang đi vào quần chúng.


Khen chê thì cũng chẳng sao

Thơ Bút Tre vẫn đi vào quần chung

Chê khen có sái có đùng

Thơ Bút Tre vẫn quần chùng mà ra !


---------------------------

Tài liệu tham khảo :

Wikipedia tiếng Việt.

Thơ Bút Tre đời mới - Nguyễn Vũ Tiềm – nxb THANH NIÊN 2001.



THÂN TRỌNG SƠN